Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vai trò của inđônêxia trong quá trình phát triển của asean...

Tài liệu Vai trò của inđônêxia trong quá trình phát triển của asean

.PDF
109
713
97

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN - - - - - - - - - - - - ĐẶNG THỊ HẢI HẰNG VAI TRÒ CỦ A INĐÔNÊXIA TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA ASEAN LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC Chuyên ngành: Châu Á học HÀ NỘI - 2008 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN - - - - - - - - - - - - ĐẶNG THỊ HẢI HẰNG VAI TRÒ CỦ A INĐÔNÊXIA TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA ASEAN LUẬN VĂN THẠC SỸ ĐÔNG PHƯƠNG HỌC Chuyên ngành: Châu Á học Mã số: 60. 31. 50 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Quang Minh HÀ NỘI - 2008 MỤC LỤC MỞ ĐẤU 3 CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA INĐÔNÊXIA 9 1.1. Chính sách đối ngoại của In®«nªxia thời kỳ Sukarno 9 1.2. Chính sách đối ngoại của In®«nªxia thời kỳ Suharto 13 1.3. Chính sách đối ngoại của Inđônêxia thời kỳ hậu Suharto 17 1.4. Tiểu kết 21 CHƢƠNG 2: VỊ TRÍ VÀ VAI TRÒ CỦA INĐÔNÊXIA TRONG QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ASEAN 2.1. Vai trò của Inđônêxia trong lĩnh vực an ninh chính trị 22 22 2.1.1. Tham gia sáng lập và mở rộng ASEAN ra toàn khu vực 22 2.1.2. Tham gia giải quyết mâu thuẫn 30 2.1.3. Xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, tự do và trung lập. 37 2.1.4. Inđônêxia với việc thành lập Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), xây dựng Cộng đồng an ninh ASEAN (ASC) 2.2. Vai trò của Inđônêxia trong lĩnh vực kinh tế 2.2.1. Hợp tác nội khối 40 44 44 2.2.1.1. Hợp tác công nghiệp và hợp tác song phương 44 2.2.1.2. Hợp tác tiểu vùng 48 2.2.2. Hợp tác thương mại và tiến trình xây dựng và thực hiện Hiệp định thương mại tự do ASEAN (AFTA ) 2.2.2.1. Hợp tác thương mại 50 50 2.2.2.2. Inđônêxia với tiến trình hoàn thiện AFTA 52 2.2.3. Xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) 57 2.2.4. Hợp tác kinh tế ngoại khối 59 2.3. Đóng góp của Inđônêxia trong hợp tác chuyên ngành 63 2.3.1. Trong lĩnh vực Văn hóa - Xã hội 63 2.3.2. Trongvấn đề môi trường 65 2.4. Tiểu kết 66 CHƢƠNG 3: MỘT SỐ KHÓ KHĂN VÀ THÁCH THỨC CỦA INĐÔNÊXIA VÀ ASEAN 3.1. Một số thách thức đối với Inđônêxia 69 69 3.1.1. Tình hình chính trị bất ổn 69 3.1.2. Vấn đề dân tộc, tôn giáo 71 3.1.3. Trình độ phát triển kinh tế 74 3.2. Một số thách thức đối với ASEAN 76 3.2.1. Sự phát triển không đồng đều giữa các quốc gia 76 3.2.2. Tính chất lỏng lẻo của tổ chức 79 3.2.3. Những xung đột và tranh chấp giữa các nước thành viên 80 3.3. Một số vấn đề đặt ra với Inđônêxia và ASEAN 83 3.3.1. Đối với Inđônêxia 83 3.3.2. Đối với ASEAN 86 3.3.3. Một số bài học đối với Việt Nam 88 3.4. Tiểu kết 90 KẾT LUẬN 92 PHỤ LỤC 93 PURPOSE OF THE FOREIGN POLICY 94 OBJECTIVE OF FOREIGN POLICY 98 TÀI LIỆU THAM KHẢO 101 CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN Từ viết tắt Nghĩa tiếng Việt AEC Cộng đồng kinh tế ASEAN AFTA Khu vực mậu dịch tự do ASEAN AHA Trung tâm cứu trợ nhân đạo vùng bị thiên tai AHMM Cuộc họp các Bộ trưởng Y tế ASEAN AIA Khu vực đầu tư ASEAN AIC Kế hoạch bổ sung công nghiệp ASEAN AICO Chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN AIJV Chương trình liên doanh công nghiệp AIP Các dự án công nghiệp ASEAN AISP Cơ chế ưu đãi thuế nội nhập đặc biệt AMM Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN APEC Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương APT ASEAN + 3 ARF Diễn đàn khu vực ASEAN ASA Hiệp hội Đông Nam Á ASC Cộng đồng an ninh ASEAN ASCC Cộng đồng Văn hóa – Xã hội ASEAN ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEM Hội nghị Á – Âu BBC Chương trình liên kết sản xuất chung nhãn mác CEPT Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung EEC Cộng đồng kinh tế Châu Âu EU Liên minh Châu Âu FTA Hiệp định tự do thương mại GMS Hợp tác tiểu vùng sông Mêkông mở rộng JIM Cuộc gặp không chính thức ở Jakarta NICs Các nước công nghiệp mới PTA Thỏa thuận thương mại ưu đãi ASEAN SCCAN Ủy ban phối hợp đặc biệt của các quốc gia ASEAN SEANWFZ Khu vực Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân SEATO Tổ chức hiệp ước phòng thủ Đông Nam Á SEZ Các đặc khu kinh tế SIJORI Tam giác tăng trưởng phía Nam SOMHD Cuộc họp của các quan chức cao cấp về phát triển Y tế TAC Hiệp ước thân thiện và hợp tác ZOPFAN Khu vực hòa bình, tự do, trung lập MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Kể từ năm 1967, khi 5 nước Inđônêxia, Malaixia, Philippin, Xingapo và Thái Lan thành lập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đến nay, Inđônêxia được coi là thành viên có vai trò nòng cốt, đi tiên phong trong khối, góp phần quan trọng đưa ASEAN thành một tổ chức khu vực có tiếng nói có trọng lượng trên trường quốc tế. Là một trong 5 nước sáng lập ASEAN, Inđônêxia đã tích cực hoạt động, đóng góp nhiều sáng kiến cho tổ chức, góp phần làm cho ASEAN ngày càng phát triển vững mạnh. Những thành công mà ASEAN gặt hái được trong thời gian qua không thể không có những đóng góp của In®«nªxia. Mặc dù gần đây In®«nªxia đang gặp một vài khó khăn trong nội bộ, nhưng những gì mà đất nước này đã làm cho tổ chức, cho khu vực là không thể phủ nhận. Tìm hiểu về vai trò của Inđônêxia trong ASEAN giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn về những đóng góp của nước này đối với Hiệp hội cũng như những tồn tại của Hiệp hội, để từ đó thấy được những mặt hạn chế và tích cực trong quá trình phát triển của tổ chức. Đối với các nhà khoa học Việt Nam, việc làm rõ vị thế của Inđônêxia trong ASEAN sẽ giúp Việt Nam rút ra được những bài học kinh nghiệm bổ ích trong việc đề xuất và thực thi những cam kết đã thoả thuận của hợp tác và hội nhập khu vực. Với lợi thế của người đi sau, chúng ta có thể chủ động hội nhập sâu vào tổ chức khu vực cũng như các tổ chức quốc tế khác. Sự cần thiết nâng cao nhận thức và thúc đẩy hơn nữa quan hệ hợp tác giữa Inđônêxia với Việt Nam cũng là nhu cầu của khoa học và thực tiễn. Chính vì vậy tôi đã chọn đề tài "Vai trò của Inđônêxia trong quá trình phát triển của ASEAN" để viết luận văn cao học của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Những thập niên gần đây, nghiên cứu về ASEAN và Inđônêxia ở nước ta khá phát triển cả về quy mô lẫn chất lượng. Cùng nằm trong một khu vực lịch sử địa lý, tham gia trong một tổ chức khu vực, nhu cầu hiểu biết về ASEAN và Inđônêxia trở nên cần thiết. Những hiểu biết về ASEAN và các nước láng giềng giúp chúng ta có thể hội nhập sâu hơn vào tổ chức khu vực, có sự hợp tác gắn bó phát triển hơn. Từ nhu cầu thực tiễn đó, các viện, các trung tâm nghiên cứu trong cả nước đã có hàng loạt công trình viết về ASEAN và Inđônêxia. Các công trình viết về ASEAN như: “Địa lý kinh tế xã hội các nước ASEAN” của Phạm Mộng Hoa, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội 1999; "Tiến tới một ASEAN hoà bình, ổn định và phát triển bền vững" của Nguyễn Duy Quý, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2001; "Liên kết ASEAN trong bối cảnh toàn cầu hoá" của Trần Khánh (chủ biên), Nhà xuất bản Khoa học Xã hội 2002;… Trên các tạp chí, đặc biệt là tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, những bài viết về ASEAN cũng rất nhiều như: “ASEAN bước vào thế kỷ XXI: những thách đố trước mắt” của Baladas Ghoshal, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á số 4/1997; “Tình hình triển khai AFTA ở các nước thành viên gốc của ASEAN và kết quả bước đầu”, Thu Mỹ, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á số 5/1999 ; “Những vấn đề về thể chế trong liên kết kinh tế ASEAN - Hiện trạng và triển vọng”, của Nguyễn Văn Hà, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á số 1/2003;… Và gần đây, nhân dịp kỷ niệm 40 năm ngày thành lập ASEAN, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã tổ chức hội thảo mà kết quả là cuốn kỷ yếu: “ASEAN 40 năm nhìn lại và hướng tới”, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007. Có thể nói đây là những công trình nghiên cứu về ASEAN rất toàn diện và sâu sắc trên nhiều lĩnh vực kể từ khi tổ chức này thành lập. Những công trình này đã phân tích rất cụ thể những điểm đã và chưa làm được của tổ chức khu vực. Từng thành viên trong tổ chức đều có vai trò và đóng góp cho sự tồn tại và phát triển của ASEAN. Qua những công trình nghiên cứu này, ta thấy được phần nào vai trò của Inđônêxia trong sự phát triển của ASEAN. Với vai trò nước lớn, Inđônêxia đã đi đầu trong việc đảm bảo hòa bình ổn định trong khu vực. Nghiên cứu về Inđônêxia cũng có một số các công trình như: “Inđônêxia những chặng đường lịch sử” của Ngô Văn Doanh, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995; “Về một số nguyên nhân xung đột sắc tộc và tôn giáo ở Inđônêxia trong những thập kỷ gần đây” của Bùi Huy Thành, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 3/2007; “Hội thảo Việt Nam - In®«nªxia lần thứ ba, vì hòa bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác ở Đông Nam Á” của Viện Quan hệ Quốc tế, Hà Nội 1991... Gần đây có xuất hiện một số bài viết của Lê Thanh Hương - Viện Nghiên cứu Đông Nam Á đề cập đến một vài khía cạnh của vấn đề này: "Inđônêxia với ASEAN +3", Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 6/2006; "Inđônêxia và tiến trình xây dựng cộng đồng ASEAN", Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 9/2007. Tuy vậy, đây chỉ là những bài viết ngắn, mang tính giới thiệu, chưa làm rõ được một cách đầy đủ vai trò của Inđônêxia. Đây là công trình chủ yếu viết về đất nước, lịch sử và những vấn đề của Inđônêxia, những công trình dành riêng cho nghiên cứu về vai trò của Inđônêxia trong ASEAN còn chưa nhiều. Ở nước ngoài, các nghiên cứu về vấn đề này cũng khá phong phú và đa dạng. Trong số đó, đặc biệt phải kể đến công trình "Indonesia in ASEAN” của Dewi Fortuna Anwar do Viện nghiên cứu về Đông Nam Á của Xingapo xuất bản năm 1994. Cuốn sách đề cập chi tiết về Inđônêxia và ASEAN kể từ khi thành lập tổ chức khu vực đến năm 1987, những đóng góp, vai trò của Inđônêxia trong giai đoạn từ 1967 đến 1987. Những bài viết của Anthony Smith đăng trong Contemporary Southeast Asia như “Indonesia’s role in ASEAN: the end of leadership?”, August 1999, cung cấp cho chúng ta những quan điểm của những nhà lãnh đạo Inđônêxia về tổ chức khu vực và vai trò của