Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vai trò của kitô giáo trong văn hóa - xã hội nhật bản giai đoạn từ 1945 đến nay...

Tài liệu Vai trò của kitô giáo trong văn hóa - xã hội nhật bản giai đoạn từ 1945 đến nay

.PDF
76
513
114

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- ĐỖ THỊ KIM THOA VAI TRÕ CỦA KITÔ GIÁO TRONG VĂN HÓA - XÃ HỘI NHẬT BẢN GIAI ĐOẠN TỪ 1945 ĐẾN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Châu Á Học HÀ NỘI 1 2013 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- ĐỖ THỊ KIM THOA VAI TRÕ CỦA KITÔ GIÁO TRONG VĂN HÓA - XÃ HỘI NHẬT BẢN GIAI ĐOẠN TỪ 1945 ĐẾN NAY Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Châu Á Học Mã số: 60 31 50 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS Đỗ Quang Hƣng HÀ NỘI - 2013 2 MỤC LỤC DANH MỤC CÁC BẢNG .................................................................................... 4 MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 5 CHƢƠNG 1 ......................................................................................................... 13 KHÁI LƢỢC VỀ KITÔ GIÁO VÀ SỰ TRUYỀN BÁ VÀO NHẬT BẢN ....... 13 1.1 Khái lƣợc về Kitô giáo ............................................................................... 13 1.2 Khái lƣợc lịch sử truyền đạo Kitô vào Nhật Bản ....................................... 19 CHƢƠNG 2 ......................................................................................................... 30 VAI TRÕ CỦA KITÔ GIÁO ĐỐI VỚI GIÁO DỤC - Y TẾ VÀ CÔNG TÁC XÃ HỘI NHẬT BẢN TỪ 1945 ĐẾN NAY .............................................................. 30 2.1 Vai trò của Kitô giáo đối với giáo dục Nhật Bản ................................... 31 2.2 Vai trò của Kitô giáo đối với y tế và công tác xã hội .............................. 41 CHƢƠNG 3 ......................................................................................................... 50 VAI TRÕ CỦA KITÔ GIÁO ĐỐI VỚI SINH HOẠT VĂN HÓA CỦA NHẬT BẢN TỪ 1945 ĐẾN NAY ...................................................................... 50 3.1 Đám cƣới theo phong cách Công giáo ....................................................... 51 3.2 Lễ Giáng Sinh ............................................................................................ 55 KẾT LUẬN ......................................................................................................... 62 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 67 PHỤ LỤC ............................................................................................................ 74 3 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Số lƣợng các cơ sở giáo dục của tổ chức Công giáo 2.1 Nhật Bản qua một số năm 33 Số lƣợng các công trính từ thiện của tổ chức Công 2.2 giáo Nhật Bản qua một số năm 4 46 MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài luận văn Tìn ngƣỡng nói chung và tôn giáo của một dân tộc n ói riêng là một trong những yếu tố biểu hiện rõ nét nhất thế giới quan và nhân sinh quan của dân tộc đó. Đối với Nhật Bản điều này cũng không phải là một ngoại lệ. Thần Đạo, Phật giáo và Kitô giáo đã biểu hiện rất rõ nét cách nhín thế giới của ngƣời Nhật. Tuy nhiên phải nói rằng Nhật Bản là một trong những quốc gia có sự không nhất quán về tôn giáo khi điều tra về số lƣợng những ngƣời theo đạo. Tổng số lƣợng những ngƣời theo các loại tôn giáo khác nhau bao giờ cũng cao hơn tổng dân số của cả nƣớc rất nhiều. Ngƣời Nhật hính thành những thói quen và thực hành các phong tục tập quán có nguồn gốc và theo phong cách tôn giáo khác nhau. Họ đến lễ ở các đền của đạo Shinto (Thần đạo) vào năm mới, đi thăm các chùa chiền của đạo Phật vào mùa xuân nhƣng tổ chức tiệc tùng và tặng quà nhau vào dịp lễ Noel theo cách của đạo Kitô. Nếu nhƣ ma chay thƣờng đƣợc tiến hành theo nghi lễ của Phật giáo thí đám cƣới lại thƣờng mang phong cách của Thần đạo hoặc Kitô giáo. Theo số liệu thống kê đến cuối tháng 12 năm 2008, số lƣợng những ngƣời theo đạo Kitô ở Nhật tƣơng đối ìt, chiếm khoảng 1.1% dân số [44], song cộng đồng này có tiếng nói và những đóng góp nhất định trên lĩnh vực văn hóa - xã hội bằng những việc làm thiết thực góp phần trực tiếp hoặc gián tiếp vào sự tiến bộ xã hội Nhật Bản, không chỉ làm thay đổi diện mạo văn hóa mà còn làm phong phú hơn bản sắc văn hóa dân tộc tạo tiền đề phát triển xã hội. Nói đến Giáo hội Nhật Bản ngƣời ta thƣờng nói rằng đó là giáo hội anh hùng vƣợt lên số phận lịch sử nghiệt ngã. Cũng giống nhƣ nhiều nƣớc Châu Á khác, Nhật Bản cũng có sự hính thành cộng đồng Kitô giáo qua những bƣớc thăng trầm khác nhau. Tuy nhiên, quá trính hính thành và phát triển của tôn giáo này ở đất nƣớc “mặt trời mọc” có nhiều điểm đặc biệt hơn ở những nơi khác. Có 5 thể nói lịch sử hính thành giáo hội Kitô giáo Nhật Bản đã trải qua những trang sử thấm đầy máu, nƣớc mắt và cả sự đấu tranh để tồn tại dù dƣới hính thức ẩn danh hay lộ diện . Từ thế kỷ 18 khi các nƣớc phƣơng Tây đã lần lƣợt tiến lên con đƣờng tƣ bản chủ nghĩa thí Nhật Bản vẫn đang thi hành chình sách "bế quan toả cảng" cô lập với thế giới bên ngoài của chế độ Mạc Phủ. Nhƣng chỉ trong vòng hơn 200 năm, Nhật Bản đã trở thành một trong 13 nƣớc tƣ bản phát triển nhất trên thế giới. Sự phát triển của Nhật đã làm cho thế giới chú ý, và ngƣời ta đua nhau tím hiểu về Nhật Bản, về quá trính phát triển kinh tế của Nhật Bản. Những tím hiểu đó đã đem đến một kết quả đáng kinh ngạc đó là trong giai đoạn 1952 - 1973, kinh tế Nhật Bản phát triển với một tốc độ vƣợt bậc, ngƣời ta gọi giai đoạn này là "giai đoạn phát triển thần kỳ của Nhật Bản". Sau chiến tranh thế giới thứ 2, từ một nƣớc bại trận phải đầu hàng đầu minh vô điều kiện, nền kinh tế thí bị tàn phá nặng nề, Nhật Bản đã vƣơn lên thành cƣờng quốc kinh tế thứ hai trên thế giới sau Mỹ vào năm 1968. Những điều đó làm cho chúng ta phải tự đặt ra những câu hỏi: Sự phát triển thần kỳ của Nhật Bản là do những nguyên nhân gí và tại sao Nhật Bản vừa đạt đƣợc tốc độ tăng trƣởng kinh tế cao và liên tục trong điều kiện đất nƣớc mới thoát khỏi chiến tranh, vừa đồng thời giảm đƣợc bất bính đẳng. Các nhà nghiên cứu về kinh tế và phát triển lại cùng nhau đi tím câu trả lời. Một số công trính đã lý giải sự thành công của Nhật Bản bằng những yếu tố văn hóa và thể chất, những yếu tố mang đặc thù Phƣơng Đông truyền thống, chẳng hạn nhƣ vai trò của Khổng giáo và các thiết chế gia đính. Một loạt các công trính khác, đặc biệt là báo cáo nghiên cứu "Sự thần kỳ Đông Á" của nhóm chuyên gia Ngân hàng thế giới xuất bản năm 1993, đánh giá rất cao vai trò của chình sách cộng đồng trong tăng trƣởng kinh tế và giảm bất bính đẳng ở Nhật Bản. Một trong những lý do đƣợc các nhà nghiên cứu quan tâm phân tìch đó là vai trò của nhân tố con ngƣời trong sự phát triển kinh tế của Nhật Bản hay nói rõ hơn là vấn đề giáo dục, quản lý nhân công… Những công trính đó đã đạt đƣợc 6 một số thành công nhất định trong việc phân tìch nguyên nhân làm nên giai đoạn phát triển thần kỳ của Nhật Bản. Qua từng chặng đƣờng phát triển kinh tế của Nhật Bản với những điều kiện bƣớc đầu không mấy thuận lợi nhƣng bù lại Nhật Bản lại có những định hƣớng, chình sách quản lý đúng đắn của nƣớc Nhật. Điều đó làm thức tỉnh cho tất cả mọi nƣớc đang phát triển phải học tập, nhất là đối với Việt Nam khi nƣớc ta đang có những xu hƣớng phát triển kinh tế, thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nƣớc. Sự phát triển vƣợt bậc và làm cả thế giới biết đến Nhật Bản không phải là trong chốc lát một sớm một chiều. Đó là kết quả của quá trính kết tinh, hội tụ các yếu tố, trong đó việc du nhập kiến thức, khoa học kỹ thuật phƣơng Tây đóng một vai trò vô cùng lớn lao mà Kitô giáo chình là cầu nối trực tiếp và gián tiếp cho quá trính du nhập đó. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài luận văn Hiện nay đã có không ìt những công trính nghiên cứu về Nhật Bản ở Việt Nam và thế giới trong đó có một số công trính đề cập đến tôn giáo ở Nhật Bản. Nhƣng viết chuyên về Kitô giáo Nhật Bản thí gần nhƣ chƣa có và lại càng khan hiếm những đề tài viết về vai trò của tôn giáo này đối với văn hóa xã hội Nhật Bản giai đoạn 1945 đến nay. Phạm Hồng Thái với công trính “Đời sống tôn giáo Nhật Bản hiện nay” (Nhà xuất bản Khoa học xã hội – 2005). Tác giả là một trong những chuyên gia hàng đầu của Việt Nam về Nhật Bản ở lĩnh vực tôn giáo. Trong công trính này tác giả đã khái quát đƣợc diện mạo chủ yếu của tôn giáo Nhật Bản bằng việc đề cập đến hầu hết các tôn giáo chình nhƣ Thần đạo, Phật giáo, Kitô giáo và các giáo đoàn thuộc hệ Kitô giáo. Tác giả cũng dành thời lƣợng chủ yếu để đề cập đến vấn đề tôn giáo trong đời sống văn hóa xã hội Nhật Bản hiện nay. Tuy nhiên công trính chủ yếu viết về sự xuất hiện của các tôn giáo mới và ảnh hƣởng của chúng đến văn hóa xã hội cũng nhƣ trong quá trính hiện đại hóa đất nƣớc Nhật 7 Bản mà không đề cập nhiều đến Kitô giáo ngoại trừ một phần nói về giáo dục. Bên cạnh đó tác giả cũng viết về chình sách tôn giáo của nhà nƣớc Nhật Bản từ 1945 đến nay. Công trính này có ý nghĩa tham khảo cao nhƣng lại không nhiều do tác giả công trính không tập trung khai thác về Kitô giáo nói riêng. Nguyễn Văn Kim với “Nhật Bản với châu Á – Những mối liên hệ lịch sử và chuyển biến kinh tế – xã hội” Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003. Với rất nhiều đầu sách và các bài viết nghiên cứu khoa học đã đƣợc đăng tải trên các tạp chì, Kỷ yếu khoa học trong nƣớc và quốc tế, tác giả là chuyên gia hàng đầu ở Việt Nam về lĩnh vực lịch sử thế giới nói chung và lịch sử Nhật Bản nói riêng. Với cuốn sách hơn 500 trang trên đây trên cơ sở phân tìch mối quan hệ bang giao của Nhật Bản với một số nƣớc tiêu biểu trong khu vực, tác giả đã trính bày tƣơng đối chi tiết về những mối liên hệ lịch sử và chuyển biến kinh tế xã hội của Nhật Bản với châu Á tập trung ở thời kỳ Edo. Tác phẩm cho ngƣời đọc một cái nhín tƣơng đối đa diện và hệ thống về một số vấn đề tiêu biểu trong lịch sử xã hội cũng nhƣ đời sống văn hóa Nhật Bản. Đặc biệt có một phần nói về xã hội Nhật Bản cuối thế kỷ XVI - đầu thế kỷ XVII qua con mắt của giáo sỹ Allesandro. Mặc dù không đề cập nhiều đến Kitô giáo cũng nhƣ vai trò của tôn giáo này đối với Nhật Bản nhƣng tài liệu cũng là nguồn tƣ liệu quì báu cho tác giả luận văn tham khảo và khai thác hoàn thiện đề tài của mính. Đồng thời cũng gợi mở cho tác giả có những hƣớng suy nghĩ mới mẻ. Trƣơng Ngọc Dũng với cuốn Nhật Bản học, Nxb Tổng hợp Tp HCM, 2008. Trong chuyên luận này tác giả phân tìch mối quan hệ giữa Tôn giáo và chình trị trong lịch sử Nhật Bản đồng thời đề cập đến vai trò của đạo Thiên chúa đối với tiến trính hiện đại hóa Nhật Bản. Tuy nhiên tác giả không đề cập nhiều đến quá trính truyền giáo cũng nhƣ chỉ đề cập đến một vài ảnh hƣởng nhỏ của Kitô giáo với Nhật Bản trong giai đoạn đầu. Sueki Fumihiko với cuốn Lịch sử tôn giáo Nhật Bản. Tác giả là một chuyên gia hàng đầu của Nhật Bản trong lĩnh vực nghiên cứu lịch sử tƣ tƣởng, 8 đặc biệt là tƣ tƣởng tôn giáo hiện nay. Ông đã có một thời gian dài giảng dạy tại đại học Tokyo sau đó chuyển sang công tác tại trung tâm nghiên cứu văn hóa Nhật Bản Quốc tế (Nichibunken), nơi tập trung nhiều chuyên gia hàng đầu của Nhật Bản về các lĩnh vực trong ngành khoa học xã hội nhân văn. Khác với Maruyama Masao, một cây đại thụ trong nghiên cứu tƣ tƣởng Nhật Bản, trong trƣớc tác này Sueki Fumihiko đã tái cấu trúc khái niệm cổ tầng và thiết định đây là thứ đƣợc hính thành và bồi tụ trong quá trính lịch sử, chứ không phải là yếu tố bản sắc bất biến. Với những kiến thức uyên thâm và lập luận chặt chẽ, ông đã nhƣ một ảo thuật gia sử dụng khái niệm này để bóc tách các tầng văn hóa có đƣợc bởi các tôn giáo nhằm tím ra cổ tầng, yếu tố chi phối toàn bộ tƣ duy, tƣ tƣởng tôn giáo của Nhật Bản. Cũng trong tác phẩm này Sueki Fumihiko đã đƣa ra cách nhín toàn diện về luồng tƣ tƣởng dẫn đến việc Nhật Bản tham chiến. Tuy nhiên cũng trong trƣớc tác này thí phần để nói về Kitô giáo không nhiều. Dƣờng nhƣ nó chỉ là phần điểm xuyết bên cạnh việc tập trung nói về Thần Đạo và Phật Giáo. Tác giả Joseph M.Kitagawa với cuốn Nghiên cứu tôn giáo Nhật Bản. Tác giả là một học giả nổi tiếng ngƣời Nhật có nhiều năm nghiên cứu và giảng dạy lịch sử tôn giáo Nhật Bản, Phƣơng Đông học ở các trƣờng Đại học Hoa Kỳ. Trong công trính tác giả đề cập đến hầu hết các loại tôn giáo ở Nhật Bản trong đó nhấn mạnh nhiều đến Phật giáo. Tuy nhiên điểm hạn chế của đề tài là tác giả chƣa trực tiếp đánh giá ảnh hƣởng của tôn giáo đối với xã hội nói chung và đời sống tinh thần của xã hội Nhật Bản nói riêng cũng nhƣ chƣa đề cập đến vai trò của Kitô giáo ở Nhật Bản. Joseph Jennes, CICM với cuốn Lịch sử giáo hội công giáo Nhật Bản. Tác phẩm trính bày tƣơng đối chi tiết về lịch sử hính thành giáo hội Công Giáo Nhật Bản theo các mốc lịch sử. Đặc biệt đề cập sâu đến phần ảnh hƣởng của các sách vở Trung - Âu do các thừa sai Dòng Tên ở Trung Quốc viết và đƣợc bì mật đƣa sang Nhật Bản. Hơn nữa, một phần về số phận của các Kitô hữu lƣu vong tại 9 nhiều khu định cƣ khác nhau ở Đông Nam Á cũng đƣợc đề cập đến. Tác phẩm đƣợc xem nhƣ là một tài liệu chi tiết cho những ai muốn tím hiểu về lịch sử giáo hội. Tuy nhiên, tác phẩm chƣa đề cập nhiều đến những ảnh hƣởng của Kitô giáo đối với văn hóa xã hội Nhật Bản. Và một điểm hạn chế nữa của tác phẩm là mới chỉ viết đến thời kỳ Minh Trị. Ngoài ra cũng còn có nhiều công trính khác nghiên cứu về tôn giáo Nhật Bản nhƣng chủ yếu là về Phật giáo và Thần đạo. Ở nƣớc ta chƣa hề có công trính nào tập trung viết về vai trò của Kitô giáo với văn hóa – xã hội Nhật Bản từ 1945 đến nay. Công trính này hy vọng có những đóng góp đầu tiên về vấn đề này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích Luận văn tập trung làm rõ vai trò của Kitô giáo trong một số lĩnh vực văn hóa, xã hội nổi bật của Nhật Bản nhƣ: giáo dục, y tế - công tác xã hội, sinh hoạt văn hóa. 3.2. Nhiệm vụ Trên cơ sở phân tìch các đặc điểm, các giai đoạn phát triển của Kitô giáo cũng nhƣ các nhân tố tác động qua lại, luận văn chứng minh đƣợc vai trò của tôn giáo này đối với một số lĩnh vực văn hóa xã hội Nhật Bản từ 1945 đến 2010. Đồng thời cũng để ngƣời đọc hính dung đƣợc một cách cơ bản nhất quá trính phát triển tôn giáo này ở Nhật Bản. 4. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu của luận văn Ví những điều kiện khách quan và chủ quan tác giả luận văn chỉ lựa chọn một số lĩnh vực văn hóa xã hội tiêu biểu để nghiên cứu và giới hạn chủ yếu trong khoảng thời gian từ 1945 đến 2010. 10 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn - Cơ sở lý luận: Luận văn chủ yếu vận dụng lý luận triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử về tôn giáo để nghiên cứu. Luận văn tham khảo một số công trính nghiên cứu chình của ngƣời Nhật và các học giả Việt Nam cũng nhƣ nƣớc ngoài về lịch sử truyền giáo, tính hính đạo Kitô ở Nhật Bản (từ năm 1945 đến khoảng 2010) Tác giả cũng khai thác một số công trính nghiên cứu của các tác giả Nhật Bản về mối quan hệ của Kitô giáo với sự phát triển của Văn hóa – xã hội Nhật Bản từ 1945 trở lại đây đặc biệt trên lĩnh vực hội nhập văn hóa Đông Tây; quá trính hiện đại hóa của văn hóa và xã hội Nhật Bản. Luận văn có tham khảo một số công trính mới xuất bản gần đây của các tác giả Việt Nam về Lịch sử, Lịch sử Tôn giáo và Lịch sử Văn hóa Nhật Bản. - Phương pháp nghiên cứu: Luận văn vận dụng kết hợp các phƣơng pháp nghiên cứu nhƣ phƣơng pháp phân tìch, so sánh hệ thống, khái quát nói chung trên cơ sở tiếp thu thành tựu có liên quan từ những tài liệu sẵn có. 6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn Đóng góp thêm những nghiên cứu mới về vai trò của Kitô giáo trong đời sống văn hóa xã hội Nhật Bản từ 1945 đến 2010 thông qua một số lĩnh vực cụ thể. Mở ra thêm một hƣớng nghiên cứu mới về Kitô giáo Nhật Bản nói riêng và trên thế giới nói chung. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận luận văn đƣợc chia thành 3 chƣơng: 11 Chƣơng 1. Khái lƣợc về Kitô giáo và sự truyền bá vào Nhật Bản Chƣơng 2. Vai trò của Kitô giáo đối với giáo dục, y tế và công tác xã hội của Nhật Bản từ 1945 đến nay Chƣơng 3. Vai trò của Kitô giáo đối với sinh hoạt văn hóa của Nhật Bản từ 1945 đến nay 12 CHƢƠNG 1 KHÁI LƢỢC VỀ KITÔ GIÁO VÀ SỰ TRUYỀN BÁ VÀO NHẬT BẢN 1.1 Khái lƣợc về Kitô giáo Tôn giáo xuất hiện từ rất lâu và con ngƣời mặc nhiên chấp nhận nó. Việc đặt ra câu hỏi: “Tôn giáo là gí” mới chỉ đƣợc giới khoa học đề cập trong thời gian gần đây, khi mà vấn đề tôn giáo trở thành bức xúc và phức tạp. Khi câu hỏi này đƣợc đặt ra cũng là lúc mà tôn giáo trở thành đối tƣợng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học riêng biệt. Đối tƣợng nghiên cứu của tôn giáo xuất phát từ châu Âu khá sớm nhƣng bộ môn khoa học về tôn giáo chỉ ra đời vào cuối thế kỷ XIX. Các nhà thần học cho rằng “Tôn giáo là mối liên hệ giữa thần thánh và con ngƣời”. Một số nhà tâm lý học lại cho rằng “Tôn giáo là sự sáng tạo của mỗi cá nhân trong nỗi cô đơn của mính, tôn giáo là sự cô đơn, nếu anh chƣa từng cô đơn thí anh chƣa bao giờ có tôn giáo”. Theo quan điểm của C.Mác: “Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng nhƣ nó là tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” [1, tr.437.]. Ph.Ăngghen có một khái niệm mang khìa cạnh nguồn gốc của tôn giáo là: “Tôn giáo là sự phản ánh hoang đƣờng vào trong đầu óc con ngƣời những lực lƣợng bên ngoài, cái mà thống trị họ trong đời sống hàng ngày …”. Còn theo từ điển tiếng Anh quốc tế của Webster xuất bản năm 1993 thí „Tôn giáo là một sự cảm nhận hay xác tìn cá nhân về sự hiện hữu của một đấng tối cao hay của những quyền lực hay một ảnh hƣởng siêu nhiên khống chế định mệnh của bản thân, của nhân loại hay của vạn vật” [11, tr.7] Một trong ba tôn giáo lớn nhất thế giới hiện nay là Kitô giáo. Kitô giáo bao gồm nhiều truyền thống tôn giáo với các dị biệt văn hóa và các giáo phái khác nhau. Số lƣợng tìn đồ Kitô giáo chiếm khoảng một phần ba dân số thế giới [6, tr.581]. Nó cũng là tôn giáo có khu vực ảnh hƣởng rộng nhất và đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong tiến trính văn minh nhân loại và phát triển xã hội. Kitô giáo 13 xuất hiện vào thế kỷ thứ I ở khu vực phìa đông của đế quốc La Mã với chế độ chiếm hữu nô lệ. Đế chế La Mã tiến hành nhiều cuộc chiến tranh xâm lƣợc tàn khốc, tạo ra nhiều mâu thuẫn và xung đột gay gắt trong đời sống xã hội. Trong bối cảnh ấy đã làm nảy sinh những tƣ tƣởng đƣợc giải phóng và tự do. Bên cạnh đó, vùng Trung Cận đông là nơi tiếp giáp 3 châu lục, dân cƣ ở đây vốn theo đa thần giáo, trong quá trính thống nhất của đế chế đã xuất hiện yêu cầu thống nhất về tƣ tƣởng, trong đó có nhu cầu về tôn giáo độc thần, ví vậy Kitô giáo đã ra đời trên cơ sở của Do Thái giáo vốn đang tồn tại ở vùng này. Kitô giáo bắt đầu là một chi phái của Do Thái giáo trong thế kỷ I trƣớc công nguyên khi Đế quốc La mã cực thịnh và hoàng đế Augustus Ceasar (63 trƣớc công nguyên đến 14 trƣớc công nguyên) trị ví. Trong thời cổ đại Kitô giáo xuất hiện và hoạt động trong cộng đồng ngƣời Do Thái nhƣng bị những ngƣời theo Do Thái giáo đả kìch và chình quyền La Mã đàn áp. Trong thời gian giữa năm 64 và 330, Kitô giáo trải qua mấy thời kỳ bị Đế quốc La mã bách hại rồi lại chấp nhận. Về mặt chình thức, Đế quốc La mã khoan dung mọi tôn giáo. Tuy nhiên ngƣời Kitô giáo thỉnh thoảng gặp khó khăn ví họ từ chối không chấp nhận các vị thần của La mã và thờ phụng những thần này vào những dịp quốc lễ. Khi số lƣợng ngƣời Kitô giáo tăng lên sự chống đối họ cũng tăng lên ví họ từ chối trung thành tuyệt đối với Hoàng đế, và ví thỉnh thoảng họ từ chối gia nhập quân đội La Mã. Kết quả là sự bách đạo. Sang thế kỷ II, sau những thời kỳ yên tĩnh lại đến những cuộc bách hại nặng nề. Tƣ cách pháp nhân của ngƣời Kitô giáo trong Đế quốc chƣa bao giờ đƣợc bảo đảm. Bất cứ lúc nào các quan chức địa phƣơng đều có thể bách hại họ. Cuộc bách hại qui mô lớn diễn ra dƣới thời Hadrian (hoàng đế thứ 117 đến 138) và Marcus Aurelius (hoàng đế thứ 161 đến 180) [11, tr.484]. Trong kỷ nguyên này Đế quốc La Mã cổ đại bị tan rã do các thế lực bên trong và bên ngoài thƣờng coi những ngƣời Kitô giáo nhƣ là mối đe dọa đối với sự thống nhất và sức mạnh của những đƣờng lối La mã cổ đại. Do đó họ bách hại Kitô giáo với hy vọng là khôi phục Roma trở lại thời kỳ trƣớc khi có Kitô giáo. 14 Giai đoạn giữa sự sụp đổ của Đế quốc La Mã và sự trỗi dậy của những quốc gia Châu Âu hiện đại thƣờng đƣợc gọi là thời Trung cổ hay Trung Đại. Trong giai đoạn này Giáo hội Kitô giáo là lực lƣợng chủ yếu chi phối mọi mặt đời sống kinh tế, chình trị, văn hóa, xã hội của nhiều nƣớc phong kiến châu Âu. Quá trính mở rộng ảnh hƣởng của đạo Kitô đã gây ra nhiều cuộc xung đột, mâu thuẫn gay gắt giữa Kitô giáo với Do Thái giáo và Hồi giáo với những cuộc Thập tự chinh tàn khốc và đẫm máu. Ngay trong bản thân Kitô giáo cũng nảy sinh mâu thuẫn gay gắt, quyết liệt dẫn đến sự phân hoá Kitô giáo lần thứ nhất vào năm 1054 thành 2 phái: Công giáo – thế lực lớn nhất ở phìa Tây La Mã và Chình thống giáo ở phìa Đông La Mã. Vào thế lỷ XVI, Giáo hội phƣơng Tây bị xé ra từng mảnh ví một cuộc cách mạng dữ dội mà từ đó Giáo hội không bao giờ phục hồi đƣợc. Cuộc cách mạng này đƣợc gọi là Cuộc Cải Cách [11, tr. 494], nhƣng nó đi xa hơn là việc cải cách Kitô giáo bởi nó làm xáo trộn, phá vỡ sự thống ngự trên châu Âu của Kitô giáo, thách thức quyền bình của Kitô giáo và làm ngăn trở tôn giáo ấy nhiều thế kỷ. Những nguyên nhân của cuộc cách mạng này rất nhiều, đa dạng và phức tạp. Tuy nhiên, những nguyên nhân chình có thể nêu lên một cách rộng rãi là sự trỗi dậy của chủ nghĩa quốc gia châu Âu, kiến thức mới của thời Phục Hƣng và sự sụp đổ quyền lực Giáo hoàng. Sự khởi đầu của cuộc Cải Cách Tin Lành thƣờng đƣợc ghi nhận là vào năm 1517, khi Martin Luther (1483 – 1546) [6, tr. 631] dán 95 luận đề của ông trên cửa Giáo hội ở Wittenberg. Tiếp đó là sự cải cách John Calvin (1509 – 1546) [6, tr. 634] với việc cho ra đời một quyển sách đồ sộ mà sau này trở thành kinh điển của thần học Tin Lành, các qui tắc của Kitô giáo. Ngoài ra còn có sự cải cách của Ulrich Zwingli (1484 – 1531) và một số nhà lãnh đạo của các phong trào cải cách khác. Kết quả là đã làm xuất hiện Giáo hội cải cách gọi là Tin lành [6, tr. 633]. Cũng trong thế kỷ XVI vua Anh tách Công giáo ở Anh khỏi sự chỉ đạo của Giáo Hoàng và lập ra Anh giáo. Ngày nay, Kitô giáo có hơn 400 dòng khác nhau trong đó có 4 nhánh lớn là Công giáo, Chình thống giáo, đạo Tin Lành và Anh giáo. 15 Giáo lý Công giáo là một hệ thống từ giản đơn cho đến phức tạp của các học thuyết kinh viện với các quan điểm triết học và thần học siêu hính, căn cứ vào kinh thánh nhƣng phải dựa vào những lời giải thìch truyền thống và là thẩm quyền của Giáo hội. Công giáo đề cao thuyết thần quyền tuyệt đối (mọi việc do Chúa định) và thuyết giáo quyền tập trung (Giáo Hoàng là đại diện Thiên chúa ở trần gian). Kinh thánh theo quan niệm của giáo hội là “lời Chúa truyền dạy đời đời” [21, tr. 398] là một bộ sách gồm 73 quyển đƣợc chia làm 2 bộ Tân ƣớc và Cựu ƣớc [21, tr. 399]. Ban đầu Kinh thánh đƣợc truyền khẩu trong dân gian. Đến thế kỷ II thí bắt đầu đƣợc viết trên da dê, từ thế kỷ IV – VI đƣợc viết trên giấy Papêrút và đến thế kỷ VII mới viết thành sách. Kinh thánh là một kho tàng lịch sử và điển tìch văn học. Kinh thánh bao gồm toàn bộ quan điểm, tƣ tƣởng của giáo lý và tìn điều của các đạo Kitô. Tùy theo đạo mà số kinh này đƣợc chấp nhận theo yêu cầu của giáo lý các đạo. Vì dụ Đạo Chình thống chú trọng 5 cuốn đầu tiên của Kinh Cựu ƣớc. Đạo Tin Lành lại lấy 4 cuốn Kinh Phúc âm làm giáo nghĩa cơ bản…. Về cơ cấu tổ chức thí đứng đầu là Giáo hội [21, tr. 349]. Đây là tổ chức tôn giáo theo mô hính kim tự tháp lấy Tòa thánh Roma làm cơ quan quyền lực tối cao. Trƣớc đây, khi nhắc đến giáo hội, Công giáo thƣờng hiểu là một tổ chức mà chủ yếu nhấn mạnh đến chức năng lãnh đạo, truyền giảng bao gồm các chức sắc từ Giáo Hoàng đến các hồng y, giám mục, linh mục, tu sĩ… mà quên mất các tìn đồ, các “con chiên”, cơ sở của công giáo. Ngày nay giáo hội đƣợc Công giáo hiểu bao hàm các giáo phẩm, tu sĩ, giáo dân. Tức vừa là tổ chức lãnh đạo, chế định ra các thể chế, truyền bá, giáo dục… vừa là toàn thể cộng đồng tôn giáo. Cơ quan lãnh đạo giáo hội công giáo thế giới ở Toà thánh Vaticăng, do Giáo hoàng [21, tr. 350] trực tiếp lãnh đạo, bên dƣới là đoàn Hồng y giáo chủ do chình Giáo hoàng bổ nhiệm. Cơ quan chủ yếu của Toà thánh gồm có: Quốc vụ viện, Cục văn thƣ, Cục tài chình, Toà án, Thánh bộ và Ban bì thƣ... 16 Theo quan niệm của Kitô giáo nói chung, Giáo hoàng là ngƣời kế vị Thánh Pierre [21, tr. 350] và thay mặt Đức Chúa Giêsu làm đầu Hội thánh ở trần gian. Đức Giáo hoàng là biểu tƣợng và cơ sở của sự thống nhất trong đức tin và sự hiệp thông của các tìn đồ. Giáo hoàng có quyền lực cao nhất và có trách nhiệm điều khiển mọi công việc của Hội thánh. Dƣới Toà thánh Vaticăng là Hội thánh ở các địa phận. Điều khiển các Toà thánh ở địa phận là các giám mục. Giám mục có quyền lực tối cao trong địa phận mính cai quản và tuyệt đối tuân lệnh Giáo hoàng. Giám mục điều hành mọi công việc của địa phận, mỗi năm không đƣợc vắng quá 3 tháng ở các địa phận, không đƣợc cƣ ngụ ở nhà anh em. Cơ sở thấp nhất của Hội thánh là Giáo xứ (xứ đạo, họ đạo). Điều khiển giáo xứ và chăn dắt tìn đồ là linh mục [21, tr. 352], linh mục tuyệt đối tuân lệnh giám mục. Có hai loại linh mục: linh mục “Triều” là những linh mục theo đơn vị hành chình từ xứ họ trở lên, linh mục “Dòng” là linh mục làm chuyên môn. Các linh mục có nhiệm vụ chăm sóc giáo dân, không đƣợc rời xa quá 2 tháng trong một năm, quyền lợi của các linh mục là quyền đƣợc làm các bì tìch và giáo huấn cho các tìn đồ. Vào lúc khởi đầu giáo hội Kitô giáo là một thành phần của Do Thái giáo và tuân theo lịch những ngày lễ, hội của Do Thái Giáo. Khi sự phân chia giữa hai tôn giáo phát triển, Kitô giáo bắt đầu thành lập lịch riêng của mính. Một số ngày lễ chình của Kitô giáo có thể nhắc đến nhƣ: Lễ Giáng sinh đánh dấu ngày sinh nhật chúa Giesu đƣợc Kitô giáo phƣơng Tây ăn mừng vào 25/12 trong khi Kitô giáo phƣơng Đông lại tiến hành vào tháng Giêng. Mƣời hai ngày sau lễ Giáng Sinh ngƣời Kitô giáo phƣơng Tây mừng lễ Ba Vua để tƣởng nhớ các nhà thông thái đến Bethlehem tím chúa hài đồng Giesu. Lễ Phục Sinh là lễ xƣa nhất và đƣợc chấp nhận rộng rãi nhất trong lịch Kitô giáo. 40 ngày trƣớc lễ Phục Sinh ngƣời Kitô giáo có ngày thứ tƣ Lễ Tro. 40 ngày kế tiếp ngƣời Kitô giáo giữ mùa chay. Mùa chay kết thúc với Tuần Thánh. Ngày đầu tiên của tuần lễ này đƣợc gọi là Chúa nhật Lễ lá khi ngƣời Kitô giáo tƣởng nhớ việc vào thành Gierusalem vinh quang của chúa Giesu. Ngoài ra còn có một số ngày lễ khác nhƣ lễ Chúa 17 Nhật, Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống… Kitô giáo ngày nay đối mặt với nhiều vấn đề độc đáo. Trong tất cả các tôn giáo trên thế giới, Kitô giáo có lƣợng tìn đồ lớn nhất và trải khắp một vùng địa lý rộng hơn bất cứ tôn giáo nào khác. Tuy nhiên chình qui mô và sự đa dạng của Kitô giáo đã làm cho tôn giáo này có những vấn đề độc đáo mang màu sắc riêng. Trong những năm đầu của thế kỷ XXI, cộng đồng Kitô giáo cho thấy nhiều bộ mặt khác nhau. Ở châu Âu với mô thức những giáo hội quốc gia, Kitô giáo đang tĩnh tại. Tôn giáo ấy đƣợc các chình phủ quốc gia ủng hộ về mặt tài chình và có uy tìn. Những trƣờng đại học và những giáo hội châu Âu tiếp tục đào tạo nhiều học giả Kitô giáo hàng đầu. Tuy nhiên sự ủng hộ của ngƣời dân không nhiều. Trong một vài quốc gia châu Âu, số ngƣời đi nhà thờ ƣớc tình khoảng 2% dân số [11, tr.522] khác với Mỹ nơi mà số ngƣời đi nhà thờ khá cao. Nhƣng ở Mỹ Kitô giáo lại vấp phải vấn đề trong việc tím cho đủ nam và nữ tu sĩ phục vụ cộng đồng tìn đồ bởi ví Kitô giáo vẫn tiếp tục đòi hỏi tu sĩ phải sống độc thân. Tuy nhiên cũng chình ví sự thiếu hụt nam, nữ tu sĩ đã dẫn đến việc tham gia đông đảo của giáo dân vào sinh hoạt phụng vụ của Giáo hội. Sự phát triển đáng lƣu ý nhất của Kitô giáo ở Mỹ trong những năm gần đây là những vị thế của những nhóm Tin Lành Phúc âm. Phái này đã làm chủ đƣợc những phƣơng tiện thông tin đại chúng. Ở châu Phi ngƣời Kitô giáo bây giờ đông hơn ngƣời Hồi giáo. Ở Nam Triều Tiên, nơi mà truyền thống là Phật giáo và Khổng giáo, Kitô giáo cũng đang phát triển với mức trung bính 10% năm [11, tr.523]. Với một lịch sử khoảng 2000 năm, Kitô giáo từ khi ra đời đã không ngừng truyền bá và lan tỏa ảnh hƣởng rộng rãi ra toàn thế giới, nhất là trong xã hội phƣơng Tây. Bởi vậy nó có ảnh hƣởng to lớn đến đời sống sản xuất văn hóa các dân tộc, có tác dụng không nhỏ đối với sự phát triển chình trị, kinh tế, pháp luật, triết học, văn học nghệ thuật và khoa học kỹ thuật của nhiều quốc gia. Vì dụ nhƣ ở Châu Mỹ Latinh do có sự truyền bá mạnh mẽ của Thiên Chúa Giáo, mà sắc thái văn hóa Thiên chúa giáo ở đây rất đậm. Ở Bắc Mỹ thí thịnh hành thuyết lập giao ước của Kitô giáo và chủ trƣơng khoan dung tôn giáo, tự do tín ngưỡng của 18 đạo Tin lành. Nhín một cách tổng thể văn hóa Bắc Mỹ về cơ bản là bắt nguồn từ truyền thống văn hóa Kitô giáo châu Âu, ngay cả rất nhiều trƣờng đại học nổi tiếng với tƣ cách là trung tâm văn hóa tƣ tƣởng, lúc đầu cũng là do các giáo sỹ truyền giáo hoặc các tìn đồ Kitô giáo đề xƣớng và ủng hộ nên mới đƣợc lập ra. Bên cạnh đó do sự truyền giáo mạnh mẽ của các giáo sĩ dòng Tên [21, tr.397] ra các khu vực châu Á, châu Phi ở thế kỷ XVI nên văn hóa Kitô giáo cũng đã ảnh hƣởng và thâm nhập vào nhiều quốc gia và nhiều dân tộc ở hai khu vực này. 1.2 Khái lƣợc lịch sử truyền đạo Kitô vào Nhật Bản Kitô giáo xuất hiện trên đất nƣớc mặt trời mọc vào thời điểm mà lịch sử Nhật Bản gọi là sengoku jidai ( chiến quốc thời đại) hay giai đoạn xung đột trong nƣớc. Tính trạng vô chình phủ tràn lan và trong nhiều năm đất nƣớc bị nội chiến tàn phá. Có một điều đáng chú ý là tuy chinh chiến liên miên nhƣ vậy nhƣng kinh tế và văn hóa trong giai đoạn này lại có nhiều khởi sắc. Năm 1549 những nhà truyền giáo dòng Tên đầu tiên là Francis Xavier (1506 – 1552) và Cosme Torres (1510 - 70) đã đến Kagoshima và đây là mốc đánh dấu sự có mặt của đạo Kitô trên xứ sở hoa anh đào. Phạm vi hoạt động chủ yếu của họ là ở Kyushu (một hòn đảo xa nhất về phìa nam của Nhật Bản). Vài tuần sau khi đến đây, Xavier đã đƣợc Shimazu Takahisa (lãnh chúa xứ Satsuma) [8, tr.25] tiếp đãi nồng hậu và cho phép giảng đạo trong lãnh địa của ông. Trong thời gian này Xavier đã rửa tội cho khoảng 100 ngƣời [8, tr.26]. Sau đó do mâu thuẫn và công kìch các nhà sƣ Phật giáo trùng với sự kiện một chiếc tàu tiếp theo của ngƣời Bồ Đào Nha đến và nhả neo ở hải cảng Hirado, hải cảng của kẻ thù của Takahisa nên Takahisa đã trục xuất những nhà truyền đạo này do những toan tình thƣơng mại không thành. Thiếu linh mục, những bất ổn về chình trị, sự thù địch của các nhà sƣ, những cuộc bách hại địa phƣơng và đôi khi là sự sốt sắng thiếu khôn ngoan của các thừa sai cũng nhƣ của những ngƣời trở lại đạo là những lý do chình khiến cho Giáo hội chậm phát triển trong nhiều năm. Năm 1600 khi Tokugawa Ieyasu thay thế Hideyoshi và trở thành tƣớng 19 quân của Nhật Bản, ông đã có thái độ khoan dung tƣơng tự với các nhà truyền giáo, khuyến khìch ngƣời Nhật tham gia buôn bán với nƣớc ngoài cho phép các nhà truyền giáo đƣợc ở lại Nhật. Cũng giống nhƣ Hideyoshi và Nobunaga, Ieyasu không có chút quan tâm cá nhân nào đến giáo lý Kitô giáo theo đúng nghĩa. Các chình sách khoan dung và thân thiện của ông chỉ là vỉ các lý do thƣơng mại nhƣng các thừa sai Kitô giáo đã lợi dụng triệt để quyền tự do tƣơng đối mà vị tƣớng quân này dành cho các ông. Kể từ năm 1601, Giáo Hội ở Nhật Bản đã bƣớc vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của tự do tƣơng đối và hƣng thịnh. Các thừa sai có thể dấn thân hoàn toàn cho công việc mục vụ thƣờng xuyên hơn và sứ vụ tông đồ đƣợc tổ chức tốt hơn. Năm 1607 các thừa sai dòng Tên có tổng số hơn 140 thành viên. Nagasaki trở thành trung tâm quan trọng nhất của đời sống Kitô giáo. Gần nhƣ toàn bộ dân số 40.000 ngƣời là ngƣời Công giáo [8, tr.162]. Các học viện và tập viện của dòng Tên đều đƣợc chuyển tới đây. Năm 1611 có 11 nhà thờ tại Nagasaki, 4 nhà thờ đƣợc giao cho hàng giáo sĩ triều [8, tr.163]. Nagasaki thực sự trở thành Roma nhỏ của Nhật Bản. Tuy nhiên tính hính thực sự đã thay đổi khi Ieyasu nhận thấy ngƣời Tây Ban Nha không mấy quan tâm đến buôn bán thông qua việc họ gửi khá nhiều các thừa sai đến thay ví các thợ mỏ hay những đoàn thuyền chở đầy hàng hóa cộng với việc ngƣời Hà Lan miêu tả các thừa sai nhƣ những ngƣời tiên phong trong việc xâm lăng ngoại quốc khiến ông bắt đầu có thái độ nghi ngờ và vào năm 1605 ông đã tím đến với các mối quan hệ khác nhƣ với Hà Lan và Anh. Năm 1612 ông chình thức quyết định cấm đạo Kitô, triệt phá một số nhà thờ và áp dụng những biện pháp kiên quyết đối với dân đạo trong giới quân sự, đặc biệt đối với những quân nhân cao cấp, tuy nhiên vẫn chƣa tƣớc quyền tự do tìn ngƣỡng, tôn giáo của những ngƣời thuộc tầng lớp khác. Nhiều nhà truyền giáo đã bị quản thúc tại nhà cho tới lúc chết và đã có nhiều ngƣời tử ví đạo ở Kyoto và Nagasaki. Khi Ieyasu qua đời, con trai ông là Hidetada lên cầm quyền và tỏ ra là một 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan