Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................................2
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CON NGƯỜI.......................................................3
Con người là một thực thể sinh học- xã hội:...................................................................5
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những mối quan
hệ xã hội:................................................................................................................... 6
Mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân và xã hội:..................................................7
Quần chúng nhân dân và lãnh tụ :.........................................................................8
PHẦN II:VAI TRÒ CỦA CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.................................................10
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và xây dựng con người mới:...................10
Vấn đề nguồn lực con người:.................................................................................11
Vai trò của con người Việt Nam hiện nay trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội :..................................................................................................................... 12
Vai trò nguồn lực con người trong lĩnh vực kinh tế:...........................................12
Vai trò nguồn lực con người trong lĩnh vực chính trị:........................................13
Vai trò nguồn lực con người trong lĩnh vực văn hóa:..........................................13
Vai trò của nguồn lực con người trong lĩnh vực xã hội :.....................................14
Thực trạng con người Việt Nam hiện nay:...........................................................14
Những mặt yếu kém:..............................................................................................16
Xây dựng con người Việt Nam như thế nào.........................................................18
Một số giải pháp phát huy nguồn lực con người Việt Nam hiện nay.................18
KẾT LUẬN................................................................................................................21
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................21
1
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên của kinh tế tri thức, đòi hỏi mỗi con
người phải được đào tạo trình độ học vấn, năng lực ; tu dưỡng rèn luyện phẩm
chất đạo đức, ý thức lao động tốt hơn để có thể đáp ứng những yêu cầu của sự
biến đổi khoa học công nghệ hết sức nhanh chóng.
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước với những mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, hiện nay, con người và nguồn nhân
lực được coi là nhân tố quan trọng hàng đầu, quyết định sự phát triển nhanh,
hiệu quả và bền vững nền kinh tế nước ta. Đó là yếu tố hết sức bức thiết và cần
có tính cập nhật, đáp ứng được yêu cầu về con người và nguồn nhân lực xét
trong nước ta nói riêng và quốc tế nói chung. Chúng ta khẳng định con người
vừa là mục tiêu vừa là động lực của phát triển kinh tế xã hội đồng thời phải là
những con người có tri thức và đạo đức. Từ đây mỗi con người dần dần về đúng
vị trí là một chủ thể sáng tạo ra các giá trị, bao gồm các giá trị tinh thần và giá trị
vật chất, cho bản thân và cho xã hội.
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Việt Nam được tiến
hành như thế nào, quy mô và nhịp độ của nó ra sao, điều đó một phần tuỳ thuộc
vào sự đóng góp của con người. Qua đó em chọn đề tài "Vai trò của con
người trong quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam hiện nay."
Em xin chân thành cảm ơn trung tâm thư viện trường đại học Kinh Tế
Quốc Dân cùng Tiến sĩ Nguyễn Thị Bích Thuỷ đã giúp đỡ em trong thời gian
em làm đề tài này .
2
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CON NGƯỜI.
Khi đề cập tới vấn đề con người các nhà triết học để tự hỏi: Thực chất con
người là gì và để tìm cách trả lời câu hỏi đó phải giải quyết hàng loạt mâu thuẫn
trong chính con người. Khi phân tích các nhà triết học cổ đại coi con người là
một tiểu vũ trụ, là một thực thể nhỏ bé trong thế giới rộng lớn, bản chất con
người là bản chất vũ trụ. Con người là vật cao quý nhất trong trời đất, là chúa tể
của muôn loài. Chỉ đứng sau thần linh. Con người được chia làm hai phần là
phần xác và phần hồn. Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo thì cho rằng: Phần hồn là
do thượng đế sinh ra; quy định, chi phối mọi hoạt động của phần xác, linh hoòn
con người tồn tại mãi mãi. Chủ nghĩa duy vật thì ngược lại họ cho rằng phần xác
quyết định và chi phối phần hồn, không có linh hồn nào là bất tử cả, và quá trình
nhận thức đó không ngừng được phát hiện. Càng ngày các nhà triết học tìm ra
được bản chất của con người và không ngừng khắc phục lý luận trước đó.
Triết học thế kỷ XV - XVIII phát triển quan điểm triết học về con người
trên cơ sở khoa học tự nhiên đã khắc phục và bắt đầu phát triển. Chủ nghĩa duy
vật máy móc coi con người như một bộ máy vận động theo một quy luật cổ. Học
chủ nghĩa duy tâm chủ quan và thuyết không thể biết một mặt coi cái tôi và cảm
giác của cái tôi là trung tâm sáng tạo ra cái không tôi, mặt khả cho rằng cái tôi
không có khả năng vượt quá cảm giác của mình nên về bản chất là nhỏ bé yếu
ớt, phụ thuộc đấng tới cao. Các nhà triết học thuộc một mặt đề cao vai trò sáng
tạo của lý tính người, mặt khác coi con người, mặt khác coi con người là sản
phẩm của tự nhiên và hoàn cảnh.
Các nhà triết học cổ điển đức, từ Cartơ đến Heghen đã phát triển quan
điểm triêt học về con người theo hướng của chủ nghĩa duy tâm. Đặc biệt Heghen
quan niệm con người là hiện thân của ý niệm tuyệt đối là con người ý thức và do
đó đời sống con người chỉ được xem xét về mặt tinh thần Song Heghen cũng là
3
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
người đầu tiên thông qua việc xem xét cơ chế hoạt động của đời sống tinh thần
mà phát hiện ra quy luật về sự phát triển của đời sống tinh thần cá nhân. Đồng
thời Heghen cũng đã nghiên cứu bản chất quá trình tư duy khái quát các quy luật
cơ bản của quá trình đó.
Sau khi đoạn tuyệt với chủ nghĩa duy tâm Heghen, phơ bách đã phê phán
tính siêu tự nhiên, phi thể xác trong quan niệm triết học Heghen, ông quan niệm
con người là sản phẩm cảu tự nhiên, có bản năng tự nhiên, là con người sinh học
trực quan, phụ thuộc vào hoàn cảnh, ông đã sử dụng thành tựu của khoa học tự
nhiên để chứng minh mối liên hệ không thể chia cắt của tư duy với những quá
trình vật chất diễn ra trong cơ thể con người, song khi giải thích con người trong
mối liên hệ cộng đồng thì phơ bách lại rơi vào lập trường của chủ nghĩa duy
tâm.
Trong xã hôi không một ai nhầm lẫn con người với loài động vật, song
không phải vì thế mà câu hỏi“con người là gì” bị trở thành đơn giản, vì câu hỏi
chỉ là chân thực khi con người có khả năng tách ra khỏi bản thân mình để nhận
thức mình với tư cách là hệ thống trong quá trình vận động, sinh thành. Từ thời
cổ đại đến nay vấn đề con người luôn giữ một vị trí quan trọng trong các học
thuyết triết học. Các nhà triết học đưa ra rất nhiều các quan điểm khác nhau về
con người nhưng nhìn chung các quan điểm triết học nói trên đều xem xét con
người một cách trừu tượng ,do đó đã đi đến những cách lý giải cực đoan phiến
diện.
Chủ nghĩa Mác đã kế thừa và khắc phục những mặt hạn chế và đồng thời
phát triển những quan niệm hạn chế về con người đã có trong các học thuyết
trước đây để đi đến những quan niệm về con người hiện thực, con người hoạt
động thực tiễn cải tạo tự nhiên và xã hội. Với tư cách là con người hiện thực,
con người vừa là sản phẩm của tự nmhiên và xã hội, đồng thời vừa là chủ thể cải
tạo tự nhiên và xã hội. Hay nói cách khác chủ nghĩa Mác xem xét con người
như một thực thể sinh học- xã hội.
Con người là một thực thể sinh học- xã hội:
4
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Con người là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả của quá trình tiến hoá lâu
dài của giới hữu sinh. Con người tự nhiên là con người sinh học mang tính sinh
học. Tính sinh học trong con người quy định sự hình thành những hiện tượng và
quá trình tâm lý trong con người là điều kiện quyết định sự tồn tại của con
người.
Song con ngươì không phải là động vật thuần tuý như các động vật khác mà là
một động vật có tính chất xã hội với nôị dung văn hoá lịch sử của nó. Con người
là sản phẩm của xã hội, là con người xã hội mang bản tính xã hội. Con người
chỉ có thể tồn tại được một khi con người tiến hành lao động sản xuất ra của cải
vật chất thoả mãn nhu cầu sinh học của mình. Lao động sản xuất là yếu tố quyết
định sự hình thành con người và ý thức. Chính lao động đã quy định bản chất xã
hội của con ngưòi, quy định cái xã hội của con người và xã hội lại quy định sự
hình thành cá nhân và nhân cách . Vì con ngươi là sản phẩm cuả tự nhiên và xã
hội nên con người chịu sự chi phối của môi trường tự nhiên và xã hội cùng các
quy luật biến đổi của chúng.
Với tư cách là con người xã hội, là con người hoạt động thực tiễn, con
người sản xuất ra của cải vật chất tác động vào tự nhiên để cải tạo tự nhiên, con
người chính là chủ thể cải tạo tự nhiên. Con người là sản phẩm của tự nhiên
song con người có thể thống trị tự nhiên nếu biết nắm bắt và tuân theo các quy
luật của bản thân giới tự nhiên. Con người không chỉ là sản phẩm của xã hội mà
còn là chủ thể cải tạo xã hội. Bằng hoạt động sản xuất con người sáng taọ ra
toàn bộ nền văn hoá vật chất và tinh thần. Mặc dù tự nhiên và xã hội đều vận
động theo quy luật khách quan, nhưng trong quá trình hoạt động, con người luôn
luôn xuất phát từ nhu cầu động cơ và hứng thú, theo đuổi những mục đích nhất
định và do đó đã tìm cách hạn chế hay mở rộng phạm vi tác dụng của quy luật
cho phù hợp với nhu cầu và mục đích của mình.
Như vậy con người là sản phẩm của tự nhiên và xã hội vừa là chủ thể cải
taọ tự nhiên và xã hội. Con ngưòi là thực thể thống nhất sinh học- xã hội.
5
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những
mối quan hệ xã hội:
Mác và Anghen nhiều lần khẳng định lại quan điểm của những nhà triết
học đi trước rằng. Con người là một bộ phận của giới tự nhiên, là một động vật
xã hội, nhưng khác với họ, Mác, Anghen; xem xét mặt tự nhiên của con người,
như ăn, ngủ, đi lại, yêu thích... Không còn hoàn mang tính tự nhiên như ở con
vật mà đã được xã hội hoá. Mác viết: “Bản chất của con người không phải là
một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó
bản
chất của con người là tổng hoà của những mối quan hệ xã hội” con người là sự
kết hợp giữa mặt tự nhiên và mặt xã hội nên Mác nhiều lần đã so sánh con người
với con vật, so sánh con người với những con vật có bản năng gần giống với con
người... Và để tìm ra sự khác biệt đó. Mác đã chỉ ra sự khác biệt ở nhiều chỗ
như chỉ có con người làm ra tư liệu sinh hoạt của mình, con người biến đổi tự
nhiên theo quy luật của tự nhiên, con người là thước đo của vạn vật, con người
sản xuất ra công cụ sản xuất... Luận điểm xem con người là sinh vật biết chế tạo
ra công cụ sản xuất được xem là luận điểm tiêu biểu của chủ nghĩa Mác về con
người và bản chất của con người chỉ được biểu hiện ra trong hoạt động đặc biệt
là hoạt động sản xuất vật chất .
Bản chất con người không phải là bất biến mà nó biến đổi ở những giai
đoạn khác nhau của xã hội loài người .
Luận điểm của Mác coi “Bản chất của con người là tổng hoà các quan hệ xã
hội” Mác hoàn toàn không có ý phủ nhận vai trò của các yếu tố và đặc điểm sinh
học của con người, ông chỉ đối lập luận điểm coi con người đơn thuần như một
phần của giới tự nhiên còn bỏ qua, không nói gì đến mặt xã hội của con người.
Khi xác định bản chất của con người trước hết Mác nêu bật cái chung, cái không
thể thiếu và có tính chất quyết định làm cho con người trở thành một con người.
Sau, thì khi nói đến “Sự định hướng hợp lý về mặt sinh học” Lênin cũng chỉ bác
bỏ các yếu tố xã hội thường xuyên tác động và ảnh hưởng to lớn đối với bản
6
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
chất và sự phát triển của con người. Chính Lênin cũng đã không tán thành quan
điểm cho rằng mọ người đều ngang nhau về mặt sinh học. Ông viết “thực hiện
một sự bình đẳng về sức lực và tài năng con người thì đó là một điều ngu xuẩn...
Nói tới bình đẳng thì đó luôn luôn là sự bình đẳng xã hội, bình đẳng về địa vị
chỉ không phải là sự bình đẳng về thể lực và trí lực của cá nhân”.
Mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân và xã hội:
Nguyên tắc cơ bản của việc xác lập mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể
cũng như mối quan hệ giữa cá nhân và các cộng đồng xã hội nói chung chính là
mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng xã hội . Đó cũng là mối
quan hệ vừa có sự thống nhất vừa có mâu thuẫn.
Mỗi cá nhân với tư cách là một con người ,không bao giờ có thể tách rời
khỏi những cộng đồng xã hội nhất định ,đồng thời mối quan hệ giữa cá nhân và
xã hội là một hiện tượng mang tính lịch sử .
Là một hiện tượng lịch sử ,quan hệ cá nhân và xã hội luôn vận động ,biến
đổi và phát triển ,trong đó sự thay đổi về chất chỉ diễn ra khi có sự thay thế hình
thái kinh tế – xã hội này bằng hình thái kinh tế xã hội khác . Trong giai đoạn
cộng sản nguyên thuỷ ,không có sự đối kháng giữa cá nhân và xã hội . Lợi ích cá
nhân và lợi ích xã hội căn bản thống nhất với nhau . Khi xã hội phân chia giai
cấp ,quan hệ giữa cá nhân và xã hội vừa mang có thống nhất vừa có mâu thuẫn
và mâu thuẫn đối kháng .Trong chủ nghĩa xã hội ,những điều hiện xã hội mới
tạo tiền đề cho cá nhân ,để mỗi cá nhân phát huy năng lực và bản sắc riêng của
mình ,phù hợp với lợi ích và mục tiêu của xã hội mới . Vì vậy , xã hội xã hội chủ
nghĩa và cá nhân là thống nhất biện chứng ,là tiền đề và điều kiện của nhau.
Theo quan điểm của triết học Mác –Lênin,xã hội giữa mốt vai trò quyết
định đối với cá nhân.Thực chất của việc tổ chức xã hội là giải quyết quan hệ lợi
ích nhằm tạo khả năng cao nhất cho mỗi cá nhân tác động vào mọi quá trình
kinh tế ,xã hội ,cho sự phát triển được thực hiện .
7
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội do sự quy định của mặt
khách quan và mặt chủ quan .Mặt khách quan biểu hiện ở trình độ phát triển và
năng suất lao động xã hội . Mặt chủ quan biểu hiện ở khả năng nhận thức và vận
dụng quy luật xã hội phù hợp với mục đích của con người .Trong thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội và ngay cả dưới chế độ xã hội chủ nghĩa , những mâu thuẫn
giữa cá nhân và xã hội vẫn cứ tồn tại . Do đó để giải quyết dúng đắn mối quan
hệ cá nhân – xã hội ,cần phải tránh hai thái độ cực đoan . Một là chỉ they cá
nhân mà không thấy xã hội ,đem cac nhân đối lập với xã hội ,nhu cầu cá nhân
chưa phù hợp với điều kiện phát triển của xã hội. Khuynh hướng này có thể dẫn
đến chủ nghĩa cá nhân . Hai là , chỉ thấy xã hội mà không thấy cá nhân ,quan
niệm sai lầm về lợi ích xã hội ,về chủ nghĩa tập thể ,thực chất là chủ nghĩa bình
quân ,coi nhẹ vai trò cá nhân, lợi ích cá nhân . Xã hội càng ohát triển thì lợi ích
và
nhu cầu cá nhân càng đa dạng .Nếu không quan tâm đến vấn đề cá nhân ,sẽ dẫn
đến một xã hội nghèo nàn ,chậm phát triển , không phù hợp với bản chất của xã
hội .
Quần chúng nhân dân và lãnh tụ :
Mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ là quan hệ biện chứng ,
tính biện chứng ở mối quan hệ trên biểu hiện ở:
Thứ nhất , tính hệ thống giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ .Không có
phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân ,không có các quá trình kinh tế ,
chính trị ,xã hội của đông đảo quần chúng nhân dân ,thì cũng không thể xuất
hiện lãnh tụ .Những cá nhân ưu tú ,những lãnh tụ kiệt xuất là sản phẩm của thời
đại ,vì vậy,họ sẽ là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của phong trào
quần chúng .
8
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Thứ hai , quần chúng nhân dân và lãnh tụ thống nhất trong mục đích và lợi
ích của mình.sự thống nhất về các mục tiêu của cách mạng ,của hành động cách
mạng giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ do chính quan hệ lợi ích quy định
.Lợi ích biểu hiện trên nhiều khía cạnh khác nhau :Lợi ích kinh tế ,lợi ích chính
trị ,lợi ích văn hóa …Quan hệ lợi ích là cầu nối liền ,là nội lực để liên kết giữa
cá nhân cũng như quần chúng nhân dân và lãnh tụ với nhau thành mộ khối thống
nhất giữa ý chí và hành động . Lợi ích đó vận động và phát triển tuỳ thuộc vào
thời đại ,vào địa vị lịch sử của giai cấp cầm quyền mà lãnh tụ là đại biểu .phụ
thuộc vào khả năng nhận thức và vận dụng để giải quyết mối quan hệ giữa các
cá nhân,các giai cấp và tầng lớp trong xã hội .Từ đó có thể thấy rằng ,mức độ
thống nhất về lợi ích là cơ sở quy định sự thống nhất về nhận thức và hành động
giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong lịch sử .
Thứ ba,sự khác biệt giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ biểu hiện trong
vai trò khác nhau của sự tác động đến lịch sử . Tuy cùng đóng vai trò quan trọng
đối với tiến trình phát triển lịch sử xã hội , nhưng quần chúng nhân dân là lực
lượg
quyết định sự phát triển ,còn lãnh tụ là người định hướng ,dẫn dắt phong trào
,thúc đẩy sự phát triển lịch sử.
Bởi vậy ,mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ là biện chứng
,vừa thống nhất vừa khác biệt .
Vai trò của quần chúng nhân dân được biểu hiện ở ba nội dung:
Thứ nhất , quần chúng nhân dân là lượng sản xuất cơ bản của xã hội , trực
tiếp sản xuất ra của cải vật chất , là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã
hội .Lực lượng sản xuất cơ bản là đông đảo quần chúng nhân dân lao động bao
gồm cả lao động chân tay và trí óc . Cách mạng khoa học kỹ thuật hiện nay có
vai trò đặc biệt đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất .Song ,vai trò của
khoa học chỉ có thể phát huy thông qua thực tiễn sản xuất của quần chúng nhân
dân lao động , nhất là đội ngũ công nhân hiện đại và trí thức trong nền sản xuất
xã hội , của thời đại kinh tế tri thức . Điều đó khẳng định rằng hoạt động sản
9
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
xuất của quần chúng nhân dân là điều kiện cơ bản để quyết định sự tồn tại và
phát triển của xã hội .
Thứ hai , quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng
xã hội . Họ là lực lượng cơ bản của cách mạng ,đóng vai trò quyết định thắng lợi
của mọi cuộc cách mạng .Trong các cuộc cách mạng làm chuyển biến xã hội từ
hình thái kinh tế – xã hội này sang hình thái kinh tế – xã hội khác , nhân dân lao
động là lực lượng tham gia đông đảo .Tuy nhiên nguyên nhân của mọi cuộc cách
mạng là bắt đầu từ sự phát triển của lực lượng sản xuất , dẫn đến mâu thuẫn với
quan hệ sản xuất , nghĩa là bắt đầu từ hoạt động sản xuất vật chất của quần
chúng nhân dân . Bởi vậy ,nhân dân lao động là chủ thể của các quá trình kinh tế
, chính trị , xã hội, đóng vai trò là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã
hội .
Thứ ba, quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị văn hóa
tinh thần . Những sáng tạo về văn học , nghệ thuật, khoa học, y học ,quân sự,
kinh tế, chính trị , đạo đức…của nhân dân vừa là cội nguồn , vừa là điều kiện để
thúc đẩy sự phát triển của văn hóa tinh thần của các dân tộc trong mọi thời
đại .Hoạt động của quần chúng nhân dân từ trong thực tiễn là nguồn cảm hứng
vô tận cho mọi
sáng tạo tinh thần trong đời sống xã hội .Mặt khác, các giá trị văn hóa tinh thần
chỉ có thể trường tồn khi được đông đảo quần chúng nhân dân chấp nhận và
truyền bá sâu rộng , trở thành giá trị phổ biến,
Tóm lại ,xét từ kinh tế đến chính trị, từ hoạt động tinh thần đến hoat động
vất chất , quần chúng nhân dân luôn đóng vai trò quyết định trong lịch sử . Tuy
nhiên, tuỳ vào điều kiện hoàn cảnh lịch sử mà vai trò chủ thể của quần chúng
nhân dân cũng biểu hiện khác nhau .Chỉ có trong chủ nghĩa xã hội , quần chúng
nhân dân mới có đủ điều kiện để phá huy tài năng và trí sáng tạo của mình .
PHẦN II:VAI TRÒ CỦA CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP XÂY
DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
10
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và xây dựng con người mới:
Con người , với tư cách là những cá nhân không tồn tại biệt lập mà tồn tại
trong mối quan hệ biện chứng với cộng đồng dân tộc và cả với loài người trên
thế giới , con người vừa là động lực ,vừa là mục tiêu của cách mạng và con
người là nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc cách mạng .Từ tư tưởng đó
Người xây dựng lên chiến lược “ trăm năm trồng người”.Từ quan điểm về con
người đến quan điểm về chiến lược “trồng người” là một bước phát triển hợp
logic của tư tưởng Hồ Chí Minh . Để thực hiện chiến lược kinh tế –xã hội thì
chiến lược con người phải đi trước một bước “ Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội
thì trước hết phải có những con người chủ nghĩa “.
Quan điểm “ trồng người” của Hồ Chí Minh rất toàn diện và phong phú.
Bước vào thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội , Người nhấn mạnh các yêu cầu :
Có đạo đức cách mạng , cần ,kiệm ,liêm, chính , chí công vô tư ,không
tham ô, lãng phí, quan liêu.
Có ý thức làm chủ và có tinh thần tập thể.
Có ý chí học hỏi , không ngừng vươn lên làm chủ những thành tựu văn
hóa, khoa học – kỹ thuật , những hiểu biết mới của thời đại .
Có tinh thàn tìm tòi , nghiên cứu, sáng tạo, nhạy bén với cái mới , biết vận
dụng nó vào thực tế công tác để nâng cao năng suất , chất lượng , hiệu quả.
Con người sống dưới chế độ chủ nghĩa xã hội mang những nét đặc trưng
của xã hội chủ nghĩa , song vẫn còn chịu ảnh hưởng không ít những tư tưởng ,
tác phong, thói quen của xã hội cũ . Cho nên , quá trình xây dựng con người mới
xã hội chủ nghĩa là quá trình diễn ra cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt giữa cái
cũ và cái mới , cái tiến bộ và cái lạc hậu . Con người xã hội chủ nghĩa vừa là chủ
thể trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội , vừa là sản phẩm của quá trình
đó.
Vấn đề nguồn lực con người:
11
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Nguồn lực con người là những yếu tố ở bên trong con người có thể huy
động , sử dụng để thúc đẩy sự phát triển xã hội , là tổng thể những yếu tố thuộc
về thể chất , tinh thần đạo đức , phẩm chất, trình độ tri thức ,vị thế xã hội …tạo
nên năng lực của con người , của cộng đồng người có thể sử dụng , phát huy
trong quá trình phát triển kinh tế –xã hội của đất nước và trong những hoạt động
xã hội.
Khi chúng ta nói đến nguồn lực con người là ta nói tới con người với tư
cách là chủ thể hoạt đông sáng tạo tham gia cải tạo tự nhiên , làm biến đổi xã
hội.
Nói tới nguồn lực con ngườu là nói tới số lượng và chất lượng nguồn nhân
lực .
Số lượng nguồn lực con người được xác định trên quy mô dân số,cơ cấu,độ
tuổi ,sự tiếp nối các thế hệ ,giới tính và sự phân bố dân cư giữa các vùng , các
miền của đất nước ,giữa các ngành kinh tế , giữa cac lĩnh vực của đời sống xã
hội.
Chất lượng nguồn lực con người là một khái niệm tổng hợp bao gồm những
nét đặc trưng về thể lực ,trí lực, tay nghề ,năng lực quản lý , mức độ thành thạo
trong công việc , phẩm chất đạo đức ,tình yêu quê hương đất nước ,ý thức giai
cấp , ý thức về trách nhiệm cá nhân với công việc , với gia đình và với xã hội ,
giác ngộ và bản lĩnh chính trị …và sự kết hợp các yếu tố đó .
Số lượng và chất lượng nguồn lực con người có quan hệ với nhau một cách
chặt chẽ . Nếu số lượng nguồn lực con người quá ít sẽ gây khó khăn cho lao
động xã hội và do vậy ,chất lượng lao động cũng bị hạn chế , chất lượng nguồn
lực được nâng cao sẽ góp phần làm giảm số lượng người hoạt động trong một
đơn vị sản xuất kinh doanh hay giảm số người hoạt động trong một tổ chức xã
hội , đồng thời cũng tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động của một tập thể
người trong lao động sản, xuất hoạt động xã hội.
Xã hội muốn phát triển nhanh và bền vững phải quan tâm đào tạo nguồn
lực con người có chất lượng ngày càng cao . Muốn thực hiện điều đó , cần có sự
12
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
quan tâm ngay trong quá trình đào tạo , trong quá trình sử dụng và phân công
lao động xã hội .
Vai trò của con người Việt Nam hiện nay trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội :
Khi Việt Nam bước vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội , Hồ Chí
Minh đã khẳng định “ Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội , trước hết ta cần có
những con người xã hội chủ nghĩa “.Để làm rõ hơn quan điểm trên của Hồ Chí
Minh , cần nghiên cứu vai trò nguồn lực con người trong một số lĩnh vực cơ bản
của đời sống xã hội :
Vai trò nguồn lực con người trong lĩnh vực kinh tế:
Trong lĩnh vực này con người với tư cách là lượng sản xuất và vai trò trong
quan hệ sản xuất .Trong bất cứ xã hội nào , người lao động cũng là yếu tố quan
trọng nhất trong lực lượng sản xuất . Ngày nay , khoa học và công nghệ càng
phát triển , hàm lượng chất xám trong giá trị hàng hóa ngày càng cao , thì vai trò
của người lao động có trí tuệ lại càng quan trọng trong lực lượng sản xuất .
Con người khi làm chủ những tư liệu sản xuất , được đào tạo một cáh chu
đáo những kiến thức quản lý kinh tế sẽ có điều kiện khai thác một cáh có hiệu
quả tiềm năng đát đai , biết kết hợp các yếu tố của quá trình sản xuất như huy
động vốn , động viên khuyến khích người lao động làm việc có hiệu quả , quản
lý chặt chẽ nguyên vật liệu , hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ tốt hơn . Ngày nay
vai trò người quản lý trong sản xuất kinh doanh ngày càng trở nên quan trọng ,
do vậy , cần phải trú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ này .
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội , người lao động đã làm chủ đất
nước , làm chủ trong quá trình quản lý sản xuất , từ việc xây dựng kế hoáchản
xuất kinh doanh tới tổ chức sản xuất kinh doanh và làm chủ trong quá trình phân
phối sản phẩm.Điều đó tạo ra những điều kiện thuận lợi để phát huy nguồn lực
con người , phát triển kinh tế xã hội nhanh và bền vững làm cho đất nước ngày
càng giàu đẹp .
13
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Vai trò nguồn lực con người trong lĩnh vực chính trị:
Từ khi giai cấp công nhân và đảng của nó lãnh đạo toàn xã hội thì con
người đã giải phóng khỏi áp bức dân tộc , áp bức giai cấp , trở thành người làm
chủ đất nước , nhân dân tự tổ chức thành nhà nước dưới sự lãnh đạo của giai cấp
công nhân, Hồ Chí Minh nhiều lần lưu ý rằng , nước ta phải đi đến dân chủ thức
sự “ Chúng ta phải ra sức thực hiện những cải cách xã hội , để nâng cao đời sống
của nhân dân , thực hiện dân chủ thực sự “.
Xét nguồn lực con người trên phương diện chính trị , khi ,mà người dân có
tri thức , có năng lực , thấy được trách nhiệm của mình trong việc lựa chọn
những nười có đức có tài vào các cơ quan nhà nước sẽ góp phần xây dựng nhà
nước vững mạnh.
Cán bộ nhà nước có hiểu biết lý luận , hiểu biết thực tiễn , thấy được trách
nhiệm của mình đối với nhân dân , sẽ hết lòng phụng sự nhân dân và thực sự tôn
trọng quyền làm chủ của nhân dân sẽ được dân mến , dân tin , dân ủng hộ .
Có thể khẳng định , nguồn lực con người là yếu tố quan trọng trong việc
xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa , nhà nước của dân , do dân và vì dân ;
trong quá trình đấu tranh bảo vệ những thành quả cách mạng , bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa ; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu phá hoại của kẻ thù .
Vai trò nguồn lực con người trong lĩnh vực văn hóa:
Dưới chủ nghĩa xã hội nhân dân lao động đã trở thành người làm chủ trong
đời sống văn hóa xã hội , là những người góp phần xây dựng nên những công
trình văn hóa , những người sáng tạo ra tác phẩm nghệ thuật .
Con người có văn hóa cũng là những người có nghĩa vụ bảo tồn những di
sản văn hóa tinh thần của đất nước ,của nhân loại . Do vậy , nếu mỗi người có ý
thức, năng lực thực hiện tốt công việc này , thì những giá trị văn hóa tinh thần,
giá trị văn hóa vật chất của xã hội được bảo tồn , lưu giữa , được nâng cao.
Con người có tri thức khoa học , có năn lực nghiên cứu tạo ra những khả
năng cho họ có những đóng góp xứng đáng cho sự phát triển khoa học của đất
14
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
nước .Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức ,
tạo điều kiện cho họ cống hiến hết khả năng trí tuệ cho đất nước ,cho sự phát
triển của xã hội .
Vai trò của nguồn lực con người trong lĩnh vực xã hội :
Con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất , mà còn là
chủ thể của quá trình sản xuất tinh thần xã hội . Bằng hoạt động thực tiễn là lao
động sản xuất , con người cải tạo tự nhiên , biến đổi xã hội , bắt tự nhiên phục
vụ cho mình , và làm đẹp cho tự nhiên ;đồng thời trong quá trình đó con người
cải tạo chính bản thân mình .Do vậy , sự phối hợp giữa các thành viên trong
cộng đồng đó cũng tạo ra sức mạnh to lớn trong công việc phát huy nguồn lực
con người để nhận thức , cải tạo tự nhiên và xã hội . Ngược lại , sự thiếu thống
nhất , sự phối hợp không đồng bộ của các thành viên trong xã hội cũng sẽ làm
giảm đi , them trí triệt tiêu cả động lực phát triển tự nhiên và xã hội.
Nguồn lực con người không khai thác , không phát huy được là lãng phí lớn
nhất .Đặc biệt là đối với đội ngũ trí thức càng hoạt động, càng nghiên cứu , càng
làm việc trí tuệ của họ càng đa dạng , càng phong phú và sâu sắc .Nước ta đang
còn là một nước nghèo , kinh tế kém phát triển , thì việc phát huy nguồn lực con
người để xây dựng đất nước càng trở nên quan trọng.
Thực trạng con người Việt Nam hiện nay:
Dân số nước ta thuộc loại dân số trẻ và tốc độ tăng nguồn dân số đến độ
tuổi lao động là rất cao, trong khi nền kinh tế chưa phát triển lại mất cân đối
ngiêm trọng làm nảy sinh hai vấn đề: tăng năng suất lao độngvà giải quyết việc
làm cho những người lao động trở nên hết sức bức thiết. Trong khi đó, khả năng
giải quyết việc làm của ta còn rất hạn chế. Vì vậy, mâu thuẫn cung cầu về số
lượng nguồn nhân lực rất lớn, gây sức ép ngày càng nặng nề về lao động việc
làm. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng di cư, gây nhiều
xáo trộn về xã hội, môi trường, tác động nhiều đến cơ cấu vùng của nguồn nhân
lực. Kết hợp vào đó là sự thiếu quản lý, thiếu kiến thức nên người di dân là lực
lượng phá rừng, gây ô nhiễm môi trường ở cả vùng họ rời đi và nhiều vùng họ
15
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
đến. Tình trạng thiếu hụt kĩ năng của người lao động rất rõ rệt. Lao động có tay
nghề cao, công nhân kỹ thuật thiếu do đầu tư cho giáo dục đào tạo chưa đủ, cơ
cấu đào tạo chưa hợp lý, thiếu cơ sở định hướng, không xuất phát từ nhu cầu thị
trường lao động. Chất lượng nguồn nhân lực nhìn chung đã được cảI thiện nhiều
nhưng cung về chất lượng vẫn không thể đáp ứng được cầu về mặt thể lực, trí
lực và trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động, nguồn nhân lực của
Việt Nam.
Chất lượng thì như vậy, lại kết hợp thêm việc phân bổ, sử dụng nguồn
nhân lực bất cập, thiếu đồng bộ càng làm tăng thêm mâu thuẫn về cung cầu
nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng. ở các vùng miền núi, vùng sâu
vùng xa thừa lao động giản đơn nhưng lại thiếu nghiêm trọng lao động có trình
độ, gây rất nhiều khó khăn cho việc phát triển về nhiều mặt ở các vùng này.
Những nơi cần thì không có, còn những nơi đã có nhiều rồi như ở các thành
phố lớn thì lại ngày càng nhiều thêm gây ra một sự lãng phí rất lớn cho xã hội.
Điểm mạnh của nước ta là số người biết chữ cao so với nhiều nước trong
khu vực hay các nước đang phát triển khác. Nguồn nhân lực nước ta có động
lực hạc tập tốt, thông minh, tự tin cao, khéo léo, có thể thành giỏi nếu được giáo
dục đào tạo tốt. Điểm yếu của nước ta về nguồn nhân lực chủ yếu là tri thức,
nghiệp vụ kinh doanh, tiếp thị, buôn bán, quản lý và tri thức khoa học kỹ thuật
cập nhật. Những hạn chế đó của nguồn nhân lực nước ta trong cơ chế thị trường
và xu thế hội nhập phát triển rất cần được khắc phục càng sớm càng tốt bằng
mọi biện pháp, khả năng vốn có của nước ta.
Có thể nói, Nhà nước Việt Nam rất chú ý đến phát triển giáo dục và thành
công trong việc thiết lập hệ thống giáo dục trong phạm vi cả nước. Hệ thống
giáo dục ngày càng phong phú, quy mô giáo dục không ngừng mở rộng, phát
triển ở các vùng, các ngành học và các cấp học. Nhìn vào số lượng hiện có, với
hơn 100 trường đại học, cao đẳng, kể cả đại học dân lập, với quy mô đào tạo gần
600.000 sinh viên, có nhiều khoa, bộ môn, ngành nghề mới hình thành... chúng
ta thấy
16
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
đào tạo đại học đã có một bước phát triển khá nhanh, nhất là trong 10 trở lại đây
cùng với những cố gắng bền bỉ của đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ giảng dạy và
sinh viên. Có thể nói, đây là thời điểm "nở rộ" của phát triển số lượng đào tạo
đại học. Hình thức đào tạo đại học và cao đẳng nước ta khá phong phú, có
khoảng 66% số sinh viên theo học hệ chính quy tập trung, số còn lại học các hệ
đại học cao đẳng tại chức, ngắn hạn. Mỗi năm có khoảng 20 ngàn sinh viên cao
đẳng, đại học tốt nghiệp hệ chính quy. Hiện tại Việt Nam có hơn 700 ngàn
người có trình độ đại học cao đẳng trở lên. Tỷ lệ sinh viên đại học trong độ tuổi
đi học của Việt Nam là 2,3-2,5%. Tỷ lệ này còn hơn mức 2% của Trung Quốc,
nhưng thấp hơn mức 16% của Thái Lan, 1% của Inđônêxia, 18% của Philipin và
40% của Hàn Quốc.
Những mặt yếu kém:
Lao động có chuyên môn kỹ thuật vừa thiếu về số lượng, vừa kém về chất
lượng, bất hợp lý về cơ cấu: Hiện nay, cả nước ta có 40 triệu lao động trong đó
lực lượng lao động trẻ có 26 triệu (chiếm trên 50%). Đây là vốn quý nhưng lại
nhiều bất cập về phân bổ, cơ cấu và trình độ. Tỷ lệ lao động qua đào tạo chuyên
môn kỹ thuật chỉ chiếm 12% trong tổng số trong công nghiệp và xây dựng.
Công nhân bậc cao chiếm hơn 4%. Tình trạng này đã và đang hạn chế việc áp
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, chuyển giao công nghệ vào thực tiễn sản xuất.
Tỷ lệ lao động kỹ thuật chỉ chiếm 13,3% lực lượng lao động với cơ cấu là: 1 cao
đẳng, đại học và trên đại học - 1,6 trung học chuyên nghiệp - 3,6 công nhân kỹ
thuật (thể hiện ở bảng). Theo kinh nghiệm của các nước phát triển thì tỷ lệ trên
phải đạt mức 1-1-10 thì mới đáp ứng được yêu cầu phát triển của nền kinh tế. So
với thời kỳ trước đổi mới, số học sinh các trường trung học chuyên nghiệp và
các trường dạy nghề vẫn tiếp tục giảm đi nhanh chóng. Năm học 1996-1997 cả
nước có 156 ngàn học sinh trung học chuyên nghiệp từ năm học 1995-1996 con
số này là 116,4 ngàn (giảm 25,4%). Từ năm 1991-1992 cho đến nay, số lượng
này có tăng nhưng mức tăng không đáng kể. Trong khi đó, số lượng sinh viên
cao đẳng và đại học bắt đầu tăng lên từ năm học 1992-1993, đặc biệt tăng nhanh
vào những năm gần đây. Năm học 1995-1996 số sinh viên cao đẳng số sinh viên
cao đẳng là 173,1 ngàn, tăng 26,4 so với 1994-1995 và 62,7% so với 1990-
17
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
1991. Như vậy, tương quan trong cac cấp học đã thay đổi một cách căn bản.
Trong khi
sinh viên cao đẳng, đại học tăng lên nhanh thì số học sinh trung học chuyên
nghiệp và dạy nghề không tăng hoặc tăng không đáng kể. Đó là một vấn đề bất
hợp lý vì trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nhiều ngành cần có nhu cầu
đào tạo lại nghề và đào tạo nghề mới.
Chất lượng giáo dục chưa đáp ứng kịp với yêu cầu: Phải khẳng định rằng
người Việt Nam không thua kém các nước khác. Điều đó đã được chứng minh
qua các kỳ thi Olympic quốc tế và toán học, tin học, vật lý... đoàn Việt Nam từ
trước đến nay bao giờ cũng chiếm giải cao trong các kỳ thi. Song do phương
tiện học tập nghèo nàn, trường lớp thiếu, đời sống giáo viên khó khăn, ngân sách
dành cho giáo dục còn hạn chế đã làm cho chất lượng giáo dục nói chung ở các
cấp học của ta còn thấp.
Cơ cấu đào tạo nhân lực về trình độ, ngành nghề và vùng miền chưa hợp lý.
Phần lớn học sinh phổ thông chỉ chọn một con đường là học lên đại học, việc
học nghề ở các trình độ khác còn hạn chế. Việc tăng vi mô đào tạo đại học chưa
được định hướng vào nhu cầu của xã hội. Phân bố học sinh, sinh viên theo
ngành nghề, theo vùng miền chưa phù hợp với nhu cầu kinh tế xã hội của cả
nước và của địa phương, gây nên tình trạng nơi thừa nơi thiếu. Khoảng cách về
trình độ phát triển giáo dục đào tạo giữa các vùng trong nước chưa được thu
hẹp.
Một số hiện tượng tiêu cực, thiếu kỷ cương trong giáo dục đào tạo chưa
được ngăn chặn kịp thời như : dậy thêm, học thêm tràn lan không vì mục đích
giáo dục, tăng quy mộ vệ sinh vượt quá các điều kiện đảm bảo chất lương,
không thực hiện nghiêm túc quy chế đào tạo. Các hiện tượng mua bằng, bán
điểm thu chi vô nguyên tắc làm ảnh hưởng đến uy tín của nhà trường. Ma tuý
và các tệ nạn xã hội thâm nhập vào nhà trường. Hiện tượng gian lận trong thi cử
còn phổ biến, ảnh hưởng xấu đến nhân cách người học và cán bộ của họ sau này.
18
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Mặc dù Nhà nước đã chú ý đến việc đầu tư cho giáo dục nhưng so với các
nước thì ngân sách dành cho giáo dục của nước ta rất thấp chỉ bằng 1/29 của
Hàn Quốc, 1/22 của Malaixia, và 1/8 của Thái Lan. Do đó dẫn đến tình trạng
thiếu trường học, phòng học và đa số trường học không đủ tiêu chuẩn. Đây cũng
chính là nguyên nhân đến tình trạng kém chất lượng giáo dục ở nước ta.
Tình trạng quan liêu trong bộ máy nhà nước , một bộ phận cán bộ tham
nhũng cửa quyền , vi phạm quyền tự do dân chủ của công dân đang làm biến
dạng nhân cách con người , làm cho con người bị phân thân ; không ít kẻ cơ
hội ,hữu khuynh chui vào tổ chức đảng , cơ quan nhà nước gây ra những tác
động xấu đang làm xói mòn lòng tin của quần chúng đối với đảng và nhà nước
ta .” Tình trạng tham nhũng,suy thoái về tư tưởng chính trị , đạo đức , lối sống ở
một bộ phận không nhỏ cán bộ , đảng viên là rất nghiêm trọng “đang làm giảm
nhiệt tình , hăng say lao động , hạn chế sức sáng tạo trong một bọ phận những
người lao động , tác động không nhỏ tới niền tin và tu dưỡng rèn luyện , phấn
đấu trao đổi đạo đức cách mạng của các thế hệ trẻ hôm nay .
Xây dựng con người Việt Nam như thế nào.
Văn kiện Đại hội Đảng X về xây dựng con người mới :
“Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến , đậm đà bản
sắc dân tộc “.
Nghị quyết Đại hội Đảng X chỉ rõ rằng , văn hóa là nền tảng tinh thần của
xã hội , vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội .
Nghị quyết đã nêu lên 10 nhiệm vụ cụ thể về xây dựng và phát triển nền văn
hóa, đặt nên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn
cách mạng mới – con người xã hội chủ nghĩa với những đức tính tốt đẹp , tiếp
đó là các nhiệm vụ xây dựng môi trường văn hóa ; phát triển sự nghiệp văn học
nghệ thuật ; Bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa ,phát triển sự nghiệp giáo
dục , đào tạo và khoa học công nghệ ;phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống
thông tin đại chúng ; bảo tồn , phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu
19
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
số ; chính sách văn hóa đối với tôn giáo ; mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa ;
củng cố , xây dựng và hoàn thiện thể chế văn hóa cụ thể.
Xây dựng con người Việt Nam có tinh thần yêu nước và yêu chủ nghĩa xã
hội , có ý thức tự cường dân tộc , trách nhiệm cao trong lao động , có lương tâm
nghề nghiệp , có tác phong công nghiệp , có ý thức cộng đồng, tôn trọng nghĩa
tình, có lối sống văn hóa, quan hệ hài hòa trong gia đình ,cộng đồng và xã hội .
Một số giải pháp phát huy nguồn lực con người Việt Nam hiện nay.
Để xây dựng con người Việt Nam mới trong giai đoạn đẩy mạnh sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội cần thực hiện đồng bộ các vấn đề cơ bản sau:
Một là, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế
thị trường không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của nền
văn minh nhân loại, nó tồn tại khách quan trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Tuy nhiên, kinh tế thị trường phải có sự quản lý của Nhà nước. Thực chất
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một kiểu tổ chức vừa
dựa trên nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên những
nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn chứng minh, những
chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước ta trong gần 20 năm đổi mới vừa qua
đã tạo nên động lực kinh tế giải phóng sức sản xuất, trực tiếp thúc đẩy kinh tế
phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng con người Việt Nam mới.
Hai là, ổn định chính trị và mở rộng dân chủ. Bất kỳ một quốc gia dân tộc
nào, dù ở chế độ chính trị nào cũng cần có sự ổn định chính trị - xã hội. Bởi vì,
đó là tiền đề để phát triển và tiến bộ xã hội. ổn định chính trị, trước hết thể hiện
sự ổn định hệ thống chính trị, cơ cấu hợp lý và thể chế chính trị hoàn chỉnh. ở
Việt Nam, khi bước vào công cuộc đổi mới, vấn đề quan trọng được đặt ra giữa
đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là phải có sự kết hợp ngay từ đầu, lấy đổi
mới kinh tế làm trọng tâm, và từng bước đổi mới chính trị, nhằm làm cho hệ
thống chính trị phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Đó cũng là quá trình củng cố và phát triển hệ thống chính trị từ
20