Inđônêxia trong tổ chức này; “Indonesia’s nonstate actors in ASEAN: a new regionalism agenda for Southeast Asia?”, của Alexander C. Chandra, April, 2004 lại cho chúng ta thấy những ý kiến, thái độ của những chủ thể phi chính phủ ở Inđônêxia trong việc hợp tác khu vực trên các lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế. Tất cả những công trình này đều phân tích rất rõ những quan điểm và tham vọng của những nhà hoạch định chính sách ở Inđônêxia về vai trò của Inđônêxia trong tổ chức khu vực cũng như những ý kiến bất đồng của các tổ chức phi chính phủ. Có thể nói, cho đến thời điểm này, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về Inđônêxia và ASEAN, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, cơ bản về vai trò của Inđônêxia trong tổ chức ASEAN từ khi thành lập đến nay. Với luận văn này, tác giả hy vọng có thể làm sáng tỏ hơn những đóng góp của Inđônêxia cho tổ chức khu vực, ASEAN. 3. Mục tiêu, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu Mục tiêu: Mục tiêu chính của luận văn là đánh giá vị trí, vai trò và những đóng góp của Inđônêxia đối với sự hình thành, phát triển của ASEAN. Để hoàn thành mục tiêu trên, luận văn đề ra một số nhiệm vụ cụ thể sau: 1. Đánh giá những tác động của tình hình khu vực, thế giới và nội tại đối với vai trò của Inđônêxia trong ASEAN. 2. Phân tích những nguyên nhân giúp cho Inđônêxia có vị trí trong sự phát triển của ASEAN. 3. Khái quát những giai đoạn và đặc điểm cơ bản của chính sách đối ngoại của Inđônêxia. 4. Làm rõ những đóng góp toàn diện của Inđônêxia trong ASEAN. 5. Phân tích mối quan hệ qua lại giữa Inđônêxia và ASEAN. Phạm vi nghiên cứu: Trọng tâm của đề tài là tập trung nghiên cứu vai trò toàn diện của Inđônêxia trong xây dựng và phát triển ASEAN, chủ yếu trên khía cạnh an ninh - chính trị, kinh tế trong khuôn khổ hợp tác bên trong và bên ngoài của ASEAN. Tuy vậy đề tài cũng có đề cập đến một số vấn đề hợp tác chuyên ngành. Thời gian nghiên cứu chủ yếu là từ năm 1967 đến nay. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Lý luận về giai cấp, nhà nước, liên minh, liên kết tập hợp lực lượng của chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở lý luận của việc nghiên cứu này. Để hoàn thành đề tài, luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu lịch sử, kết hợp hệ thống, tổng hợp, lôgic, so sánh để làm rõ vấn đề đặt ra. 5. Nguồn tài liệu Luận văn được hình thành trên cơ sở khai thác nhiều nguồn tài liệu khác nhau bao gồm: 1. Nguồn tài liệu gốc, bao gồm các tuyên bố, văn kiện, hiệp định, thỏa thuận của ASEAN và Inđônêxia. 2. Các nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước bao gồm các chuyên khảo về ASEAN, về Đông Nam Á hoặc về Inđônêxia. Ngoài ra một phần lớn tài liệu là các bài viết đăng trên các tạp chí nghiên cứu như ngiên cứu Đông Nam Á, Contemporary Southeast Asia… 3. Nguồn tài liệu đăng tải trên Internet, trong đó đặc biệt là trang web của ASEAN và của Bộ Ngoại giao Inđônêxia. 6. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, luận văn được chia thành ba chương. Chương I: “ Khái quát chính sách đối ngoại của Inđônêxia”. Chương này tập trung nghiên cứu chính sách đối ngoại của Inđônêxia qua các thời kỳ kể từ khi giành được độc lập. Các nhà lãnh đạo Inđônêxia trong từng thời kỳ đều đánh giá cao vai vị trí, vai trò của Đông Nam Á trong chính sách đối ngoại của mình và luôn mong muốn có một vai trò tích cực hơn trong tổ chức khu vực và trên trường quốc tế. Chương II: “ Vị trí và vai trò của Inđônêxia trong quá trình hình thành và phát triển của ASEAN”. Đây là phần trọng tâm của luận văn. Chương này phân tích và nêu lên những đóng góp của Inđônêxia trong quá trình hình thành và phát triển của ASEAN trên các lĩnh vực an ninh, chính trị, kinh tế và hợp tác chuyên ngành. Kể từ khi tham gia thành lập tổ chức khu vực ASEAN, Inđônêxia luôn cố gắng đóng góp cho sự phát triển hòa bình thịnh vượng của khu vực. Có thể thấy Inđônêxia là một trong số những thành viên tích cực nhất trong việc thành lập và phát triển tổ chức. Chương III: “Một số khó khăn và thách thức của Inđônêxia và ASEAN”. Chương này phân tích những khó khăn mà ASEAN và Inđônêxia đang phải đối mặt, đồng thời cũng đưa ra một số đề xuất nhằm tăng cường hơn nữa vai trò của Inđônêxia cho sự phát triển của ASEAN. CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA INĐÔNÊXIA 1.1. Chính sách đối ngoại của In®«nªxia thời kỳ Sukarno Tháng 8/1945 đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử Inđônêxia. Sau mấy trăm năm dưới ách thống trị của thực dân Hà Lan, người Inđônêxia đã đứng lên làm cuộc cách mạng, tuyên bố độc lập. Tuy nhiên, từ năm 1945 1949, nước Cộng hòa Inđônêxia phải đối mặt với hàng loạt thách thức cả từ bên trong lẫn bên ngoài. Sự bất đồng trong hàng ngũ các nhà dân tộc đã gây nên sự chia rẽ trong nội bộ, tạo ra một số thử thách và biến cố đối với đất nước. Bên cạnh đó, thực dân Hà Lan không chịu từ bỏ quyền lợi của mình, không công nhận Cộng hòa Inđônêxia. Trước tất cả những thử thách đó, người Inđônêxia với tinh thần đoàn kết, bền bỉ đấu tranh đã tiến hành cuộc chiến tranh bảo vệ nền độc lập buộc chính phủ Hà Lan phải chấp nhận chuyển giao quyền lực cho người Inđônêxia vào ngày 27/12/1949. Sau khi giành độc lập, đất nước Inđônêxia bước vào giai đoạn phát triển mới. Với một đất nước đa dân tộc như Inđônêxia, việc thống nhất trong đa dạng là rất cần thiết. Tổng thống đầu tiên Sukarno đã đề xướng năm nguyên tắc làm nền tảng phát triển đất nước có tên gọi là: panchasila 1. Ketuhanan yang maha Esa (Chỉ tin vào một thượng đế duy nhất) 2. Kemanusian yang adil dan beradab (Bình đẳng và nhân văn cao cả) 3. Persatuan Indonesia (Sự thống nhất của Inđônêxia) 4. Kerakyatan yang dipimpin oleh hikmat kebijaksanaan dalam permusyawaraktan perwakilan (Nền dân chủ được định hướng bởi trí tuệ bên trong trong sự nhất trí có cân nhắc của các đại diện) 5. Keadilan social bagi seluruh rakyat Indonesia (Công bằng xã hội cho tất cả nhân dân Inđônêxia) Năm nguyên tắc này đã chi phối mọi chính sách đối nội, đối ngoại và phát triển kinh tế của Inđônêxia. Trong giai đoạn đầu mới giành được độc lập, chính phủ của tổng thống Sukarno đã gặp nhiều khó khăn trong việc ổn định chính trị và phát triển kinh tế đất nước. Đến năm 1958, tại Inđônêxia 17 nội các đã liên tục thay nhau lãnh đạo đất nước [4, 181]. Các đảng phái chính trị đua nhau tranh giành quyền lực khiến cho tình hình chính trị luôn bất ổn và nền kinh tế không thể phát triển. Trước tình hình đó, tổng thống Sukarno đã đưa ra đường lối cải tổ hệ thống nhà nước, giữ vững sự thống nhất dân tộc. Ông đã trực tiếp thành lập một nội các mới không đảng phái và nội các này đã bắt đầu thực hiện những tư tưởng của Sukarno. Những đảng phái đối lập tập hợp lại và thành lập “Chính phủ cách mạng của nước cộng hòa Inđônêxia” (PRRI) nổi dậy chống lại chính phủ lâm thời, nhưng chỉ trong hai tháng đã bị đánh bại. Uy lực của quân đội trong chính phủ cũng như trong các cơ quan chính quyền địa phương tăng lên rõ rệt. Trong vòng một thập kỷ đầu tiên sau khi giành được độc lập, Sukarno theo đuổi chính sách không liên kết, cho phép Inđônêxia có quyền tự quyết đối với nhiều vấn đề mà không chịu sức ép của các cường quốc. Inđônêxia đi tiên phong trong số các nước chống lại chủ nghĩa thực dân, luôn ủng hộ về tinh thần và ngoại giao cho các cuộc đấu tranh giành độc lập ở những khu vực Á, Phi còn tàn dư của chủ nghĩa thực dân. Chính sách này cũng phục vụ lợi ích quốc gia Inđônêxia. Tháng 12/1954, Inđônêxia được hội nghị các Cường quốc Colombo (gồm Ấn Độ, Pakistan, Sri Lanka, Mianma và Inđônêxia) tại Bangor - Inđônêxia, ủng hộ tuyên bố chủ quyền của nước này đối với New Guine (Tây Irian) thuộc Hà Lan. Tháng 4/1955, Inđônêxia được chọn đăng cai hội nghị 29 nước Á - Phi tại Bandung. Đây là hội nghị hai lục địa đầu tiên của các dân tộc mới giành được độc lập. Hội nghị Bandung mang lại cho Sukarno sự tự tin và tham vọng về một vai trò lớn hơn trên trường quốc tế. Ông được ủng hộ trong việc đòi Hà Lan rút quân khỏi Tây Irian, vùng đất mà người Hà Lan vẫn còn bỏ ngỏ chưa giao trả cho Inđônêxia vào thời điểm độc lập của Inđônêxia năm 1949. Người Hà Lan cho rằng người Papua thuộc một dân tộc khác, chưa bao giờ nằm dưới quyền cai trị của người Inđônêxia trong quá khứ và không mong muốn gia nhập vào nước cộng hòa Inđônêxia. Về phần mình, chính phủ Inđônêxia vẫn giữ lập trường rằng nhà nước Inđônêxia bao gồm các vùng lãnh thổ của Đông Ấn Hà Lan, do đó nền độc lập chỉ trọn vẹn khi Tây Irian được sát nhập. Sau khi thất bại trong việc thuyết phục Liên Hợp Quốc thúc ép Hà Lan quay trở lại bàn đàm phán đã bị ngưng trệ, Inđônêxia đơn phương chấm dứt Liên minh Inđônêxia - Hà Lan, dừng hàng loạt các thỏa thuận kinh tế và nhiều nghĩa vụ tài chính đối với Hà Lan. Sukarno phát động một chiến dịch mới chống lại Hà Lan. Ông ra lệnh đình bản những xuất bản phẩm bằng tiếng Hà Lan, đóng cửa các văn phòng của hãng hàng không KLM, cấm người Hà Lan tại Inđônêxia chuyển tiền về nước, tịch thu sung công tài sản của người Hà Lan và chấm dứt các chức năng phi lãnh sự của phái đoàn Hà Lan tại Jakarta. Thời gian này, Hà Lan được các nước Anh, Pháp, Ôxtrâylia, Niu Dilân ủng hộ, trong khi đó Mỹ giữ thái độ im lặng. Inđônêxia nhận được sự ủng hộ của hầu hết các nước Á - Phi là thành viên của Liên Hợp Quốc (trừ Đài Loan, Thổ Nhĩ Kỳ, Nam Phi và Israel), các nước thành viên châu Á của khối SEATO và Tổ chức Phòng thủ Trung Đông. Inđônêxia cũng nhận được sự hỗ trợ kinh tế, ngoại giao, quân sự từ Liên Xô và Trung Quốc. Tháng 3 năm 1962, Inđônêxia đã đưa 1000 tình nguyện viên bằng tàu thủy và nhảy dù lên Tây Irian. Tổng thư ký Liên Hợp Quốc U Thant và nhà ngoại giao Mỹ Ellsworth Bunker đã làm trung gian hòa giải dẫn tới một thỏa thuận, theo đó Liên Hợp Quốc sẽ cai quản Tây Irian từ tháng 10 năm 1962 đến tháng 5 năm 1963 trước khi trao quyền cho chính phủ Inđônêxia. Được khích lệ với thành công về vấn đề Tây Irian, Sukarno tiếp tục mở rộng tầm ảnh hưởng của mình trong thế giới Mã Lai. Ông chuyển từ việc ngấm ngầm chống lại sự hình thành liên bang Malaixia sang chống đối công khai vào tháng 8 năm 1963. Ông lên án Liên bang mới là một thực thể do Anh dựng lên để tiếp tục sự kiểm soát của Anh đối với nguồn tài nguyên của Malay và các nguồn dầu mỏ ở Brunây. Ông gán cho nó cái tên là “Chủ nghĩa thực dân kiểu mới của các Lực lượng cũ”, là mối đe dọa trực tiếp đối với các Lực lượng mới thành lập do Inđônêxia là đại biểu. Inđônêxia thực hiện nhiều biện pháp chống Malaixia. Giữa năm 1964, những nhóm du kích Inđônêxia thâm nhập Sarawak và Bắc Borneo, tấn công bờ biển Malaixia. Các mối quan hệ ngoại giao và thương mại giữa hai bên bị cắt đứt. Hoạt động đối đầu này làm nhiều nước đồng minh Á - Phi xa lánh Inđônêxia. Đầu thập kỷ 1960, một số nước láng giềng trở nên e ngại về những tham vọng của Sukarno. Trong khi uy tín trong nước của Sukarno tăng lên thì những cơ hội để ông được chấp nhận như người lãnh đạo khu vực Đông Nam Á bị mất dần do những hành động đối với Malaixia [25, 357]. Giữa năm 1965, đất nước này bị hầu hết các nước phi cộng sản tẩy chay. Hình ảnh Inđônêxia trở nên sa sút nghiêm trọng. Trong thời kỳ cầm quyền của mình, mặc dù theo tư tưởng không liên kết nhưng Sukarno lại thực hiện chính sách ngoại giao “lạnh nhạt” với phương Tây, hướng nhiều về phe xã hội chủ nghĩa. Sukarno được Liên Xô ủng hộ trong vấn đề Tây Irian. Liên Xô đã bán một khối lượng vũ khí lớn với các điều kiện thanh toán dễ dàng cho Inđônêxia và đề xuất viện trợ kinh tế trên quy mô lớn, lên đến 25 tỷ đôla Mỹ vào năm 1965. Trung Quốc cũng bí mật viện trợ vũ khí hạng nhẹ cho Đảng cộng sản Inđônêxia thông qua một số thương gia Inđônêxia gốc Hoa. Những chính sách ngoại giao của Tổng thống Sukarno thời kỳ này đã giúp Inđônêxia có một vị trí trên trường quốc tế, nhưng ông lại không thể điều phối được những bất ổn xảy ra trong nội bộ Inđônêxia suốt những năm cầm quyền của mình. Từ năm 1959 đến năm 1965, ở Inđônêxia đã tồn tại một kiểu chính quyền khá đặc biệt bao gồm lực lượng của Tổng thống Sukarno và lực lượng quân đội [4, 185]. Những cuộc tranh giành quyền lực liên tục xảy ra giữa lực lượng quân đội và Tổng thống làm cho đất nước ngày càng rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, kinh tế kém phát triển, lạm phát tăng cao. Uy tín của Tổng thống bị giảm sút. Cuộc đảo chính của những người Cộng sản cánh tả theo chủ nghĩa Mao ít tháng 9/1965 đã đẩy những mâu thuẫn trong nước lên cao. Những người cộng sản đã bắt giữ 6 tướng lĩnh cao cấp nhất và hành quyết họ tại căn cứ không quân Halim. Những tướng lĩnh thoát nạn nhanh chóng huy động cuộc phản công, hạn chế quyền lực của Tổng thống và khơi mào cho cuộc tàn sát đảng viên đảng cộng sản trên toàn quốc [25, 359]. Tháng 7/1966, trước sức ép của Quốc hội, Tổng thống Sukarno đã ký sắc lệnh chuyển giao quyền hành pháp cho tướng Suharto. Tháng 2/1967, toàn bộ quyền điều hành đất nước đã được chuyển giao cho Suharto. Inđônêxia bước vào một giai đoạn phát triển mới. 1.2. Chính sách đối ngoại của In®«nªxia thời kỳ Suharto Suharto lên nắm quyền và thách thức lớn nhất ông phải đối diện là đưa đất nước ra khỏi bãi lầy kinh tế và phá sản mà Sukarno để lại thông qua những chính sách chi tiêu hoang phí của mình. Chính phủ mới phải đối phó với nạn lạm phát, thất nghiệp và thiếu vốn, kèm theo khoản nợ lên đến 1,7 tỷ đôla. Trước tình hình đó, chính phủ Inđônêxia mở cửa cho tư bản nước ngoài đầu tư vào nhiều ngành kinh tế của đất nước và đề ra những chính sách phát triển nhằm vực dậy một nền kinh tế đang gặp nhiều khó khăn. Để phát triển kinh tế, đặc biệt là kinh tế ngoại thương, ngay từ đầu nhà nước “trật tự mới” chủ trương đường lối đối ngoại đa cực và mở cửa. Ngay sau năm 1967, Inđônêxia đã phát triển mối quan hệ về nhiều mặt với Mỹ, Nhật, Cộng hòa liên bang Đức, Anh và các nước phương Tây khác. Trong khu vực, Inđônêxia đặc biệt chú ý tới việc mở rộng quan hệ với các nước châu Á, đặc biệt là các nước Đông Nam Á. Năm 1967, Suharto tham gia thành lập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) thân với phương Tây. Thêm vào đó là những chính sách đối ngoại hợp lý đã giúp Inđônêxia có được một phần vốn dành cho tái thiết kinh tế. Những cuộc đàm phán khéo léo được thực hiện do Adam Malik, Bộ trưởng ngoại giao Inđônêxia lúc bấy giờ, đã đem lại cho Inđônêxia một thoả thuận vào năm 1970 với các chủ nợ phương Tây, theo đó tiền lãi đến hạn phải trả được khất lại, các khoản vay được tái cơ cấu và trả đều hàng năm trong 30 lần. Năm 1973, sau khi Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ tuyên bố tăng giá dầu đã đem lại cho Inđônêxia khoản ngân sách lớn [25, 360]. Chính sách phục hồi kinh tế đã thực sự mang lại hiệu quả. Điều kiện xã hội được cải thiện song song với việc nâng cao mức sống của người dân. Sự xác định kịp thời những thời điểm thích hợp để cải cách kinh tế và xã hội đã làm cho đất nước chuyển biến nhanh chóng. Cùng với những chính sách cải cách hợp lý, việc thay đổi chính sách ngoại giao của Suharto cũng đã đem lại những hiệu quả nhất định, giúp đất nước nhanh chóng phục hồi. Suharto nhanh chóng chấm dứt sự đối đầu gây nhiều thiệt hại với Malaixia, thay vào đó ông tìm kiếm mối quan hệ kinh tế và chính trị với nước này. Sự xuất hiện của Suharto với vai trò là một nhà lãnh đạo đã đánh dấu sự thay đổi trong chính sách đối ngoại của Inđônêxia. Ông thay đổi chính sách đối ngoại của Sukarno, đồng thời làm bạn với Mỹ, Anh, Ôxtrâylia, Nhật Bản và có quan hệ đối đầu với các nước cộng sản. Inđônêxia bỏ phiếu chống lại việc Trung Quốc gia nhập Liên Hợp Quốc do Trung Quốc tiếp tục ủng hộ các hoạt động của du kích quân Cộng sản Inđônêxia trên nhiều vùng đất nước. Inđônêxia cũng nỗ lực đóng vai trò trung gian giữ gìn hoà bình trong khu vực, đồng ý chấp nhận làm thành viên trong Uỷ ban Kiểm soát quốc tế giám sát việc ngừng bắn tại Việt Nam. Mặc dù có những động thái thân phương Tây, Inđônêxia vẫn không từ bỏ tư cách thành viên phong trào không liên kết hay quyền tham gia vào các vấn đề quốc tế. Có thể nói, những chính sách đối ngoại của Inđônêxia thời kỳ Suharto cầm quyền được thiết lập trên ba phạm trù ảnh hưởng: Một là phương Tây, về cơ bản là mậu dịch, đầu tư và liên kết trợ giúp. Mối quan tâm hàng đầu của Suharto là cải thiện triển vọng về kinh tế nhờ trợ giúp mậu dịch và đầu tư từ các nước phát triển. Khía cạnh ảnh hưởng thứ hai nằm trong các nước đang phát triển, về cơ bản là phong trào không liên kết. Sự kiện sát nhập Đông Timo đã làm cản trở các mối quan hệ của nước này với các thành viên của phong trào không liên kết. Tuy nhiên, Suharto vẫn coi Inđônêxia là quốc gia dẫn đầu quan trọng trong các nước đang phát triển. Khía cạnh ảnh hưởng thứ ba là từ Đông Nam Á và tổ chức của khu vực này, ASEAN. Mối quan hệ song phương của Inđônêxia với nhiều quốc gia Đông Nam Á đã được phục hồi từ khi Tổng thống Suharto lãnh đạo đất nước. Việc kết thúc sự đối đầu và bình thường hóa quan hệ với Malaixia như là một tiền đề quan trọng cho sự hình thành của ASEAN. Một tổ chức khu vực là điều cần thiết nhằm đóng vai trò tích cực trong việc đảm bảo rằng Inđônêxia đã từ bỏ hoàn toàn sự bành trướng của mình [43]. Từ khi thành lập, ASEAN là nhân tố quan trọng
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan