Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vai trò của cộng đồng người việt ở lào từ năm 1976 đến năm 2012...

Tài liệu Vai trò của cộng đồng người việt ở lào từ năm 1976 đến năm 2012

.PDF
105
163
145

Mô tả:

LỜI CẢM ƠN Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên của tôi nên chắc chắn không tránh khỏi những hạn chế. Để có thể hoàn thành được công trình nghiên cứu này ngoài sự nỗ lực của bản thân tôi còn nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của cô Nguyễn Thị Tuyết Nhung. Nhân dịp này tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến cô người đã dìu dắt tôi trên bước đường tập dượt nghiên cứu khoa học của mình. Bên cạnh đó cũng cho phép tôi được gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân và bạn bè, đã động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình làm khoa học, để tôi hoàn thành đề tài khóa luận của mình. Tôi xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo trong khoa Lịch sử đã cung cấp cho tôi những kiến thức trong quá trình học tập tại trường. Tôi xin chân thành cảm ơn! HàNội, ngày 20 tháng 4 năm 2013 Tác giả khóa luận Đặng Thị Hiền LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi với sự hướng dẫn của Thạc sĩ Nguyễn Thị Tuyết Nhung. Các số liệu, dữ liệu, kết quả trong khóa luận là hoàn toàn trung thực. Các nguồn tài liệu trích dẫn có nguồn gốc và xuất xứ rõ ràng. Tôi xin cam đoan những điều trên là đúng sự thật. Hà Nội, ngày 20 tháng 4 năm 2013 Tác giả khóa luận Đặng Thị Hiền BẢNG KÍ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT GDP Tổng sản phẩm quốc nội USD Đồng đô la Mỹ CHDCND Cộng hòa dân chủ nhân dân AFTA Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN GMS Chương trình tiểu vùng sồng Mê Kông HCR Cao ủy Liên hợp quốc về người tị nạn VND Việt Nam đồng MỤC LỤC MỞ ĐẦU................................................................................................ 1 NỘI DUNG .................................................................................................. 7 Chương 1 KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CỘNG ĐỒNG NGUỜI VIỆT Ở LÀO 1.1. KHÁI NIỆM .......................................................................................... 7 1.1.1. Việt kiều ............................................................................................... 7 1.1.2. Cộng đồng người Việt .......................................................................... 8 1.2. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT Ở LÀO............................................................................................................... 9 1.2.1. Giai đoạn trước năm 1899 .................................................................... 9 1.2.2. Giai đoạn từ năm 1899 đến năm 1946. ............................................... 16 1.2.3. Giai đoạn từ năm 1946 đến năm 1975. ............................................... 22 1.2.4. Giai đoạn từ 1976 đến nay. ................................................................. 27 1.3. HIỆN TRẠNG MỘT SỐ HỘI NGƯỜI VIỆT NAM Ở LÀO............ 32 Tiểu kết chương .......................................................................................... 36 Chương 2 VAI TRÒ CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT Ở LÀO TỪ NĂM 1976 ĐẾN NĂM 2012 ................................................................ 38 2.1. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ .................................................................... 38 2.1.1. Tình hình nước Lào từ 1976 đến nay. ................................................. 38 2.1.2. Khái quát về quan hệ Việt Nam - Lào. ................................................ 41 2.2. VAI TRÒ CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT Ở LÀO TỪ NĂM 1976 ĐẾN NĂM 2012 ................................................................................. 46 2.2.1. Trên lĩnh vực an ninh - chính trị. ........................................................ 46 2.2.2. Những đóng góp về kinh tế của người Việt ở Lào .............................. 50 2.2.3. Người Việt ở Lào trong vai trò cầu nối quan hệ Việt Nam - Lào trên lĩnh vực văn hóa, giáo dục. .................................................................... 70 2.3. NHẬN XÉT VỀ VỊ THẾ CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT TRONG XÃ HỘI LÀO .............................................................................. 84 Tiểu kết chương .......................................................................................... 86 KẾT LUẬN ......................................................................................... 88 TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................... 92 PHỤ LỤC ............................................................................................ 95 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Từ xưa tới nay quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào là một quan hệ điển hình, một tấm gương mẫu mực hiếm có về sự gắn kết bền chặt, thủychung, trong sáng và đầy hiệu quả giữa hai dân tộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào phát triển từ quan hệ truyền thống do chủ tịch Hồ Chí Minh cùng đồng chí Cayxỏn Phômvihản, đồng chí Suphanuvông và các thế hệ lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân hai nước dày công vun đắp. Nhân dân hai nước Lào và Việt Nam đã gắn bó yêu thương nhau, không chỉ vì có chung dãy Trường Sơn hùng vĩ, hay dòng sông Mê Kông, mà còn vì hai dân tộc có chung một số phận, cùng chung kẻ thù xâm lược, cùng bước trên con đường tiến đến một lý tưởng chung. Không giống như quan hệ Việt Nam với các nước khác, quan hệ giữa Việt Nam và Lào là quan hệ đặc biệt. Sự đặc biệt ấy được tạo nên không chỉ bởi quan hệ láng giềng hữu nghị vốn có lâu đời, mà còn được tạo nên bởi quá trình đấu tranh cách mạng cùng chống kẻ thù chung và cùng xây dựng Chủ nghĩa Xã hội. Đó là sự gắn bó keo sơn, máu thịt trong suốt chiều dài lịch sử đặc biệt với hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Hàng vạn cán bộ chiến sỹ tình nguyện Việt Nam đã hoạt động ở Lào và để lại ấn tượng tình cảm sâu đậm trong nhân dân Lào. Những lực lượng tham gia cách mạng đầu tiên ở Lào chính là người Việt. Cộng đồng người Việt ở Lào đã góp phần chủ yếu trong cuộc nổi dậy cướp chính quyền Lào tháng 8 năm 1945, dẫn đến tuyên bố độc lập của Lào ngày 12 tháng 10 năm 1945. Trong hai cuộc kháng chiến, con em Việt kiều lần lượt ra tiến tuyến chiến đấu chống xâm lược thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng cùng với toàn dân, Việt kiều đã đứng lên tự nguyện nhận 1 những nhiệm vụ của Đảng giao phó và đã hoàn thành một cách xuất sắc, góp phần vào thắng lợi hoàn toàn thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào ngày 2 tháng 12 năm 1975. Khi Đất nước Lào được giải phóng, giành độc lập tự chủ cộng đồng người Việt tiếp tục giữ một vai trò quan trọng trong xã hội Lào. Đóng góp không nhỏ vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Đất nước Lào, trên tất cả các mặt: an ninh - chính trị, kinh tế, văn hóa… Chính phủ Lào ghi công và có nhiều khen thưởng, tổ chức hội Việt kiều hiện nay chính thức được công nhận là thành viên của mặt trận Lào xây dựng Đất nước. Những đóng góp tích cực của cộng đồng người Việt ở Lào trong giai đoạn này , đã thúc đẩy hơn nữa tình đoàn kết hữu nghị Việt – Lào. Năm 2012, Đảng, Chính phủ hai nước đã long trọng tổ chức mít tinh kỷ niệm, đánh dấu mốc quan trọng trong quan hệ hai nước, kỷ niệm 50 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao và 35 năm ngày ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Việt – Lào. Củng cố hơn nữa về tương lai tốt đẹp, về mối quan hệ đoàn kết, gắn bó thủy chung của nhân dân hai nước Việt – Lào. Nghiên cứu đóng góp của cộng đồng người Việt ở Lào còn góp phần củng cố hơn nữa mối quan hệ Việt – Lào, chống lại âm mưu diễn biến hòa bình của những thế lực thù địch nhằm chia rẽ quan hệ Việt – Lào, góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới. Do vậy, vấn đề đặt ra trong nghiên cứu về quan hệ đặc biệt hai nước Việt Nam và Lào không thể bỏ qua việc nghiên cứu về vai trò của cộng đồng người Việt ở Lào nhất là từ sau giải phóng cho đến nay. Chính vì những lí do trên tôi xin chọn đề tài: “Vai trò của cộng đồng người Việt ở Lào từ năm 1976 đến năm 2012” làm đề tài ngiên cứu khóa luận của mình. 2 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề So với các công trình nghiên cứu về Lào, việc nghiên cứu về vai trò của cộng đồng người Việt tại Lào ở Việt Nam chưa có nhiều công trình được công bố, chỉ có một số bài viết tản mạn đây đó và có lẽ mới chỉ có một số công trình như Việt kiều Lào- Thái với quê hương của Trần Đình Lưu nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội năm 2004; Cộng đồng người Việt ở Lào trong mối quan hệ Việt Nam – Lào, nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà nội, 2008, do PGS.TS. Phạm Đức Thành (chủ biên). Cuốn sách đã góp phần dựng lại bức tranh về lịch sử hình thành cộng dồng người Việt ở Lào, cung cấp những kiến thức cơ bản về cộng đồng người Việt tại Lào. Tuy nhiên công trình này mới tập trung trình bày những đóng góp của việt Kiều ở Lào, Thái Lan trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chưa đi sâu phân tích, đánh giá vai trò của cộng đồng người Việt ở Lào trên các mặt chủ yếu của đời sống xã hội Lào trong mối quan hệ Việt Nam - Lào. Nguyễn Duy Thiệu với cuốn Dicư và chuyển đổi lối sống trường hợp cộng đồng người Việt ở Lào, nhà xuất bản Thế giới, năm 2008 cũng đã có những đánh giá, nhìn nhận về quá trình di cư của người Việt sang Lào, những chuyển đổi trong phương thức kiếm sống và đời sống vật chất, tinh thần của cộng đồng người Việt ở Lào. Song công trình cũng chưa tập chung phân tích, những đóng góp của cộng đồng người Việt ở Lào đối với nền kinh tế xã hội Lào. Ngoài ba cuốn sách đáng chú ý nêu trên, còn có một số cuốn sách tham khảo khác liên quan đến đề tài nghiên cứu như: Việt - Lào hai nước chúng ta, nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội, xuất bản năm 2008 do tác giả Nguyễn Văn Khoa chủ biên; Nhóm tác giả Đặng Bích Hà, Phạm Nguyên Long, Vũ Công Quý cũng cho xuất bản cuốn sách “Về lịch sử văn hóa ba nước Đông Dương”, năm 1983, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà nội; Viên 3 nghiên cứu Đông Nam Á, năm 1994 xuất bản cuốn sách “Tìm hiểu lịch sử văn hóa nước Lào”, nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội; nhóm tác giả khác gồm Nguyễn Đình Thụ, Mai Sĩ Hùng, Vũ Dương Huấn, năm 2003 cũng đã cho xuất bản cuốn “Quan hệ đặc biệt Việt – Lào”, nhà xuất bản Học viện quan hệ quốc tế; Đất nước Lào lịch sử và văn hóa, nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội, năm 1996 do Lương Ninh (chủ biên); Liênminh đoàn kết chiến đấu Việt Nam- Lào- Campuchia, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, năm 1983 do Hoàng Văn Thái (chủ biên)… Ngoài ra còn có các bài viết liên quan đến đề tài nghiên cứu như: Vũ Thị Vân Anh, Nguyên nhân và các đợt di cư của người Việt đến Lào, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 2, năm 2007. Nguyễn Duy Thiệu, Cộng đồng người Việt tại Lào sinh tồn và giữ gìn bản sắc, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 2, năm 2007. Phạm Đức Thành, Vai trò kinh tế của người Việt ở Lào, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 2, năm 2007. Nguyễn Hào Hùng, Tài liệu lưu trữ thời kỳ thuộc địa Pháp liên quan đến đề tài cộng đồng người Việt ở Lào, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 2, năm 2007. Phạm Đức Thành, Quan hệ đặc biệt Việt Nam- Lào, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 66, năm 2004. Nghiêm Thi Hải Yến, Đóng góp của Việt kiều trong đấu tranh giành độc lập của nhân dân Lào giai đoạn những năm 30 cuối thế kỉ XX, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 9, năm 2007. Bùi Đình phong, Một và suy nghĩ về tư tưởng Hồ Chí Minh trong quan hệ đoàn kết Việt Nam- Lào, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 3, năm 1996. Như vậy ta có thể thấy rằng vấn đề vai trò của cộng đồng người Việt ở Lào đã được nhiều học giả đề cập đến. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu về vai trò cộng đồng người Việt ở Lào, những đóng góp của họ trên các mặt của đời sống kinh tế - xã hội Lào. 4 Khẳng định quan hệ keo sơn gắn bó của hai dân tộc Việt- Lào trong quá khứ cũng như tương lai. Nhiệm vụ nghiên cứu: Tiến hành nghiên cứu lịch sử hình thành cộng đồng người Việt ở Lào. Và vai trò của người Việt đối với sự phát triển kinh tế Lào từ 1976 cho đến nay, trên tất cả các mặt an ninh - chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội. Phạm vi nghiên cứu: Vai trò của cộng đồng người Việt ở Lào là một mảng đề tài khá rộng, nên khóa luận chỉ tập trung nghiên cứu những đóng góp của cộng đồng người Việt ở Lào trên các mặt cụ thể như an ninh - chính trị, kinh tế và văn hóa - giáo dục, tín ngưỡng. Về thời gian: khóa luận sẽ tập trung nghiên cứu những đóng góp của cộng đồng người Việt ở Lào từ 1976 cho đến năm 2012. 4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu Nguồn tư liệu: chủ yếu là các công trình nghiên cứu, báo cáo khoa học, các bài báo, tạp chí của các nhà nghiên cứu, các trang web có liên quan đến đề tài ngiên cứu. Về phương pháp ngiên cứu, sử dụng phương pháp lịch sử, ngoài ra còn sử dụng phương pháp so sánh, phương pháp niên đại, đồng đại để để xác minh đối chiếu các sự kiện nội dung lịch sử và xác minh tư liệu lịch sử. 5. Bố cục báo cáo đề tài Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục khóa luận bao gồm hai chương: Chương 1: Quá trình hình thành cộng đồng người Việt ở Lào Chương 2: Vai trò của cộng đồng người Việt ở Lào từ năm 1976 cho đến nay. 5 6. Đóng góp của khóa luận. Khóa luận tập trung phân tích, nghiên cứu ,tìm hiểu sự xuất hiện của những người Việt đầu tiên đặt chân đến Lào,quá trình di cư và hình thành nên cộng đồng người Việt ở Lào, hiện trạng một số hội người Việt Nam ở Lào. Những đóng góp của cộng đồng người Việt đối với sự phát triển kinh tế- xã hội Lào. 6 Chương 1 KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT Ở LÀO 1.1. KHÁI NIỆM 1.1.1. Việt kiều Chúng ta đều biết khái niệm “ngoại kiều” là để chỉ những người nước ngoài sống trên một nước sở tại nào đó. Những người này được hưởng quy chế ngoại kiều. Do vậy trước đây người ta thường dùng khái niệm “Việt Kiều” để chỉ những người Việt định cư lâu dài ở nước ngoài mà không có quốc tịch nước sở tại. Trong thực tế, thuật ngữ Việt kiều lại bao gồm cả những người đã nhập quốc tịch nước sở tại. Thuật ngữ “Việt Kiều” được sử dụng rộng rãi trong các văn bản nhà nước Việt Nam cho đến trước tháng 11/ 1993. Chịu trách nhiệm các công việc về Việt kiều có Ban Việt Kiều Trung ương [ 21; 121]. Trong những thập niên cuối thế kỷ XX, số lượng người Việt ở nước ngoài ngày càng gia tăng. Bên cạnh những người Việt được gọi là Việt kiều như trên còn có cả những người mới ra nước ngoài từ những thập kỷ 80, 90 theo các con đường khác nhau như được cử đi học (đại học, sau đại học, học ngề), đi xuất khẩu lao động… khi hết hạn, hết hợp đồng không trở về nước mà ở lại làm ăn sinh sống. Do vậy lúc này lại xuất hiện thêm khái niệm “ người Việt Nam định cư ở nước ngoài”. Cũng vì thế từ cuối tháng 11/1993 trong các văn bản pháp luật Thực định của Việt Nam không dung thuật ngữ “Việt kiều” nữa mà dùng “ người Việt Nam định cư ở nước ngoài” để chỉ tất cả các bộ phận người Việt sống ở nước ngoài nói trên. Cơ quan chịu trách nhiệm các công việc về người Việt Nam ở nước ngoài là Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài [14; 14-15]. 7 Có lẽ Thuật ngữ chính xác nhất và chính thống nhất là “Người Việt Nam ở nước ngoài” được đưa ra trong Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị, ban hành ngày 26/3/2004. Văn kiện quan trọng này đã nhấn mạnh “Đảng và nhà nước ta luôn coi cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam”. Tất nhiên trong khái niệm người Việt Nam ở nước ngoài nói trên không bao gồm những cán bộ (ngoại giao, phóng viên, các đại diện các hãng, các công ty…); những học sinh sinh viên đang theo học ở nước ngoài và cả những người đang thực hiện sự hợp tác, xuất khẩu lao động theo chương trình, kế hoạch của nhà nước. 1.1.2. Cộng đồng người Việt Trong nghị quyết 36 của Bộ Chính trị có nhấn mạnh đến khái niệm “Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài”. Vậy cộng đồng là gì ? Theo từ điển Bách Khoa Việt Nam “Cộng đồng (xã hội) là một tập đoàn người rộng lớn có những dấu hiệu, những đặc điểm xã hội chung về thành phần giai cấp, về nghề nghiệp, về địa điểm sinh tụ và cư trú. Cũng có những cộng đồng xã hội bao gồm cả một dòng giống, một sắc tộc , một dân tộc. Như vậy Cộng đồng xã hôi bao gồm một loạt yếu tố xã hội chung mang tính phổ quát. Đó là những mặt về cộng đồng kinh tế, về địa lý, về ngôn ngữ, về văn hóa, về tín ngưỡng và tâm lý, về đời sống.Những yếu tố này trong tính tổng thể của nó tạo nên tính ổn định và bền vững của một cộng đồng xã hội. Khẳng định tính thống nhất của một cộng đồng xã hội trên quy mô rộng lớn, cũng đồng thời phải thừa nhận tính đa dạng và nhiều mầu sắc của các cộng đồng xã hội trên những quy mô nhỏ hơn” [ 21; 601]. Căn cứ vào quan niệm trên, người Việt ở Lào từ lâu đã cùng nhau tạo nên một cộng đồng với đầy đủ những yếu tố cấu thành của nó, tức là những người Việt đó đã cùng sống trên lãnh thổ nước Lào, cùng sinh kế làm ăn, cùng nói tiếng Việt, có đời sống tâm linh với tín ngưỡng, tôn giáo giống nhau 8 và cùng nhau giữ gìn bản sắc văn hóa Việt. Vậy cộng đồng người Việt ở Lào sẽ bao gồm những thành phần tộc người nào? Trước hết phải hiểu cộng đồng người Việt ở đây là muốn nói đến cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, tức bao gồm nhiều thành phần tộc người khác nhau. Tuy nhiên do khuôn khổ của công trình này, tôi xin được hạn chế ở cộng đồng người kinh (Việt). Qua điều tra nghiên cứu, cộng đồng người Việt ở Lào gồm ba bộ phận sau: Thứ nhất là những người Việt đã nhập quốc tịch Lào hay còn gọi là người Lào gốc Việt. Thứ hai là những người Việt định cư lâu đời ở Lào nhưng chưa nhập quốc tịch Lào, được gọi là Việt kiều (được hưởng quy chế ngoại kiều). Thứ ba là những người mới đến Lào bằng nhiều con đường như tự do tìm kiếm công ăn việc làm (có và không có hộ chiếu); buôn bán tự do; những người đến Lào làm việc theo hợp đồng, dự án hợp tác, hết thời hạn không về ở lại Lào; các cô dâu, chú rể người Việt… Cũng có ý kiến cho rằng cộng đồng người Việt ở Lào chia làm hai nhóm : trước và sau năm 1975. Trước năm 1975 gọi là người Việt cũ và sau năm 1975 gọi là người Việt mới. 1.2. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT Ở LÀO 1.2.1. Giai đoạn trước năm 1899 Lào và Việt Nam là hai nước láng giềng có chung 2.067km đường biên giới. Có thể nói từ xa xưa Lào và Việt Nam đã có mối quan hệ khá đặc biệt, trong đó yếu tố địa lý đóng vai trò quan trọng đã tác động đến mối quan hệ qua lại của nhân dân hai nước, nhất là diễn ra ở dọc biên giới miền núi Tây bắc Việt Nam với các tỉnh của Lào từ Phôngsalỳ xuống đến Sầm Nưa, Xiêng khoảng, Khăm Muộn, thậm chí tiến sâu vào tận Luổng phabang, kéo dài đến vùng núi Thanh Hóa và Nghệ An của Việt Nam. 9 Phần lớn tuyến biên giới Việt Nam - Lào đều đi qua các đỉnh núi hoặc triền núi và qua những cánh rừng rậm nhiệt đới. Do địa hình biên giới quá dài, cộng với sự phân bố cư dân dọc các đường biên giới quá thưa thớt và chủ yếu lại là địa bàn cư trú của các dân tộc ít người nên từ bao đời nay việc đi lại giữa hai quốc gia, nhất là từ Việt Nam sang Lào hết sức thuận lợi. Điều kiện địa lý thuận lợi này chính là yếu tố quan trọng dẫn đến sự hiện diện của cộng đồng người Việt trên đất nước Lào từ rất sớm. Tất nhiên sự hiện diện của cộng đồng người Việt ở vùng biên giới nói trên vào thời kỳ đó diễn ra một cách tự nhiên, đơn thuần chỉ là sự giao lưu qua lại giữa cư dân vùng biên giới, hoàn toàn chưa liên quan gì đến mối bang giao giữa hai vương triều phong kiến Việt Nam và Lào. Lực đẩy từ phía Việt Nam hay lực hút từ phía Lào không phải là vấn đề đặt ra đối với họ, bởi lẽ đương thời các vùng như Sầm Nưa, Xiêng khoảng, Khăm Muộn với Lai Châu, Điện Biên, Thanh Hóa,Nghệ An, nhân dân hai dân tộc thường xuyên đi lại làm ăn buôn bán, thậm chí định cư tạm thời hoặc ở hẳn đất Lào, đất Việt là chuyện thường nhật. Sau này khi Liên bang Đông Dương thuộc Pháp hình thành thì thân phận của cộng đồng người Việt ở Lào mới có sự thay đổi và từ sau năm 1919 (sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất) những người Việt lúc đó sống trên đất Lào mới thực sự trở thành kiều dân của vương quốc Lào. Quá trình di dân của người Việt đã diễn ra trong suốt chiều dài lịch sử phát triển đất nước và mở rộng bờ cõi. Quá trình này đi cùng với quan hệ qua lại giữa hai nước Việt –Lào và quan hệ này đã được thiết lập từ xa xưa. Theo thư tịch cổ ghi chép đầu tiên về quan hệ Việt - Lào là từ năm 550 dưới thời nước Vạn Xuân của nhà tiền Lý. Khi đấy, bị quân Lương đàn áp, Lý Nam Đế buộc phải lánh nạn và anh ruột của vua là Lý Thiên Bảo đã chạy sang Lào lập căn cứ chống giặc ngoại xâm: “Năm canh ngọ (550) (Triệu Việt Vương năm thứ 2, Lương Giản văn đế, năm Đại Bảo thứ 1) tháng giêng, mùa xuân, Lý 10 Thiên Bảo giữ động Dã Năng, tự xưng là Đào Lang Vương. Trước kia, Lý Bôn lánh vào Động khuất Lạo,anh ruột Lý Bôn là Thiên Bảo… rút vào Cửu Chân… quân Thiên Bảo bị thua mới thu thập quân còn lại chạy sang vùng người Di Lạo ở biên giới Ai Lao. Thiên Bảo thấy động Dã Năng… là chỗ đất bằng phẳng và màu mỡ ,bèn đắp thành ở đấy…, được dân chúng tôn làm chúa, xưng là Đào Lang Vương” [26; 8]. Sau đó đến thế kỷ 11, dưới vương triều Lý, nhà Lý đã ba lần mang quân giải quyết các xung đột ở biên cương Lào- Việt vào những năm 1048 (Lý Thái Tôn), năm 1159 (Lý Anh Tôn) và năm 1183 (Lý Cao Tôn). Rồi đến thời Trần, cũng có nhiều cuộc động binh sang Lào vào các năm 1290, 1294, 1334 và 1335 nhưng chủ yếu chỉ nhằm mục đích phòng vệ và tìm kiếm đồng minh nên các cuộc động binh của nhà Trần hầu như không làm tổn hại đến quan hệ giữa hai nước. Chính vì vậy mà khi nhà Trần mất đi, nhiều quý tộc triều Trần đã sang Lào lập căn cứ nuôi dưỡng lực lượng làm nơi nương tựa để tìm đường khôi phục vương triều. Sang đến thời nhà Lê vua Lê Thánh Tông đã hai lần thân chinh cầm quân sang Lào. Lần thứ nhất vào tháng 6 năm 1479. Trong lần tấn công này, do phía Lào không chuẩn bị lực lượng nên quân đội nhà Lê đã nhanh chóng tiến vào thủ đô Luổng Phabang và truy đuổi vua Lào chạy đến biên giới Myanma rồi mới trở về. Lần thứ hai vào tháng 10 cùng năm đó, vua Lê Thánh Tông lại tập hợp quân mã tiến sang Lào. Nhưng lần này, các chậu mường địa phương của Lào đã biết trước ý đồ của vua Lê Thánh Tông nên đã tập hợp nhau lại để chống đỡ. Do quân lính đi xa mệt mỏi lại gặp phải quân đội các chậu mường Lào chống đỡ nên quân đội nhà Lê lần này không vào được Luổng Phabang. Vua Lê bèn sai rút quân về.Lần này, quân đội nhà Lê một số bị tử trận, một số bị thương, bị bắt làm tù binh. Nhiều người trong số tù binh Việt đó đã được nhân dân Lào chạy chữa vết thương và sau đó đã được phép 11 ở lại Lào làm ăn sinh sống. Những người này đã lấy vợ Lào và hòa nhập vào cộng đồng của người Lào. Sau khi lên ngôi (thế kỷ XVIII), vua Quang Trung đã sai sứ giả sang Lào tìm sự hợp tác với Lào chống lại Nguyễn Ánh. Nước Lào thời kỳ này đang nằm dưới sự thống trị của vương quốc Xiêm.Vua Xiêm lại đang giúp đỡ Nguyễn Ánh chống lại Tây Sơn nên vua Lào không giám có quan hệ với Tây sơn. Vua Lào đã bắt giữ đoàn sứ giả Tây Sơn cùng tất cả cờ trống họ mang theo đưa sang cho vua Xiêm cầm tù. Trước tình hình đó, vua Quang Trung đã cử đốc trấn Nghệ An Trần Quang Diệu đem 3 vạn quân đi dẹp phía tây. Mục đích của chuyến hành quân này không chỉ nhằm vào Lào mà còn nhằm răn đe quân Xiêm đang đóng ở Lào. Với mục đích đó Trần Quang Diệu đã tiến quân sang Lào. Quân đội Tây Sơn nhanh chóng tiến vào Viên Chăn khiến cho vua Lào phải bỏ chạy sang Xiêm. Sau khi vua Quang Trung qua đời, Nguyễn Ánh ráo riết tìm mọi cách chống lại nhà Tây Sơn. Vua Lào đã cho sứ giả đến Huế xin được đưa quân đội từ Thượng Lào xuống đánh Tây Sơn, nhưng Nguyễn Ánh không chấp nhận. Sau khi dẹp được phong trào Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã đền ơn giúp đỡ vua Lào bằng cách cử người Việt đến Luổng phabang giúp vua Lào xây dựng hoàng cung Lào. Sự kiện này không được ghi vào chính sử nhà Nguyễn. Nhưng hậu duệ của những người Việt đến Lào vào thời vua Gia Long, sinh sống ở Luổng pha bang đã kể lại cho con cháu họ từ đời này qua đời khác. Vào giai đoạn đầu của vương triều Nguyễn, vua Gia long thực hiện chính sách không cấm đạo, chính vì thế mà đạo Thiên chúa đã ngày càng phát triển trong dân chúng, nhất là hoạt động truyền giáo của nước Pháp nhằm thu nạp nhiều giáo dân, khuếch trương thế lực chính trị cho nước Pháp. Điều này khiến vua Gia Long dần lo ngại, thêm vào đó là sự phản đối ngấm ngầm việc 12 chọn người nối ngôi của nhà vua.Từ đó vua Gia Long đối với đạo Cơ đốc chỉ còn là sự khinh bỉ và hận thù. Đến thời vua Minh Mạng, vì cho rằng các giáo sỹ Pháp đã lợi dụng danh nghĩa truyền giáo để dò xét tình hình, gây mâu thuẫn và xúi bẩy giáo dân chống triều đình, nhà Nguyễn đã thực thi các biện pháp cứng rắn, ra lệnh cấm đạo với việc ban hành Dụ cấm đạo thứ nhất của vua Minh Mạng vào tháng 2 năm 1825. Sau đó là hàng loạt các dụ cấm đạo khác như Dụ cấm đạo thứ hai ban hành ngày 6 tháng 1 năm 1833…Với chính sách này các giáo sỹ buộc phải về nước trong thời hạn 3 tháng, các nhà thờ bị phá hủy kinh khủng, kinh thánh bị đốt, dân chúng bị ngiêm cấm theo đạo. Chính sách này của triều Nguyễn đã lên đến đỉnh điểm của sự hà khắc vào thời vua Tự Đức (1823 - 1883). Không chỉ cấm đoán, nhà Nguyễn còn đàn áp dã man những người theo công giáo. Trước hành động tàn bạo của vua quan triều Nguyễn, nhiều người theo đạo thiên chúa ở những vùng ven biển miền trung Việt Nam đã tìm cách chạy chốn sang Lào. Theo lời kể của bà con Việt kiều tại Nam Lào thì số cư dân Việt sang Lào thời Tự Đức gồm 5 làng thiên chúa giáo và một số cư dân không theo thiên chúa giáo muốn thoát khỏi ách thống trị của nhà Nguyễn cũng chạy sang Lào. Số cư dân Việt sang Lào thời kỳ này gồm 5000 người, trong số đó có 1000 người là giáo dân chủ yếu ra đi từ vùng Thừa Thiên Huế, Quảng Trị. Một số giáo dân đã đến Bôlikhămxay kiếm sống và đã xây dựng ở đây một nhà thờ thiên chúa giáo để hành đạo. Lúc đầu người Việt định cư ở tỉnh này khá tập chung nhưng càng về sau họ càng tản đi các vùng khác để kiếm sống. Một số người ở lại Nam Lào. Một số đi kiếm sống ở dọc theo sông Mê Kông và dần dần đến lập nghiệp ở những vùng như Noỏng Xẻng, Bản Thà … Một số khác di cư đến Luổng Phabang và các miền khác của Lào. Chính những người Việt đến Luổng Phabang vào thời kỳ này đã hình thành nên cộng đồng người Việt theo Thiên chúa giáo ở Lào. 13 Theo lời kể của những người lãnh đạo Hội cộng đồng người Việt tại Luổng Phabang thì tại cố đô đã từng có một làng người Việt theo Thiên chúa giáo từ lâu đời nhưng sau khi cách mạng Lào thắng lợi (1975), do lo sợ của những người cộng sản Lào không chấp nhận Thiên chúa giáo nên cả làng đó đã di cư ra nước ngoài. Nhiều người trong cộng đông Thiên chúa giáo hiện nay vẫn còn có quan hệ với bà con người Việt ở Luổng Phabang. Hàng năm họ vẫn về thăm cố đô và góp tiền xây dựng trường học và nghĩa trang của người Việt ở Luổng Phabang. Có thể thấy do chính sách cấm đạo dưới triều Nguyễn, nhiều người công giáo đã buộc phải bỏ làng xóm ra đi để giữ đạo. Họ chủ yếu từ các làng đạo miền Bắc và Trung Bộ chạy sang các nước láng giềng gần như Lào. Nhiều nhà thờ hiện nay ở Lào do các giáo dân và giáo sỹ người Việt góp sức dựng nên cùng với cộng đồng đi đạo vẫn tồn tại và phát triển cả người Việt và người bản xứ xung quanh những nhà thờ công giáo đó. Điển hình là ở Trung và Nam Lào với các nhà thờ ở Thà Khẹc - Khăm Muộn, ở thị xã Savannakhet và ở Pắc sế, Chămpasắc. Không chỉ vì lí do tôn giáo mà còn vì những lý do xuất phát từ thiên tai, mất mùa đói kém và sưu cao thuế nặng mà người Việt buộc phải bỏ quê hương di cư sang Lào. Cho dù, trong suốt chiều dài lịch sử cùng với nhiều thời kỳ phong kiến các triều đại khác nhau và ngay cả triều đại phong kiến nhà Nguyễn cũng đã có những biện pháp ngăn ngừa và khắc phục thiên tai nhưng cũng không ngăn nổi tình trạng lụt lội, hạn hán gần như năm nào cũng xảy ra, nhất là ở đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ và Trung Bộ. Đặc biệt, nạn đê vỡ lụt lội liên tiếp xảy ra thời vua Tự Đức như riêng đê sông Hồng ở Khoái Châu (Hải Hưng) thời Tự Đức bị vỡ 10 năm liền, biến cả một vùng đồng bằng phì nhiêu màu mỡ, dân cư trù phú đông đúc thành bãi lầy hoang vắng, nông dân đói khổ phải bỏ làng đi ăn xin khắp nơi. 14 Nhìn chung trong những năm dưới triều Nguyễn, có hàng chục vụ đói kém lớn xảy ra ở nhiều tỉnh. Đặc biệt duới thời Tự Đức, mất mùa đói kém xảy ra lien tục, cứ dăm bảy năm lại xảy la một nạn đói hoặc một nạn dịch lớn, làm chết nhiều người. Như trong nạn đói 1858, sử triều Nguyễn chép: “…dân lưu tán ở các tỉnh Bắc Kỳ nhiều người chết, có người bán mình, bán con..” [27; 414]. Như vậy, có thể thấy, đời sống cơ cực, đói khổ cùng với hàng loạt các loại sưu cao thuế nặng đã xô đẩy hàng ngàn, hàng vạn gia đình nông dân không thể sống bám trụ ở quê hương với mảnh đất khẩu phần ít ỏi. Họ phải rời bỏ xứ sở đi lưu vong phiêu tán. Có thể thấy nạn phiêu tán đã trở thành hiện tượng phổ biến, thường xuyên, nhất là ở Bắc kỳ và Trung kỳ trong ba thập niên cuối thế kỷ XIX, nhiều người trong số họ đã di cư sang Lào sống tập trung ở miền Trung và Nam Lào. Hơn thế nữa, việc di cư của người Việt còn diễn ra trong bối cảnh xã hội rối ren với hàng loạt các cuộc nổi dậy chống triều đình và các cuộc khởi nghĩa nông dân. Từ năm 1802 đến năm 1883, theo “Đại Nam thực lục chính biên” thì đã có gần 400 cuộc khởi nghĩa của nông dân. Đến thời kỳ tiếp theo, sau khi triều đình nhà Nguyễn kỳ hiệp ước 1883 đầu hàng thực dân Pháp thì các phong trào khởi nghĩa chống Pháp liên tiếp nổ ra. Đó là phong trào Cần Vương của các sĩ phu yêu nước; phong trào Đông du do Phan Bội Châu lãnh đạo; phong trào duy tân do Phan Chu Trinh lãnh đạo. Các phong trào kháng Pháp bị thực dân Pháp đàn áp dã man. Sau khi thất bại nhiều người tham gia phong trào chống Pháp đã mang gia đình sang lào để lánh nạn. Các cuộc lánh nạn diễn ra ở hầu khắp cả nước từ miền Bắc qua miền Trung đến miền Nam. Từ Nam kỳ, một số nghĩa quân trước kia theo Trương Công Định, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Hữu Huân, Lê Tân Kế… chống Pháp từ hồi năm 1860 đến năm 1880 về sau chạy xuyên rừng trốn qua Hạ Lào, có lần họ cũng kéo quân về đánh Pháp ở các tỉnh Pắc Sế và Attapư thuộc 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng