Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo án - Bài giảng Bài giảng điện tử Vai trò của gia đình trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở tỉnh cao b...

Tài liệu Vai trò của gia đình trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở tỉnh cao bằng hiện nay

.PDF
93
253
116

Mô tả:

®¹i häc quèc gia hµ néi trung t©m ®µo t¹o, båi d-ìng gi¶ng viªn lý luËn chÝnh trÞ  NGUYỄN THỊ VÂN CHI VAI TRÕ CỦA GIA ĐÌNH TRONG VIỆC BẢO VỆ, CHĂM SÓC VÀ GIÁO DỤC TRẺ EM Ở TỈNH CAO BẰNG HIỆN NAY LuËn v¨n th¹c sÜ TriÕt häc Chuyªn ngµnh: Chñ nghÜa x· héi khoa häc M· sè: 60 22 85 Ng­êi h­íng dÉn khoa häc: PGS, TS. PHẠM CÔNG NHẤT Hµ néi – 2010 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Gia đình là nơi cội nguồn sinh ra và lớn lên của mỗi con người và là nơi trẻ em được chăm lo về thể chất và trí tuệ, đạo đức và nhân cách để hoà nhập với cộng đồng xã hội. Trong các thiết chế xã hội của một xã hội nhất định đều có những vai trò cụ thể trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em nhưng chúng ta có thể khẳng định được rằng: Gia đình là môi trường đầu tiên và có tầm quan trọng quyết định việc hình thành nhân cách của trẻ em và ảnh hưởng lâu dài tới mỗi cá nhân trong suốt cuộc đời. Với tầm nhìn xa trông rộng "Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người" [24, tr.222], Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày công săn sóc vun trồng thế hệ mầm non của đất nước. Người nói: "Ngày nay các cháu là nhi đồng, ngày sau các cháu là người chủ của nước nhà, của thế giới" [22, tr.222]. Người đặt niềm tin vào lớp trẻ: "Non sông Việt Nam có trở nên đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu" [21, tr.33]. Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, chiến lược phát triển con người được đặc biệt coi trọng, trong đó ưu tiên trẻ em chiếm vị trí hàng đầu. Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở Châu Á và là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn công ước hành động quốc gia về Quyền trẻ em. Ngay sau đó, chương trình hành động Quốc gia vì trẻ em được thông qua, khẳng định việc giành ưu tiên cho trẻ em các quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ, giáo dục, vui chơi giải trí và phát triển văn hoá. Mặc dù đất nước còn nhiều khó khăn về kinh tế - xã hội nhưng Đảng, Nhà nước và nhân dân ta vẫn tập trung mọi nỗ lực, huy động nhiều nguồn lực trong đó có sự giúp đỡ của quốc tế nhằm giải quyết các vấn đề quan trọng về trẻ em như sức khoẻ, dinh dưỡng, giáo dục... đặc biệt là các đối tượng thiệt thòi vùng sâu, vùng xa. Tuy nhiên hiện nay dưới sự tác động của mặt trái của nền kinh tế thị trường, tốc độ đô thị hoá nhanh, hội nhập và giao lưu rộng đã ảnh hưởng tiêu cực tới việc thực hiện các chức năng của gia đình, đặc biệt là các gia đình nghèo, vùng sâu, vùng xa không đủ điều kiện và chưa biết cách bảo vệ, chăm sóc và giáo dục con cái của mình trong điều kiện xã hội có nhiều biến chuyển làm ảnh hưởng không nhỏ đến quyền của trẻ em. Cao Bằng là một tỉnh miền núi phía Bắc còn gặp nhiều khó khăn, trình độ dân trí thấp và chưa đồng đều giữa các dân tộc. Do đó công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em còn nhiều hạn chế, nhất là trẻ em vùng dân tộc thiểu số còn chịu nhiều thiệt thòi trong việc hưởng những quyền lợi trên. Điều này đã ảnh hưởng đến quá trình phát triển thể chất và trí tuệ và tinh thần của các em. Do đó tôi chọn đề tài: "Vai trò của gia đình trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở tỉnh Cao Bằng hiện nay", qua đề tài này mong muốn sẽ góp phần nhỏ bé vào việc nâng cao nhận thức xã hội để trẻ em, đặc biệt là trẻ em vùng khó khăn được tạo những điều kiện tốt nhất để phát triển toàn diện. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Vấn đề gia đình cũng như vấn đề bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, từ lâu đã được các nhà giáo dục, tâm lý học, xã hội học nghiên cứu. Tiêu biểu là một số công trình của Pêtrecnhicôva: "Giáo dục trong gia đình Mác", Nxb Thanh niên, Hà Nội, 1977; A.Macarencô: "Nói chuyện về giáo dục gia đình:, Nxb Kim Đồng, Hà Nội, 1978; I.A. Pêtechnhicôva, "Dạy con yêu lao động", Nxb Phụ nữ, Hà Nội.1980. Các công trình này đã đề cập đến một số khía cạnh về giáo dục trẻ em trong môi trường gia đình. A.Macarencô nhấn mạnh: Giáo dục trẻ em phải được bắt đầu từ thời thơ ấu và từ gia đình. Nếu tuổi thơ không được gia đình giáo dục ngay từ đầu thì công việc giáo dục sẽ tốn kém rất nhiều về công sức không chỉ của gia đình mà còn của xã hội; theo I.A. Pêtechnhicôva: muốn con cái lớn lên khoẻ mạnh, vui tươi, yêu đời và cống hiến được nhiều cho xã hội thì lúc còn nhỏ phải được giáo dục về lao động (lao động học tập, lao động gia đình và lao động xã hội...) bởi con người được hình thành trước hết phải trải qua quá trình lao động. Tháng 12 năm 1989, Đại hội đồng Liên hiệp quốc đã thông qua "Công ước về quyền trẻ em". Nội dung của Công ước quy định từng vấn đề cụ thể liên quan đến toàn bộ cuộc sống tinh thần và vật chất của trẻ em, trong đó có đề cập đến trách nhiệm của gia đình trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Ở Việt Nam, sau Cách mạng tháng Tám 1945, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đến vấn đề gia đình và trẻ em, đã có nhiều văn bản về gia đình và vấn đề bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Như Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em số 25/2004/QH11 ngày 15 tháng 6 năm 2004; Ủy ban bảo vệ, chăm sóc trẻ em Việt Nam "Một số văn kiện của Đảng và Nhà nước về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em". Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996 và "Chương trình hành động quốc gia về trẻ em Việt Nam giai đoạn 2001-2010" Nxb Văn hoá phẩm, Hà Nội, 2002; TS Vũ Như Cương (tuyển chọn), "Hồ Chí Minh về bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997; Nguyễn Văn Minh (sưu tầm, tuyển chọn), "Việt Nam và các văn kiện quốc tế về quyền trẻ em" Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997; Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, "Luật Giáo dục", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998. Tất cả các bài viết, các văn bản trên đã tạo điều kiện tốt về mặt pháp lý để trẻ em được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục. Trong những năm gần đây, ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề này như: "Gia đình và vấn đề giáo dục gia đình" do GS Lê Thi (chủ biên) Nxb KHXH, Hà Nội, 1994; "Gia đình Việt Nam và chức năng xã hội hoá" của TS Lê Ngọc Vân - Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1996; " Vai trò của gia đình trong sự nghiệp hình thành nhân cách con người Việt Nam" của GS Lê Thi (chủ biên) - Nxb Phụ nữ, Hà Nội, 1997. Những công trình này đã cung cấp cho các bậc cha mẹ những hiểu biết về gia đình trang bị những kiến thức khoa học để nuôi dạy con cái thành những công dân tốt có ích cho xã hội với những nội dung chăm sóc gia đình cơ bản: Đức, trí, thể, mỹ, lao động... Dưới góc độ chuyên ngành, cũng có một số luận văn, luận án nghiên cứu các vấn đề vai trò của gia đình, vai trò của phụ nữ trong việc giáo dục thế hệ trẻ: Luận văn ThS Phạm Thị Xuân "Gia đình trong việc bảo vệ, chăm sóc trẻ em ở nước ta hiện nay" Hà Nội, 2004; Luận án TS của Đặng Thị Linh, "Vấn đề phụ nữ trong gia đình Việt Nam hiện nay - Thực trạng và giải pháp" Hà Nội, 1997; Luận án TS. Nghiêm Sỹ Liêm "Gia đình Việt Nam vai trò của người phụ nữ hiện nay" Hà Nội, 2003; TS. Phạm Công Nhất - PGS.TS Phan Thanh Khôi (đồng chủ biên) “Một số vấn đề về những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin”, tập III, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2008… Các công trình đã góp phần làm rõ thêm về mặt lý luận cũng như thực tiễn về vai trò của gia đình trong việc hình thành nhân cách của con người. Tỉnh Cao Bằng tuy còn nhiều bất cập trong công tác chăm sóc bảo vệ và giáo dục trẻ em nhưng hiện chưa có một công trình nào nghiên cứu về vai trò của gia đình trong chăm sóc và bảo vệ trẻ em ở tỉnh Cao Bằng một cách có hệ thống và đó là một khoảng trống mà đề tài luận văn này hướng tới nghiên cứu. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn * Mục đích của luận văn Luận văn làm rõ thực trạng bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em của gia đình ở Cao Bằng trong giai đoạn hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của gia đình trong công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở tỉnh Cao Bằng hiện nay. * Nhiệm vụ của luận văn - Làm rõ những vấn đề lý luận về vai trò của gia đình trong việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em; - Tiến hành khảo sát và phân tích thực trạng về những nội dung cơ bản của công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trong gia đình ở tỉnh Cao Bằng trong giai đoạn hiện nay; - Đề xuất những giải pháp kiến nghị để nhằm nâng cao vai trò của gia đình trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở tỉnh Cao Bằng trong giai đoạn hiện nay. 4. Đối tượng, phạm vi và giới hạn nghiên cứu của luận văn * Đối tượng của luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan đến vai trò của gia đình trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở địa bàn tỉnh Cao Bằng hiện nay. * Phạm vi và giới hạn nghiên cứu của luận văn: - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung làm rõ vai trò của gia đình trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trong phạm vi tỉnh Cao Bằng. - Giới hạn nghiên cứu: Luận văn khảo sát số liệu và phân tích trong giới hạn từ khi bước vào thời kỳ đổi mới đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận của luận văn: Luận văn được thực hiện trên cơ sở của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước ta về gia đình, trẻ em và vai trò của gia đình trong việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em. * Phương pháp nghiên cứu của luận văn Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như phân tích, tổng hợp, lôgic, lịch sử, so sánh, điều tra xã hội học. 6. Cái mới và những đóng góp về mặt khoa học của luận văn * Cái mới của luận văn Về lý luận, luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm về mặt lý luận những vấn đề triết học có liên quan đến gia đình trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Về thực tiễn, kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần tạo thêm cơ sở để Đảng bộ và chính quyền tỉnh Cao Bằng đề ra các chính sách phù hợp trong việc phát huy vai trò của gia đình trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của tỉnh nhà trong thời gian tới; kết quả nghiên cứu của luận văn cũng bổ sung thêm vào hệ thống các tài liệu nhằm phục vụ công tác giảng dạy và nghiên cứu đối với các môn học như Triết học, Chủ nghĩa xã hội khoa học,v.v.. * Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn - Luận văn góp phần làm sảng tỏ thêm về mặt lý luận vai trò của gia đình trong việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em và thực tiễn ở một tỉnh còn gặp nhiều khó khăn như Cao Bằng - Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần cung cấp nguồn tư liệu để các cấp uỷ chính quyền, các tổ chức xã hội, các gia đình ở Cao Bằng tham khảo, từ đó làm tốt hơn công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. 7. Kết cấu chính của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận văn được chia thành 2 chương, 6 tiết. Chương 1: Gia đình và vai trò của gia đình trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở nước ta hiện nay. Chương 2: Thực trạng và những giải pháp nhằm phát huy vai trò của gia đình trong việc công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở tỉnh Cao Bằng hiện nay. Chương 1 GIA ĐÌNH VÀ VAI TRÕ CỦA GIA ĐÌNH TRONG VIỆC BẢO VỆ, CHĂM SÓC VÀ GIÁO DỤC TRẺ EM Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 1.1. Gia đình và chức năng giáo dục của gia đình 1.1.1. Gia đình và những đặc điểm cơ bản của gia đình Gia đình có vị trí đặc biệt quan trọng và là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học. Những chủ đề nghiên cứu về gia đình luôn thu hút được sự quan tâm của các nhà khoa học không chỉ ở Việt Nam mà trên cả thế giới. Đến nay khái niệm về gia đình vẫn chưa được xác định một cách thống nhất và rõ ràng nhưng nhiều quốc gia đồng thuận một cách hiểu chung nhất: “Gia đình là đơn vị cơ bản của tổ chức xã hội và là môi trường tự nhiên cho sự phát triển và hạnh phúc của mỗi thành viên, nhất là trẻ em” (Tuyên bố của Liên hiệp quốc về tiến bộ xã hội trong phát triển). Theo C.Mác “…hàng ngày tái tạo ra đời sóng của bản thân mình, con người bắt đầu tạo ra những người khác, sinh sôi, nẩy nở - đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình [19, tr.41]. Với quan điểm này khái niệm về gia đình được nhìn nhận với ba nội dung: Một là, gia đình ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của xã hội loài người, con người cùng với quá trình tái tạo ra chính bản thân mình thì đồng thời cũng tái tạo ra gia đình. Hai là, chức năng chính của gia đình là tái tạo, sinh sôi nảy nở con người. Ba là, gia đình được tạo bởi hai mối quan hệ chủ yếu: quan hệ hôn nhân (chồng, vợ) và quan hệ huyết thống (cha mẹ, con cái). Tổ chứa UNESCO của Liên hiệp quốc đã quyết định lấy năm 1994 là năm quốc tế gia đình và thống nhất khẳng định: “Gia đình là một yếu tố tự nhiên cơ bản, một đơn vị kinh tế xã hội. Gia đình được coi như một giá trị vô cùng quý báu của nhân loại, cần được giữ gìn và phát huy”, trên tinh thần đó UNESCO đã đưa ra định nghĩa: “Gia đình là một nhóm người có quan hệ họ hàng, cùng sống chung và có ngân sách chung với các thành viên trong gia đình gắn bó với nhau về trách nhiệm và quyền lợi về mọi mặt được pháp luật thừa nhận”. Ở Việt Nam cũng có nhiều nghiên cứu về gia đình: Xét từ góc độ xã hội học: Gia đình là một nhóm xã hội hình thành trên cơ sở các quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc nuôi dưỡng các thành viên trong gia đình gắn bó với nhau về trách nhiệm và quyền lợi (kinh tế, văn hoá, tình cảm) giữa họ, là những quan hệ có tính pháp lý được nhà nước thừa nhận và bảo vệ, đồng thời có những quy định rõ ràng về quyền được phép và những cấm đoán trong quan hệ tiìn dục giữa các thành viên trong gia đình [2, tr.190]. Xét từ góc độ triết học: Gia đình là một nhóm xã hội có quan hệ gắn bó về hôn nhân hoặc huyết thống, tâm sinh lý, có chung những giá trị vật chất, tinh thần, ổn định trong các thời điểm lịch sử. Gia đình là một đơn vị nhỏ nhất của xã hội có mối quan hệ chặt chẽ với xã hội và là tấm gương phản chiếu mọi thành tựu,cũng như mâu thuẫn xã hội. Khái quát các nội dung trên, tác giả Lê Thi cho rằng: Khái niệm gia đình được sử dụng để chỉ một nhóm xã hội hình thành trên cơ sở quan hệ hôn nhân và huyết thống nảy sinh từ quan hệ hôn nhân đó và chung sống (cha mẹ, con cái, ông bà, họ hàng nội ngoại), gia đình có thể bao gồm một số người được gia đình nuôi dưỡng, tuy không có quan hệ huyết thống, các thành viên trong gia đình gắn bó với nhau về trách nhiệm và quyền lợi (kinh tế, văn hóa, tình cảm), giữa họ có những điều ràng buộc bởi tính pháp lý, được nhà nước thừa nhận và bảo vệ (được ghi rõ trong luật hôn nhân và gia đình của nước ta). Đồng thời trong gia đình có những quy định rõ ràng về quyền được phép và những cấm đoán trong quan hệ tình dục giữa các thành viên [30, tr.20-21]. Khái niệm gia đình mang tính pháp lý ở Việt Nam ghi nhận trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (Điều 8) xác định: Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền lợi giữa họ với nhau theo luật định. Qua những quan niệm trên về gia đình chúng ta có thể thấy rằng gia đình được thừa nhận ở các quan hệ cơ bản sau: Một là, gia đình là một thiết chế xã hội được hình thành trước hết trên cơ sở quan hệ hôn nhân. Quan hệ hôn nhân là sự liên kết giữa một nam và một nữ theo quy định của pháp luật, nhằm đề cùng sống với nhau và xây dựng gia đình hạnh phúc. Quan hệ hôn nhân (quan hệ vợ chồng) được biểu hiện là một loại quan hệ xã hội mà một nam và một nữ kết hợp với nhau để sinh sản và cùng nuôi dạy con cái. Trong các xã hội có giai cấp, quan hệ hôn nhân là một hiện tượng xã hội mang tính giai cấp. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có các kiểu hôn nhân đặc trưng và các giai cấp thống trị dùng luật để điều chỉnh các quan hệ hôn nhân cho phù hợp với ý chí và lợi ích của giai cấp mình. Hai là, quan hệ huyết thống là quan hệ giữa những người cùng trực hệ dòng máu, là sự tiếp tục và là hệ quả tất yếu của quan hệ hôn nhân, nó chỉ phát triển tốt đẹp dựa trên quan hệ tình yêu và hôn nhân chính đáng, hợp pháp. Ba là, quan hệ nuôi dưỡng là loại quan hệ hình thành giữa chủ thể và đối tượng được nuôi dưỡng, họ gắn bó với nhau vì trách nhiệm, quyền lợi, nghĩa vụ, được họ hàng ủng hộ và được pháp luật thừa nhận, bảo vệ. Như vậy, dù diễn đạt ở những cách khác nhau nhưng chúng ta có thể cùng thống nhất về cơ bản: Gia đình là một cộng đồng người được xây dựng trên cơ sở các mối quan hệ cơ bản là quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng giữa các thành viên được xã hội thừa nhận. 1.1.2. Về chức năng giáo dục của gia đình Gia đình có các chức năng cơ bản như chức năng tái sản xuất ra con người, chức năng kinh tế, chức năng tiêu dùng, chức năng giáo dục và chức năng thoả mãn các nhu cầu tâm sinh lý, tình cảm giữa các thành viên trong gia đình. Trong đó chức năng giáo dục có một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành những thế hệ công dân mới, có ích cho gia đình và cho xã hội, là lớp người kế cận người đi trước, là chủ nhân tương lai của đất nước C.Mác khẳng định: con người là một thực thể trong đó có sự thống nhất giữa hai mặt sinh vật - xã hội. Sau khi lọt lòng mẹ, nếu đứa trẻ không được sống trong môi trường xã hội, nếu không được hưởng những chế độ giáo dục của gia đình và của xã hội đứa trẻ không trở thành một con người đúng nghĩa. Những thành tựu khoa học đã chứng minh quan điểm này là đúng đắn. Bởi vậy có thể khẳng định rằng, quá trình chuyển biến đứa trẻ thành một con người thực sự được diễn ra trong môi trường xã hội, trong đó đặc biệt là sự chăm sóc và giáo dục của gia đình. Thực tiễn cuộc sống ngày nay đã chỉ ra rằng: chăm sóc và giáo dục trong gia đình có vai trò đặc biệt to lớn, vì nuôi dưỡng, giáo dục gia đình mang tính cá biệt và đậm nét giáo dục thông qua tình cảm và là môi trường đầu tiên cho con người lớn lên. Giáo dục trong nhà trường và xã hội không phân biệt giới tính, trí tuệ sức khoẻ, đặc điểm nhân cách, hoàn cảnh sống của mỗi cá nhân. Chức năng giáo dục của gia đình thể hiện ở một số nội dung cơ bản như: giáo dục tri thức, giáo dục về kỹ năng lao động, giáo dục về đạo đức lối sống, giáo dục về thể chất thẩm mỹ, giáo dục về giao tiếp ứng xử… diễn ra trong mọi giai đoạn của con người (từ trong bào thai, giai đoạn tuổi thơ, trưởng thành) và được thực hiện qua tất cả các hoạt động tổ chức đời sống vật chất và tinh thần cho các thành viên trong gia đình. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa chức năng giáo dục của gia đình thực sự góp phần lớn vào việc đào tạo thế hệ trẻ xây dựng con người mới nói chung trong việc duy trì và phát triển đạo đức, văn hoá dân tộc. Giáo dục gia đình là bộ phận của giáo dục xã hội, giáo dục trong gia đình mới đòi hỏi sự cố gắng cao và những hiểu biết về khoa học, tâm lý… của cha mẹ và của mọi thành viên khác, kết hợp chặt chẽ môi trường giáo dục (gia đình, nhà trường, xã hội) để tiến tới mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước là một yêu cầu quan trọng. 1.1.3. Những nội dung cơ bản trong giáo dục gia đình 1.1.3.1. Giáo dục tri thức Giáo dục tri thức trong gia đình khác với quá trình giáo dục tri thức ở trường học cũng như ở các môi trường khác. Giáo dục tri thức trong gia đình là quá trình các thế hệ đi trước mà trực tiếp nhất là cha mẹ sau đó là ông bà, anh chị, các cô dì, chú bác chỉ bảo cho đứa trẻ những kiến thức cơ bản giúp đứa trẻ sớm nhận biết, làm quen và hòa nhập được với thế giới xung quanh. Ngay từ khi đứa trẻ còn ở giai đoạn sơ sinh chưa nhận biết được nhiều về thế giới bên ngoài, các thành viên trong gia đình đã chú ý đến giáo dục cho trẻ để khích thích các giác quan của trẻ. Vì sự phát triển của các giác quan chính là sự phát triển ban đầu của nhận thức, của trí tuệ thô sơ nhất khi con người mới lọt lòng. Việc phát huy các chức năng của các giác quan được các thành viên trong gia đình quan tâm thực hiện như cho trẻ nghe nhạc và những lời hát ru êm ái để phát triển thính giác, treo đồ chơi nhiều mầu sắc để phát triển thị giác, cho trẻ cầm nắm các đồ vật để phát triển xúc giác, thường xuyên nói chuyện với trẻ để bồi dưỡng mầm mống tiếng nói cho trẻ và thúc đẩy giao lưu tình cảm… Khi đứa trẻ lớn hơn, tư duy của trẻ lúc này đã tốt hơn nhất là tư duy bằng hình tượng. Trẻ đã biết suy luận đơn giản, có khả năng khái quát, tổng hợp các hoạt động, các thành viên trong gia đình thường chú ý cho các trẻ hoạt động nhiều hơn thông qua các trò chơi đơn giản để vừa phát triển thể chất vừa phát triển trí tuệ. Đặc biệt các thành viên trong gia đình chú ý giáo dục về sự khác biệt giới tính cho trẻ em, trả lời cho trẻ những câu hỏi tò mò về sự khác biệt giới tính và định hướng cho trẻ giải quyết nhiều tình huống mà các em thường gặp phải trong cuộc sống. Khi trẻ bước vào giai đoạn đến trường, lúc này trẻ cần được chuẩn bị tốt mọi mặt để sẵn sàng bước vào môi trường mới. Sự giáo dục của gia đình và xã hội sẽ giúp trẻ phát triển toàn diện về cả nhân cách lẫn trí tuệ. Ở giai đoạn này, tâm lý trẻ có những biểu hiện đặc thù và rất nhạy cảm nên nhiều bậc cha mẹ đã gặp phải không ít khó khăn trong quá trình giáo dục con cái. Điều quan trọng nhất ở giai đoạn này trong giáo dục ở gia đình là các thành viên trong gia đình phải nắm bắt và tìm hiểu tâm lý của con, thường xuyên trò chuyện để đồng cảm và cùng con giải quyết những vấn đề đặt ra theo hướng tốt nhất. Việc kết hợp giáo dục giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em sẽ phát huy được sức mạnh tổng hợp và huy động được các nguồn lực trong xã hội tham gia ngày càng tích cực vào sự nghiệp giáo dục và đào tạo. 1.1.3.2. Giáo dục thái độ, kỹ năng lao động Lao động là tiêu chí số một để đánh giá đạo đức và tài năng con người ở trong bất cứ xã hội nào. Nếu không có lao động của cá nhân thì sớm hay muộn con người cũng tự đánh rơi mất giá trị vốn có và hạ thấp nhân phẩm của mình xuống trình độ con vật. Bản chất tốt đẹp của lao động và của con người lao động trước hết là để tự nuôi sống bản thân mình, không phải là một loài ký sinh sống bám gia đình và xã hội. Giáo dục thái độ, kỹ năng, thói quen lao động đối với con người là vô cùng quan trọng phải bắt đầu từ tuổi thơ. Thái độ lao động, kỹ năng, thói quen và tình yêu lao động là những yếu tố nhân cách gốc mà gia đình cần đặc biệt quan tâm. Những thái độ, kỹ năng, thói quen lao động cần thiết phải giáo dục cho trẻ trong gia đình là: - Thái độ tôn trọng mọi loại lao động chân tay cũng như trí óc đều tạo ra sản phẩm vật chất và tinh thần cần thiết cho đời sống con người trong xã hội. - Tôn trọng, quý mến đối với mọi người lao động vì bất cứ là nghề gì cũng cần thiết cho đời sống xã hội. Kính phục, khiêm tốn, kiên trì học tập, noi gương những người lao động giỏi, sáng tạo, chăm chỉ, chuyên cần, vượt khó bằng ý chí tự lực cánh sinh. - Có thái độ lao động tự giác theo nghĩa vụ, trách nhiệm của mình và tương tự các thành viên khác vì cuộc sống chung của gia đình. - Căn cứ vào sự trưởng thành theo lứa tuổi mà các bậc cha mẹ giáo dục con trẻ kỹ năng, thói quen lao động tự phục vụ từ đơn giản đến phức tạp như vệ sinh, sắp xếp nhà cửa gọn gàng… - Giáo dục cho trẻ làm việc gì cũng phải đến nơi, đến chốn, có trách nhiệm hoàn thành công việc cho phù hợp với khả năng của mình khi được cha mẹ giao. Điều quan trọng là cha mẹ làm sao giáo dục cho trẻ thói quen lao động tự giác và tinh thần vượt khó. - Giáo dục thái độ, kỹ năng, thói quen đối với lao động phải kèm theo với ý thức trách nhiệm quý trọng những sản phẩm lao động, tức là phải biết sử dụng đúng mức các sản phẩm, vật dụng hàng ngày của cá nhân và gia đình. Nghĩa là phải giáo dục ý thức thái độ cần cù trong lao động, tiết kiệm trong chi tiêu. - Ở lứa tuổi thanh thiếu nhi, lao động chủ yếu của các em là lao động học tập, vì các em sống hoàn toàn vào sự chu cấp của bố mẹ. Do đó, việc giáo dục giúp các em hoàn thành được lao động trí óc, phát triển trí tuệ thì gia đình cũng có vai trò rất lớn. Tuy nhiên, không phải bậc cha mẹ nào cũng có thể giảng dạy được cho trẻ những kiến thứ văn hoá về tự nhiện và xã hội theo chương trình các cấp học. Nhưng các bậc cha mẹ cũng có thể giúp cho trẻ tổ chức, thực hiện được các yêu cầu của nhà trường, chẳng hạn: ưu tiên bố trí góc học tập của trẻ vào nơi yên tĩnh, có đủ ánh sáng, tạo không khí thoải mái cho các em trong thời gian lao động trí óc. Động viên nhắc nhở trẻ thực hiện học tập đúng giờ, làm bài đầy đủ ở nhà cũng như khi đến lớp. Kết hợp chặt chẽ giáo dục nhà trường và giáo dục gia đình, động viên khích lệ kịp thời những cố gắng, những tiến bộ rõ rệt của các em đồng thời có biện pháp ngăn chặn kịp thời những biểu hiện sai lệch. Xác định ý nghĩa quan trọng của lao động học tập không những là lao động chính đối với các em hiện tại mà còn rất cần thiết đối với tương lai, đối với cả cuộc đời, giúp trẻ ý thức tự nỗ lực vươn lên để đạt được kết quả giáo dục tốt. 1.1.3.3. Giáo dục hành vi đạo đức Đạo đức là những chuẩn mực giá trị mang tính xã hội để mọi người căn cứ vào đó tự nguyện, tự giác điều chỉnh của mình sao cho lợi ích của mình phù hợp với lợi ích của cộng đồng và của người khác. Đối với các thành viên trong gia đình như ông bà, cha mẹ là những người lớn tuổi nhất trong gia đình, đã lao động vất vả và góp phần tạo dựng nên sự nghiệp và nuôi dạy con cháu. Vì vậy, cần giáo dục lòng kính trọng, hiếu thảo đối với ông bà, cha mẹ. Ông bà, cha mẹ khi tuổi già sức yếu đi lại khó khăn thậm chí mang bệnh tật cần giáo dục cho trẻ biết thường xuyên giúp đỡ mọi mặt trong cuộc sống một cách vui vẻ. Kính trọng ông bà, cha mẹ thì con cháu phải thể hiện trong cách cư xử: nói năng lễ phép, không cáu gắt hay tỏ thái độ khinh mạn khi ông bà nhầm lẫn, sai sót hoặc có ý ngăn cản những suy nghĩ, hành động chưa rõ ràng, minh bạch của mình; dù trong trường hợp nào, kể cả lúc cha mẹ kết luận sai, áp đặt những điều không phù hợp cũng phải bình tĩnh để phân tích đầy đủ có tình, có lý, không được cãi lại bằng những lời lẽ khiếm nhã… Giáo dục cho trẻ sự thông cảm sâu sắc với điều kiện và hoàn cảnh đời sống của gia đình bằng cách công khai thu nhập, chi tiêu chính đáng của cha mẹ để trẻ biết sống không đua ăn, đua mặc, không suy bì, tỵ nạnh với những gia đình khác có điều kiện kinh tế, địa vị xã hội hơn gia đình mình nhằm tạo nên một không khí hoà thuận, ấm cúng, đồng cam cộng khổ, đưa đời sống ngày càng phát đạt hơn. Đạo đức trong gia đình còn thể hiện trong quan hệ giữa anh em, chị em ruột thịt (hoặc anh chị em nuôi). Anh, chị, em dù trai hay gái đều bình đẳng về nghĩa vụ, quyền lợi, trách nhiệm trong việc xây dựng tổ ấm gia đình. Các bậc cha mẹ trước hết phải xử sự công bằng mọi nghĩa vụ, trách nhiệm giữa con trai cũng như con gái và giáo dục ý thức trách nhiệm đùm bọc, tương trợ lẫn nhau. Giáo dục cho trẻ ý thức tôn trọng và bảo vệ quan hệ tôn ty trật tự trong gia đình thể hiện ra trong phong cách ứng xử xưng hô, ở vị trí làm anh, làm chị thì phải tỏ ra rộng rãi, nhường nhịn, bao dung theo đạo lý truyền thống, làm em thì phải tỏ lòng quý mến, tôn trọng anh chị, nghe theo anh chị những điều phải để giữ đạo lý truyền thống gia đình. Trong bất kỳ trường hợp nào anh chị em cũng không nên nói xấu, dè bỉu lẫn nhau mà cần thẳng thắn đấu tranh góp ý cho nhau cùng tốt hơn. Chú bác, cô dì là những người cùng huyết thống đã một thời sinh ra và lớn lên dưới cùng một mái nhà với cha mẹ, cùng đồng cam cộng khổ từ tuổi ấu thơ. Vì vậy, phải giáo dục cho trẻ luôn luôn có thái độ tôn kính, yêu thương, đồng cảm, khi nói năng, cư xử phải lễ độ, từ tốn. Trong trường hợp chú bác, cô dì gặp khó khăn phải chia sẻ, giúp đỡ theo khả năng của mình, không nên thờ ơ, lãnh đạm hoặc tỏ thái độ khinh thường. Ngoài mối quan hệ gia đình, gia tộc con người còn quan hệ với bạn bè, cộng đồng, dân tộc.. gọi chung là các quan hệ xã hội. Cần giáo dục những nội dung: - Lòng nhân ái: Giáo dục lòng nhân ái chính là giáo dục lòng yêu thương con người, yêu thương đồng loại. Sự sai biệt giữa loài người và loài vật chính là khả năng thấu cảm và đồng cảm tinh tế đặc biệt đó. Trong học thuyết của Nho giáo, Khổng Tử coi đức “nhân” là đức đứng đầu đạo lý của con người trong trời đất. Ông cha ta cũng từng răn dạy “Thương người như thể thương thân” và được cụ thể hoá bằng những hành vi đạo đức trong đời sống hằng ngày như: chia sẻ, giúp đỡ tuỳ tâm mình những cảnh đời rủi ro, hoạn nạn. Bất kỳ sống trong xã hội nào, con người cũng phải có lòng nhân ái, yêu thương, đồng cảm với người khác. Chính vì vậy gia đình phải có trách nhiệm giáo dục phẩm chất đạo đức đó cho con cái ngay từ tuổi ấu thơ thể hiện trong hành vi biết tôn trọng mọi người, không tham lam, độc ác, lừa gạt, dối trá với những người xung quanh để trở thành công dân lương thiện. - Tính khiêm tốn: khiêm tốn là một phẩm chất vô cùng quan trọng trong nhân cách, nội dung của khiêm tốn có nghĩa là sự kính nhường, có ý thức và thái độ đúng mực trong công việc đánh giá bản thân, không tự mãn, tự kiêu, không tự cho mình là hơn người. Gia đình phải giáo dục cho trẻ luôn luôn tỏ ra khiêm tốn, không chủ quan, ngạo mạn tự cho mình là hay, là biết hơn người khác. Tính khiêm tốn thường được biểu hiện bằng những ngôn ngữ hành vi lễ phép trong giao tiếp đối với mọi người. Chẳng hạn gặp người cao tuổi, thầy cô giáo thì lễ phép chào hỏi, nhường bước, bày tỏ sự tôn trọng. Với bất kỳ ai cũng không nên nói năng thô tục, có hành vi gây gổ. Tính khiêm tốn không những giúp cho con người ta học tập được những điều hay ở nhiều người khác mà còn làm cho người ta có phong cách cư xử, chu đáo, cẩn thận, cung kính, không hấp tập, vội vàng, không tranh ăn, tranh nói, khoe khoang, phô trương năng lực của mình. Chính vì vậy mà họ được nhiều người tin tưởng, mến phục. - Tính chân thực: Quy luật tất yếu để tồn tại và phát triển của mỗi người trong xã hội là phải giao tiếp ứng xử với người xung quanh. Quan hệ giao tiếp, ứng xử đó có đạt được ý muốn, có thuyết phục được mọi người xung quanh hay không, điều đó phụ thuộc vào đức tính chân thực của mỗi cá nhân. Chân thực, trung thành, trung trực đều có nghĩa tương tự là đối lập với dối tra, manh trá, giả dối… mà các bậc cha mẹ cần phải quan tâm giáo dục cho trẻ từ tuổi nhỏ Con người có đức tính chân thực cũng chính là con người luôn luôn tôn trọng nhân cách, phẩm giá của mình, không để những người xung quanh coi thường, khinh bỉ, đồng thời cũng là người giữ được chữ tín, lấy chữ tín làm gốc rể cho các mối quan hệ. Chân thực là một nét nhân cách đẹp của con người. Nhưng đây là một nét nhân cách phức tạp, đa dạng được biểu hiện bằng những vấn đề cơ bản như: có lỗi thì dũng cảm nhận lỗi, không trốn tránh hoặc đổ lỗi cho người khác. Tôn trọng sự thật, không thay đen, đổi trắng dù trong hoàn cảnh bất lợi cho mình. Lời nói phải thống nhất với việc làm, thực hiện đúng lời hứa, không mưu mô, thực dụng, lừa lọc chiếm đoạt của cải vật chất của người khác… 1.1.3.4. Giáo dục thể chất và thẩm mỹ Sự phát triển của cơ thể ngay từ thủa ấu thơ cho đến lúc trưởng thành, cả giai đoạn trung niên cho đến khi già. Nhưng sự phát triển thể chất ở lứa tuổi thanh thiếu niên có một ý nghĩa rất đặc biệt. Đó là lứa tuổi phát triển mạnh mẽ nhất của tất cả các cơ quan, bộ phận và chức năng sinh lý của cơ thế. Nó có ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến các giai đoạn sau của cuộc đời. Giáo dục thể chất cho trẻ ở trong gia đình, trước hết các bậc cha mẹ phải quan tâm đến sự ăn uống bởi chính sự ăn uống là con đường cung cấp chất dinh dưỡng đầy đủ cho trẻ và cũng chính con đường này dễ gây ra bệnh tật ở tuổi thanh thiếu niên. Vì vậy, phải giáo dục cho trẻ ý thức ăn uống sạch sẽ, tắm giặt thường xuyên, động viên khuyến khích trẻ vận động và tham gia các môn thể thao phù hợp với sở thích và nhu cầu của cá nhân. Việc giáo dục thể chất cho trẻ còn gắn liền với việc tổ chức vui chơi, giải trí, nghỉ ngơi, tham quan du lịch… theo điều kiện hoàn cảnh từng gia đình. - Xã hội văn minh tiến bộ thì nhu cầu thưởng thức cái đẹp, sáng tạo cái đẹp càng được chú trọng. Con người càng yêu cái đẹp bao nhiêu lại càng từ bỏ, căm ghét cái xấu xa bẩn thỉu bấy nhiêu. Nhờ vậy mà con người trở thành thanh cao, có văn hoá. Con người tiếp thu cái đẹp đầu tiên chính là ở gia đình. Vai trò của các bậc cha mẹ đặc biệt quan trọng đối với việc giáo dục thẩm mỹ. Những ấn tượng đầu tiên về cái đẹp của mầu sắc, của âm thanh trong tiếng ru của mẹ, những cảm xúc của sự âu yếm, vuốt ve nồng ấm tình thương, tình người đã được gia đình truyền đạt từ những năm tháng tuổi thơ. Có thể nói những mầm mống của cái đẹp được tiếp nhận ở trong gia đình là nền tảng để xây dựng cái đẹp của cả cuộc đời. Thế giới tự nhiên, cuộc sống xã hội, các hoạt động văn hoá, nghệ thuật của con người như thơ ca, hội hoạ, điện ảnh… chứa đựng biết bao vẻ đẹp thâm thuý, sâu sắc của nó. Vì vậy, không phải các bậc cha mẹ nào cũng có khả năng, trình độ để phân tích, giảng giải trang bị cho trẻ những kiến thức, trình độ thẩm mỹ chuyên sâu trong tất cả các loại hình đó. Nhưng giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện cho trẻ những cảm xúc, những tình cảm thẩm mỹ về cái đẹp trong giao tiếp, quan hệ giữa con người với con người, con người với tự nhiên, với xã hội và ngay chính với bản thân con người thì cha mẹ hoàn toàn có thể thực hiện được. Trong gia đình, ngay từ thủa ấu thơ, các bậc cha mẹ đã phải dạy cho trẻ “học ăn, học nói, học gói, học mở” về mọi vấn đề sao cho phù hợp với những nguyên tắc, chuẩn mực xã hội. Cái đẹp thường gắn bó với cái “chân”, cái “thiện” thể hiện một nhân cách tốt đẹp. Nếu thiếu hụt sự giáo dục “thẩm mỹ” trong gia đình thì con người tuy có bản chất tốt nhưng khi giao tiếp ứng xử với người khác có thể trở thành cẩu thả, thiếu tế nhị, thậm chí thô lỗ khiến cho người khác khó chịu. Vì vậy, giáo dục thẩm mỹ trong gia đình, trước hết phải quan tâm giáo dục những hành vi trong nếp sống. Trên đây là những nội dung cơ bản về giáo dục gia đình. Tuỳ vào trường hợp và điều kiện hoàn cảnh cụ thể của từng gia đình mà các bậc cha mẹ lựa chọn phương pháp giáo dục phù hợp giúp các em phát triển hoàn thiện tài năng, phẩm chất của mình. 1.2. Trẻ em và mối quan hệ giữa trẻ em với gia đình và xã hội 1.2.1. Trẻ em Trẻ em là một thuật ngữ dùng để chỉ một nhóm xã hội thuộc về độ tuổi trong giai đoạn đầu đời của sự phát triển con người. Đó là những người chưa trưởng thành, còn non nớt về thể chất, trí tuệ, dễ bị tổn thương và cần được gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục đặc biệt về mọi mặt bao gồm cả sự bảo vệ về mặt pháp lý. Khái niệm trẻ em đã được đề cập trong tuyên bố Giơnevơ (1924); tuyên bố của Liện hợp Quốc về Quyền trẻ em (1959); Công ước quốc tề về các quyền dân sự và chính trị (1966); Tuyên ngôn về quyền con người (1968); công ước của Liên hiệp Quốc về Quyền trẻ em (1990)… Theo điều I của Công ước quốc tế về quyền trẻ em ghi rõ: “Trẻ em có nghĩa là mọi người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Đối với Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ở nước ta (2004) xác định trẻ em là “Công dân Việt Nam dưới 16 tuổi” đây là những người chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như về tâm sinh lý, trình độ nhận thức và kinh nghiệm sống còn nhiều hạn chế, thiếu những điều kiện để tự lập và khả năng kiềm chế chưa cao nên dễ bị kích động lôi kéo vào những hoạt động phiêu lưu mạo hiểm. Quy định này ở Việt Nam tập trung vào những đối tượng thuộc nhóm tuổi nhỏ và là căn cứ chính để xây dựng chiến lược bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em trong giai đoạn tới. * Đặc điểm trẻ em: - Tâm lý của trẻ em: Tâm lý (của con người) là toàn bộ sự phản ánh của hiện thực khách quan vào ý thức con người, bao gồm nhận thức, tình cảm, ý chí, v.v.. biểu hiện trong hoạt động và cử chỉ của mỗi người. Tâm lý người bao giờ cũng là cái “riêng” của từng người, nhưng cái riêng ấy là bộ phận của của cái chung của loài người, dân tộc, địa phương, gia đình mà ra. Bằng giáo dục, vui chơi, lao động, giao tiếp, gia đình hay xã hội truyền đạt các tri thức ấy từ thế hệ này qua thế hệ khác. Mỗi người lĩnh hội vốn liếng đó, biến thành vốn sống kinh nghiệm, tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, tình cảm, ý chí… của riêng mình. Đó chính là tâm lý của bản thân mỗi người, cuộc sống phức tạp, đa dạng, sinh động chừng nào thì tâm lý con người phức tạp, đa dạng, sinh động chừng đó. Trẻ em bắt đầu bằng các quan hệ với cha mẹ, sau dần giao tiếp với các thành viên khác trong gia đình: bạn bè, làng xóm, thầy cô…Trẻ em tiếp thu nếp sống, tập tục, thói quen hàng ngày của gia đình, làng xóm, địa phương biến thành vốn sống, kỹ năng, kỹ xảo, ý chí, tình cảm, động cơ thái độ của riêng mình. Trẻ em do chưa phát triển đầy đủ về thể chất và trí tuệ, non nớt về mặt tâm sinh lý mà chính các em không tự mình giải quyết được những thiếu hụt đó. Do vậy, đòi hỏi người lớn phải có sự quan tâm đúng mức để tạo ra định hướng tích cực cho sự phát triển nhân cách ở trẻ em, từ đó bảo vệ, chăm sóc và hỗ trợ trẻ.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan