Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vai trò của các thành phần kinh tế đối với sự phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh...

Tài liệu Vai trò của các thành phần kinh tế đối với sự phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh bình dương hiện nay

.PDF
91
431
79

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN HOÀNG NGỌC ẨN VAI TRÒ CỦA CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở TỈNH BÌNH DƢƠNG HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI - 2016 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN HOÀNG NGỌC ẨN VAI TRÒ CỦA CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở TỈNH BÌNH DƢƠNG HIỆN NAY Chuyên ngành Mã số : Triết học : 60.22.03.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HỒ ANH DŨNG HÀ NỘI - 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của bản thân, chưa được ai công bố, dưới sự hướng dẫn của TS. Hồ Anh Dũng. Những tư liệu, trích dẫn trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Tác giả luận văn Trần Hoàng Ngọc Ẩn MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chƣơng 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ TRI THỨC VÀ VẤN ĐỀ CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ ........................................................................................9 1.1. Kinh tế tri thức, đặc trưng của kinh tế tri thức, điều kiện hình thành và phát triển kinh tế tri thức ..............................................................................................9 1.2. Các thành phần kinh tế và mối quan hệ của nó trong việc phát triển kinh tế tri thức ................................................................................................................21 Chƣơng 2. TÁC ĐỘNG CỦA CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở TỈNH BÌNH DƢƠNG HIỆN NAY ...33 2.1. Thực trạng phát triển các thành phần kinh tế và ảnh hưởng đối với kinh tế tri thức ở tỉnh Bình Dương hiện nay ..................................................................33 2.2. Nguyên nhân thực trạng và các vấn đề còn đang đặt ra ..............................47 2.3. Phương hướng và giải pháp nâng cao vai trò của các thành phần kinh tế đối với sự phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Bình Dương hiện nay ...........................59 KẾT LUẬN ..............................................................................................................75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................77 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Công cuộc đổi mới mà Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân ta đang thực hiện đã góp phần to lớn vào sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục… ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Sự nghiệp đổi mới được bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ VI và tiếp tục bổ sung trong các kỳ Đại hội Đảng tiếp theo với nội dung tập trung vào thay đổi cơ cấu, đường lối, chính sách phát triển kinh tế, xã hội ở đất nước ta từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc đa dạng hóa thành phần kinh tế gắn liền với quá trình Việt Nam mở cửa hội nhập với thế giới. Sự hội nhập đã tạo ra nhiều cơ hội cũng như những thách thức trong việc phát triển kinh tế đất nước. Trong đó, không thể không nhắc tới những tác động của sự phát triển nhảy vọt của khoa học – công nghệ trong giai đoạn hiện nay. Sự phát triển khoa học – công nghệ đã thúc đẩy phát triển kinh tế, mở ra nhiều lĩnh vực mới, giúp con người khai thác có hiệu quả hơn đối với tài nguyên thiên nhiên, tạo điều kiện cho nhiều quốc gia vốn không giàu có về tài nguyên nhưng vẫn có thể phát triển được đất nước... Muốn có được nền kinh tế dựa trên khoa học – công nghệ thì tất yếu phải dựa vào sự phát triển tri thức của con người và phát triển nó theo hướng nền kinh tế tri thức. Nhận thấy rõ xu hướng tất yếu của thời đại, Đảng và Nhà nước ta đã mạnh dạng chủ động đầu tư phát triển nền kinh tế tri thức thông qua nhiều chương trình nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Là một trong những địa phương trẻ, năng động ở khu vực Đông Nam Bộ và Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, Bình Dương hiện nay đang có tốc độ phát triển kinh tế nhanh, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện và phát triển. Những chuyển biến trong nền kinh tế của tỉnh chiếm một phần quan trọng là nhờ công cuộc đổi mới, thực hiện kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa 1 mà Đảng và Nhà nước ta thực hiện. Bên cạnh đó, cũng có một phần là nhờ vào sự đầu tư, phát triển nền kinh tế tri thức của Đảng bộ, chính quyền cùng với nhân dân tỉnh Bình Dương thông qua các chương trình đầu tư giáo dục, xây dựng các khu công nghệ cao, nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, hợp tác đầu tư… Việc phát triển kinh tế tri thức không phải chỉ dừng lại bởi đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước hay chủ trương, chính sách của tỉnh mà trực tiếp nhất vẫn là các thành phần kinh tế. Trong quá trình phát triển, các thành phần kinh tế ở Bình Dương cũng chịu sự tác động xu thế phát triển khoa học – công nghệ hiện đại chung của thế giới; trước xu hướng này muốn tồn tại và phát triển buộc các thành phần kinh tế phải thay đổi, sự thay đổi này giúp các thành phần kinh tế định hình vị thế khác nhau trong nền kinh tế của tỉnh. Sự thay đổi này thể hiện ở việc đưa khoa học – công nghệ mới, hiện đại vào sản xuất cũng như hàm lượng tri thức được tạo ra bởi người lao động ngày càng tăng lên. Quá trình này diễn ra có sự chênh lệch lớn và khoảng cách nhất định giữa các thành phần kinh tế, những điều này ảnh hưởng lớn đến vị thế, vai trò trong việc phát triển kinh tế tri thức cũng như chính sách phát triển kinh tế – xã hội của Bình Dương. Cho nên việc nghiên cứu đề tài “Vai trò của các thành phần kinh tế đối với sự phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Bình Dƣơng hiện nay” là có ý nghĩa cần thiết về lý luận và thực tiễn đối với tiến trình xây dựng và phát triển tỉnh nói chung, kinh tế tri thức nói riêng trong giai đoạn hiện nay, đó cũng là lý do chọn đề tài luận văn của tác giả. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Kinh tế tri thức hình thành và phát triển ở nhiều nơi trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Những lợi ích mà kinh tế tri thức đem lại cho những nước phát triển, cũng như một số nền kinh tế mới nổi ở châu Á đã đòi hỏi phải nghiên cứu, làm rõ để tận dụng, khai thác và phát triển kinh tế – xã hội ở nước ta. Nhóm thứ nhất, các công trình nghiên cứu về kinh tế tri thức và vai trò của kinh tế tri thức. Ở nhóm này, đã có nhiều công trình nghiên cứu của nhiều học giả, nhà khoa học ở nhiều góc độ, cấp độ, khía cạnh khác nhau. 2 Trước tiên là sách “Kinh tế tri thức thời cơ và thách thức đối với sự phát triển và những vấn đề đặt ra với Việt Nam” (2004), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004 do GS.TS Đặng Hữu viết. Công trình này của GS.TS Đặng Hữu đã trình bày, đưa ra vai trò của khoa học – công nghệ, cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại đối với phát triển kinh tế tri thức, chỉ ra khái niệm và một số tham số có liên quan đến kinh tế tri thức, nêu lên cơ hội để rút ngắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa thông qua phát triển kinh tế tri thức, một số giải pháp để phát triển kinh tế tri thức ở nước ta gắn với công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cuốn “Vai trò của tri thức khoa học trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay” (2009), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội của TS. Trần Hồng Lưu đã làm rõ những chuyển biến về kinh tế – xã hội do cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại mang lại, vai trò của tri thức và kinh tế tri thức trong thời đại ngày nay, vai trò của công nghệ thông tin trong phát triển kinh tế tri thức, khả năng phát triển kinh tế tri thức ở các nước đang phát triển và Việt Nam. Năm 2001, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội dịch và xuất bản cuốn “Kinh tế tri thức – xu thế mới của xã hội thế kỷ XXI” của GS. Ngô Quý Tùng, một học giả có uy tín Trung Quốc. Tác giả đã chỉ ra xu thế tất yếu trong tương lai của kinh tế tri thức, việc nghiên cứu và chuẩn bị bước vào nền kinh tế tri thức là cần thiết và cấp bách. Công trình này cũng đã nêu sự ra đời các khái niệm, nội dung, đặc điểm của kinh tế tri thức. Việc phát triển kinh tế gắn với phát triển khoa học – công nghệ hiện đại là một xu hướng toàn cầu, trong đó nổi bật là các ngành đòi hỏi công nghệ, kỹ thuật cao như: công nghệ thông tin, vật liệu mới, năng lương mới, công nghệ sinh học... Những vấn đề xã hội mà nền kinh tế tri thức đem đến. Các giải pháp để phát triển kinh tế tri thức, trong đó chú trọng đào tạo nguồn nhân lực. Cuốn “Lực lượng sản xuất mới và kinh tế tri thức” được Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 2006 của tập thể tác giả do GS.TSKH Vũ Đình Cự và PGS.TS Trần Xuân Sầm đồng chủ biên. Nhóm tác giả đã trình bày, phân tích một số nội dung về kinh tế tri thức có liên quan được đưa ra trong các văn kiện của Đảng. Công trình tập trung chỉ ra những thành tựu mà cuộc cách mạng khoa học – 3 công nghệ hiện đại đã làm thay đổi về chất của lực lượng sản xuất, hình thành lực lượng sản xuất mới. Phân tích, làm rõ việc phát triển kinh tế tri thức có tác động mạnh mẽ đối với phát triển lực lượng sản xuất. Sự đòi hỏi phải xây dựng lực lượng sản xuất mới, hiện đại để đáp ứng việc phát triển, ứng dụng khoa học – công nghệ vào sản xuất thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội. TS. Nguyễn Thị Ngọc Hương trong luận án tiến sĩ triết học “Phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế”, TP. Hồ Chí Minh, 2014, đã làm rõ những nội dung cơ bản về kinh tế tri thức, toàn cầu hóa, thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và kinh nghiệm thực hiện điều này ở một số nước công nghiệp phát triển và bài học cho Việt Nam. TS. Cao Quang Xứng với luận án tiến sĩ kinh tế “Tác động của kinh tế tri thức đến quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân ở Việt Nam”, Hà Nội, 2008, đã phân tích các nội dung về kinh tế tri thức, công nghiệp hóa và hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức, thực trạng và giải pháp để thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Ngoài ra, còn có nhiều công trình của các tác giả khác liên quan đến phát triển kinh tế tri thức như: PGS.TS Trần Cao Sơn với “Môi trường xã hội nền kinh tế tri thức những nguyên lý cơ bản”, Nhà xuất bản Khoa học – Xã hội (2004); TS. Nguyễn Thị Luyến, “Nhà nước với phát triển kinh tế tri thức trong bối cảnh toàn cầu hóa”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội (2005); TS. Trần Văn Tùng, “Nền kinh tế tri thức và yêu cầu đổi mới giáo dục Việt Nam”, Nhà xuất bản Thế giới (2001). Các công trình nghiên cứu này đã khái quát, phân tích, làm rõ các khái niệm, đặc trưng của kinh tế tri thức; quá trình thực hiện kinh tế tri thức ở Việt Nam; chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế tri thức; những thành tựu, hạn chế và giải pháp phát triển kinh tế tri thức. Nhóm thứ hai, những công trình nghiên cứu về các thành phần kinh tế và vai trò các thành phần kinh tế đối với phát triển kinh tế – xã hội. Bàn về vấn đề này đầu tiên phải nói đến đó là các văn kiện của Đảng mà chủ yếu là văn kiện từ Đại hội Đảng lần thứ VI cho đến nay. Bên cạnh đó, là các giáo 4 trình viết về kinh tế chính trị như: “Giáo trình kinh tế chính trị” (2006), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội của Bộ Giáo dục và Đào tạo; “Giáo trình Kinh tế học Chính trị Mác – Lênin” (2005), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội của Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh. Các văn kiện và giáo trình này đã trình bày khái quát lý luận về số lượng, đặc điểm, tính chất, vị trí, mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế trong nền kinh tế nước ta. Sách “Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” (2010), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội của GS.TS Nguyễn Kế Tuấn đã làm rõ một số lý luận về vấn đề sở hữu; thực trạng và giải pháp vấn đề sở hữu, các thành phần kinh tế và loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam. Năm 2010, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội cho xuất bản cuốn sách “Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp theo thành phần kinh tế ở Việt Nam – Nghiên cứu điển hình tại thành phố Đà Nẵng” của PGS.TS Nguyễn Trường Sơn. Sách này trình bày, phân tích về năng lực, lợi thế cạnh tranh, vai trò giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ở Đà Nẵng; các yếu tố từ bên trong và bên ngoài tạo nên sự cạnh tranh của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Bên cạnh các công trình viết về tổng thể các thành phần kinh tế thì có rất nhiều công trình bàn về vị trí, vai trò, đặc điểm của từng thành phần kinh tế. Công trình của GS.TS Bùi Quang Trung, “Mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam đến năm 2020” (2013), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, đã lý giải về sự hình thành các tập đoàn kinh tế của nhiều nước trên thế giới, về chủ trương của Đảng và Nhà nước trong việc xây dựng các tập đoàn kinh tế nhà nước; tác giả còn chỉ ra vị trí, vai trò đầu tàu của tập đoàn kinh tế nhà nước đối với nền kinh tế và con đường quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. PGS.TS Lương Minh Cừ – ThS. Vũ Văn Thư với “Sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay, một số nhận thức về lý luận và thực tiễn” (2011), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Tập thể tác giả đã làm rõ về sở hữu, đa dạng hóa hình thức sở hữu ở nước ta; vị trí, vai trò sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân trong 5 lịch sử thế giới và Việt Nam, rút các bài học kinh nghiệm, giải pháp, quy luật vận động của nó. Năm 2010, Bộ Kế hoạch và Đầu tư Vụ Hợp tác xã cho tái bản bổ sung cuốn sách “Một số nội dung cơ bản chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về kinh tế tập thể”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Sách đã phân tích nội dung về kinh tế hợp tác xã ở Việt Nam qua các kỳ Đại hội Đảng, các văn bản pháp luật, kinh nghiệm mô hình hợp tác xã ở một số nước trên thế giới và thực tiễn ở nước ta. Ngoài các công trình nghiên cứu trên, luận văn cũng tham khảo, kế thừa chọn lọc các bài viết, bài nghiên cứu từ các tạp chí, trang mạng uy tín như: Tạp chí Cộng sản, Tạp chí triết học, Tạp chí Thông tin Khoa học Xã hội… Tổng thể các công trình nghiên cứu khoa học trên đã đề cập sâu sắc ở nhiều khía cạnh khác nhau về kinh tế tri thức, vai trò kinh tế tri thức; các thành phần kinh tế và vai trò các thành phần kinh tế đối với phát triển kinh tế – xã hội. Các tác giả đã làm rõ những quan niệm, đặc điểm, vai trò của kinh tế tri thức và giải pháp phát triển nó ở Việt Nam; chỉ ra sự hình thành, đặc điểm, vị trí và vai trò của các thành phần kinh tế đối với nước ta và ở một số địa phương. Tuy nhiên, chưa có công trình kết hợp giữa vấn đề các thành phần kinh tế với phát triển kinh tế tế tri thức; các công trình này chưa đề cập và làm rõ về kinh tế tri thức ở tỉnh Bình Dương, chưa chỉ ra vị thế các thành phần tế trong việc phát triển kinh tế tri thức ở đây. Do vậy, luận văn trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các công trình nghiên cứu khoa học của các tác giả đi trước, vận dụng lý giải những mặt mạnh, yếu của các thành phần kinh tế trong việc phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Bình Dương; làm rõ nguyên nhân và đưa ra giải pháp để các thành phần kinh tế ngày càng phát huy tốt hơn vai trò của mình trong việc phát triển kinh tế tri thức. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ lý luận về kinh tế tri thức, các thành phần kinh tế nước ta hiện nay, mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế với phát triển kinh tế tri thức; luận 6 văn vận dụng đánh giá thực trạng vai trò các thành phần kinh tế trong sự phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Bình Dương và đề xuất các giải pháp cơ bản để nâng cao vai trò của các thành phần kinh tế đối với sự phát triển kinh tế tri thức của tỉnh hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được các mục tiêu trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau: Một là, làm rõ lý luận chung về kinh tế tri thức, về các thành phần kinh tế Việt Nam hiện nay và mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế với phát triển kinh tế tri thức. Hai là, phân tích thực trạng vai trò của các thành phần kinh tế trong việc phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Bình Dương qua những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân, thực trạng và những vấn đề đang đặt ra. Ba là, đề xuất một số phương hướng, giải pháp để phát huy hơn nữa vai trò các thành phần kinh tế trong việc phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Bình Dương. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn Đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu thực tế phát triển kinh tế tri thức của các thành phần kinh tế ở tỉnh Bình Dương từ thời kỳ đổi mới. 4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Về nội dung, luận văn chủ yếu nghiên cứu vai trò của các thành phần kinh tế đối với sự phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Bình Dương. Về không gian, luận văn tập trung nghiên cứu về những vấn đề liên quan đến kinh tế tri thức ở tỉnh Bình Dương. Về thời gian, chủ yếu từ Đại hội Đảng lần thứ VI cho đến nay. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về đa dạng hóa các thành phần kinh tế, phát triển kinh tế tri thức. 7 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng kết hợp một số phương pháp nghiên cứu chuyên ngành, liên ngành, kết hợp một số phương pháp như: phân tích và tổng hợp; thống kê, phân tích số liệu, logic, và lịch sử, so sánh đối chiếu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Về ý nghĩa lý luận Luận văn góp phần làm rõ thêm lý luận về phát triển kinh tế tri thức, sự diễn ra của phát triển kinh tế tri thức trong các thành phần kinh tế và vai trò của từng thành phần kinh tế trong việc phát triển kinh tế tri thức ở nước ta nói chung, của tỉnh Bình Dương nói riêng. 6.2. Về ý nghĩa thực tiễn Kết quả luận văn góp phần xác định cơ sở lý luận và thực tiễn giúp các doanh nghiệp ở Bình Dương hoạch định kế hoạch phát triển kinh tế tri thức. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên và học viên cao học các chuyên ngành triết học, chủ nghĩa xã hội khoa học và khoa học chính trị. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn được kết cấu thành 2 chương, 5 tiết và 12 mục. 8 Chƣơng 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ TRI THỨC VÀ VẤN ĐỀ CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ 1.1. Kinh tế tri thức, đặc trƣng của kinh tế tri thức, điều kiện hình thành và phát triển kinh tế tri thức 1.1.1. Tri thức yếu tố cơ bản của kinh tế tri thức Loài người vốn bắt nguồn từ giới động vật, nhưng phát triển bỏ xa giới động vật. Sở dĩ như vậy là vì con người luôn nhận thức và cải tạo thế giới. Sản xuất vật chất là hoạt động cơ bản, đặc trưng riêng của con người, là hoạt động có mục đích, có kế hoạch nhằm tác động cải tạo, biến đổi các sự vật của giới tự nhiên, tạo ra của cải vật chất phục vụ nhu cầu ngày càng cao của con người và xã hội. Để tiến hành sản xuất đạt hiệu quả mong muốn đòi hỏi con người phải có hiểu biết đúng đắn về cấu trúc, về bản chất và các quy luật chi phối các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan. Vì thế cùng với quá trình phát triển sản xuất, con người không ngừng nhận thức thế giới và thu nhận ngày càng nhiều tri thức, hình thành nên các lĩnh vực khoa học. Khái niệm tri thức được hiểu là kết quả của quá trình nhận thức, là những hiểu biết, phản ánh các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan vào trong bộ óc của con người. Thế giới vật chất là vô cùng, vô tận, phong phú, đa dạng. Vì thế ý thức với tư cách là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, ý thức của con người cũng chứa đựng các tri thức phong phú, đa dạng về thế giới. Các tri thức khác nhau có vị trí, vai trò khác nhau trong việc tác động, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người. Tùy theo các tiêu chí làm cơ sở, mà chúng ta có thể phân chia tri thức của con người thành nhiều loại khác nhau. Nếu căn cứ vào các lĩnh vực khách thể nhận thức, chúng ta có thể chia tri thức thành các loại: tri thức về giới tự nhiên, tri thức về xã hội, tri thức về con người, về cuộc sống, tri thức kinh tế, tri thức chính trị… 9 Nếu căn cứ vào mức độ phản ánh, có thể chia ra làm hai loại: tri thức sai lầm, tri thức đúng đắn chân thực (hay còn gọi là chân lý). Căn cứ vào cấp độ phản ánh, có thể chia ra: tri thức thông thường, tri thức khoa học. Tri thức thông thường là kết quả của nhận thức thông thường (hay còn gọi là nhận thức thường ngày), nhận thức thường ngày là quá trình nhận thức diễn ra một cách tự phát, rời rạc, không có kế hoạch. Tri thức thông thường đa dạng, phong phú, nhưng không có hệ thống, thiếu sự khái quát, chưa được thực tiễn kiểm nghiệm. Còn tri thức khoa học là kết quả của quá trình nhận thức khoa học, hình thành một cách tự giác, tích cực, chủ động, có kế hoạch, trừu tượng và khái quát cao. Tri thức khoa học là một hệ thống những tri thức hiểu biết phản ánh chân thực về các sự vật, hiện tượng của thế giới. Vì thế “tri thức khoa học phải có tính hệ thống và tính có căn cứ” [25, tr.369], điều này thể hiện qua một “hệ thống chỉnh thể các khái niệm, phạm trù, quy luật, có liên hệ nội tại với nhau mang tính chân thực” [25, tr.369], bên cạnh đó các dữ liệu, công cụ, phương pháp… để tiến hành hoạt động tìm ra tri thức khoa học phải đảm bảo tính tin cậy, phản ánh xác và đúng với hiện thực. Tri thức khoa học tìm ra những chân lý, quy luật để giải quyết những gì đang diễn ra ở hiện tại, đã xảy ra ở quá khứ và dự báo, định hướng ở tương lai. Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học là hai cấp độ thấp, cao khác nhau của quá trình nhận thức có quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau. Tuy nhiên tri thức khoa học không bắt nguồn trực tiếp từ tri thức thông thường, mà được hình thành tương đối độc lập từ hoạt động nhận thức khoa học. Tri thức khoa học là kết quả của quá trình lao động miệt mài, chăm chỉ của đội ngũ những nhà khoa học mới có thể tìm ra nó. Quá trình này cần nhiều thời gian, công sức, có thể là vài năm, vài chục năm, thậm chí là vài thế kỷ. Do nắm được bản chất sự vật nên tri thức khoa học giúp con người hiểu biết hơn về thế giới xung quanh và giải quyết vấn đề thực tiễn một cách đúng đắn, hiệu quả. Con người nhờ tri thức khoa học mà đã hiểu biết cấu tạo cơ thể sống của mình và nhiều loại sinh vật, ứng dụng nó vào y học, sản 10 xuất nông nghiệp; đặc biệt con người đã sản xuất ra những vật dụng, công cụ, vật liệu, phương tiện mới mà trước đây chỉ có trong trí tưởng tượng của con người thì nay đã thành hiện thực, nó giúp đời sống con người trở nên tốt đẹp hơn. Những tri thức khoa học con người tìm được chỉ có ý nghĩa khi được thực tiễn kiểm nghiệm và chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người. Do thực tiễn thường xuyên biến đổi vì thế việc nhận thức khoa học cũng phải thay đổi theo để phục vụ có hiệu quả cho hoạt động thực tiễn. Tri thức khoa học luôn thúc đẩy sự tiến lên của lịch sử nhân loại. Sự phát triển của khoa học – công nghệ luôn song hành cùng với tri thức khoa học. Nó thúc đẩy sản xuất phát triển và hàm lượng tri thức khoa học được kết tinh trong hàng hóa không ngừng tăng lên. Nó thể hiện ở chỗ tri thức khoa học trở thành điểm xuất phát, ra đời nhiều ngành sản xuất mới, công cụ sản xuất mới, công nghệ mới, nguyên liệu mới... mà công dụng nó vừa tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, chi phí sản xuất thấp mà công dụng cao hơn nhiều lần. Sự phát triển tri thức khoa học không xa rời hoạt động kinh tế con người, vì thế làm cho đội ngũ lao động có tri thức khoa học ngày càng sử dụng nhiều vào sản xuất. Sự phát triển của khoa học – công nghệ mà đặc biệt là từ sau cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại đã làm con người nhận ra tri thức ngày càng trở thành yếu tố không thể thiếu, thậm chí là quyết định đến sự phát triển kinh tế. Khoa học – công nghệ và tri thức khoa học đóng vai trò quyết định trong sự phát triển của lực lượng sản xuất và dần trở thành lực lược sản xuất trực tiếp, đưa con người vào nền kinh tế tri thức. Những nội dung này chứng minh tri thức khoa học là yếu tố không thể thiếu, nó thể hiện bản chất của kinh tế tri thức. Như vậy, có thể thấy rằng những tri thức con người có được từ nhận thức có ý nghĩa quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển lịch sử xã hội loài người. Mỗi loại tri thức có ý nghĩa và vai trò riêng biệt của mình. Tuy nhiên để có một đất nước có nền kinh tế phát triển, người dân có mức sống cao, hạnh phúc… thì không thể không có tri thức khoa học và để thực hiện điều này thì tri thức phải đưa vào quá trình sản xuất vật chất, vì suy cho cùng phần lớn tri thức khoa học còn người tìm tòi dùng để phục vụ sản xuất vật chất. Vì thế phát triển và ứng dụng tri thức khoa học là cần thiết, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế ở nước ta. 11 1.1.2. Quan niệm về kinh tế tri thức Sự phát triển của tri thức nói chung và tri thức khoa học nói riêng đã đưa sản xuất của con người không ngừng phát triển, làm thay đổi các nền kinh tế trong lịch sử. Mà kinh tế được hiểu là toàn bộ hoạt động sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ của con người và xã hội; kinh tế cũng thể hiện trình độ sản xuất và các quan hệ xã hội trong nền sản xuất đó. Trong tiến trình lịch sử của nhân loại tất yếu sẽ trải qua các giai đoạn kinh tế khác nhau theo chiều hướng ngày càng phát triển đi lên; sự phát triển này là sự phát triển của sản xuất và nó luôn đồng hành với tri thức của con người, vì dù ở giai đoạn kinh tế nào thì con người luôn vận dụng tri thức vào sản xuất từ kinh tế tự nhiên, kinh tế nông nghiệp, kinh tế công nghiệp cho đến kinh tế tri thức. Nhưng giữa chúng có sự khác nhau trong việc vận dụng và hàm lượng tri thức chứa trong nó. Sự phát triển của lực lượng sản xuất và khoa học – công nghệ đã thúc đẩy hình thành các cuộc cách mạng kỹ thuật làm thay đổi toàn diện đời sống kinh tế – xã hội của con người. Sự thay đổi do các cuộc cách mạng kỹ thuật tạo nên trong mỗi thời kỳ lịch sử sẽ có vị thế, vai trò và mức độ tác động khác nhau. Trong các cuộc cách mạng kỹ thuật nổi bật là cuộc cách mạng kỹ thuật diễn ra ở cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX đã đưa nền sang xuất từ nông nghiệp lên công nghiệp và cuộc cách mạng kỹ thuật diễn ra từ giữa thế kỷ XX cho đến hiện nay đã chuyển nền kinh tế công nghiệp lên nền kinh tế tri thức. Với sự ra đời của kinh tế tri thức đánh dấu sự thay đổi trong đời sống kinh tế – xã hội của con người, con người tiến vào thời đại mà trí tuệ, tri thức trở thành sức mạnh của sự phát triển. Kinh tế tri thức về mặt thuật ngữ xuất hiện bởi các nhà lý luận phương Tây nêu lên vào khoảng những năm 80 của thế kỷ XX. Đây là sự nối tiếp quan niệm về “nền văn minh trí tuệ” mà Alvin Toffler đã đưa ra trong cuốn “Nền văn minh thứ ba” từ đầu thập niên 70 của thế kỷ XX. Có nhiều quan niệm về kinh tế tri thức trong đó phải kể đến một quan niệm phổ biến do OECD và APEC đưa ra, theo đó: “Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong 12 đó sự sản sinh ra, truyền bá và sử dụng tri thức là động lực chủ yếu nhất của tăng trưởng, tạo ra của cải, tạo việc làm trong tất cả các ngành kinh tế” [31, tr.98]. Quan niệm này nhấn mạnh trong nền sản xuất hiện đại việc tạo ra và sử dụng tri thức trong tất cả lĩnh vực là nền tảng của toàn bộ nền kinh tế. Giáo sư Ngô Quý Tùng thì cho rằng kinh tế tri thức là: “nền kinh tế mà trong nó nhân tố quan trọng nhất là việc chiếm hữu, phân phối nguồn trí lực và về việc sáng tạo, phổ biến và sử dụng tri thức trong các ngành sản xuất có hàm lượng khoa học công nghệ cao” [57, tr.29]. Quan niệm này cho thấy trong nền kinh tế tri thức thì tri thức như một dạng tài nguyên, việc sử dụng, chiếm hữu nó so với các dạng tài nguyên thiên nhiên là quan trọng hơn; các ngành đòi hỏi khoa học – công nghệ cao bắt buộc phải sử dụng nhiều tri thức; tri thức là yếu tố cơ bản bắt buộc phải có trong nền kinh tế tri thức. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế tri thức bắt đầu được đưa vào từ Đại hội IX. Qua các kỳ Đại hội Đảng quan niệm về kinh tế tri thức không có điều chỉnh nhiều, nhìn chung Đảng ta quan niệm kinh tế tri thức là kinh tế mà các sản phẩm và ngành có giá trị cao dựa trên nền tảng tri thức ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ nền kinh tế. Bên cạnh đó, là sự đổi mới công nghệ và phát triển nguồn nhân lực, kinh tế tri thức gắn liền và tạo điều kiện thúc đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa ở nước ta thông qua tận dụng những thành tựu khoa học – công nghệ mới, tiên tiến hiện nay đưa vào sản xuất. Tiến sĩ Hồ Anh Dũng thì đưa ra định nghĩa: “Kinh tế tri thức là nền kinh tế mà trong đó, sự sản sinh, phát triển, chuyển giao và sử dụng tri thức giữ vai trò chủ đạo đối với quá trình sản xuất ra của cải vật chất và nâng cao không ngừng mọi mặt đời sống xã hội” [12, tr.11]. Định nghĩa này muốn nhấn mạnh sự phát triển không ngừng của tri thức và phổ biến trong sản xuất và đời sống sẽ thúc đẩy sự đi lên của sản xuất và đời sống của con người. Theo GS. Đặng Hữu, kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh, phổ cập, sử dụng tri thức giữ vai trò mang tính quyết định đối với phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống của con người và xã hội [66, tr.21]. Quan 13 niệm này cho thấy vẫn còn kinh tế nông nghiệp, công nghiệp theo kiểu truyền thống không đòi hỏi cao về tri thức và công nghệ với tỷ lệ thấp, chiếm đa số là các ngành kinh tế dựa vào tri thức và khoa học – công nghệ hiện đại và nó giữ vai trò chủ đạo, quyết định đến đời sống kinh tế – xã hội. Trong các quan niệm trên tác giả đồng ý với quan niệm của của TS. Hồ Anh Dũng và GS. Đặng Hữu. Vì các quan niệm này đã nhấn mạnh tri thức giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế, nó góp phần tạo ra sản phẩm có giá trị cao; sự phổ biến tri thức là hoạt động thường xuyên, bắt buột và đẩy mạnh ứng dụng tri thức vào hoạt động sản xuất để tạo ra tăng trưởng kinh tế, đưa đời sống kinh tế – xã hội con người đi lên. Như vậy, khái quát lại, kinh tế tri thức là kinh tế trong đó khoa học – công nghệ, sự sáng tạo tri thức của con ngƣời đƣợc sản sinh, sử dụng, phát triển và phổ biến ngày càng sâu, rộng trong lao động sản xuất và đồng thời thúc đẩy sự phát triển đời sống xã hội con ngƣời ngày càng tốt hơn, văn minh hơn. Kinh tế tri thức dựa trên sự phát triển của khoa học – công nghệ, sự vận dụng khoa học – công nghệ vào sản xuất thông qua đổi mới tư liệu sản xuất từ đối tượng lao động với nhiều loại mới không có sẵn trong tự nhiên và một số có thể thay thế được; cho đến hệ thống phục vụ sản xuất từ cơ sở hạ tầng cho đến vật chứa bảo quản ngày càng hiệu quả và tiết kiệm hơn; đặc biệt là công cụ sản xuất không ngừng hiện đại, tinh vi. Bên cạnh đó, nó còn phát triển trình độ, khả năng của con người; quá trình sử dụng tri thức ngày càng nhiều và đi vào chiều sâu thúc đẩy nhiều ý tưởng kinh doanh, tối ưu sản xuất và sáng tạo ra sản phẩm mới; việc phổ biến, tiếp cận tri thức trở nên dễ dàng hơn giúp con người lao động hiệu quả hơn, đồng thời nó cũng nâng cao đời sống con người. Những điều này chứng minh kết luận chính xác của Mác về khả năng khoa học công nghệ sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. 1.1.3. Những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế tri thức Thứ nhất, nền kinh tế tri thức lấy tri thức mà đặc biệt là tri thức khoa học làm nền tảng, làm lực lƣợng sản xuất trực tiếp cho sự phát triển kinh tế. 14 Đây là đặc trưng nói lên bản chất của nền kinh tế tri thức. Của cải, sản phẩm trong nền kinh tế tri thức được tạo ra dựa vào tri thức nhiều hơn là dựa vào tài nguyên thiên nhiên và sức lao động cơ bắp, mặc dù vốn và lao động vẫn là những yếu tố cơ bản không thể thiếu [31, tr.101]. Nhờ sự phát triển của tri thức mà nổi bật là quá trình phát minh, sáng tạo không ngừng của con người qua công cụ sản xuất, vật liệu mới… theo hướng tự động hóa, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, nâng cao năng suất lao động… đã làm thay đổi nhiều mặt trong sản xuất, thay đổi cơ cấu ngành nghề, lĩnh vực sản xuất. Trong nông nghiệp con người có thể tăng năng suất lên vài lần so với cách sản xuất trước đây nhờ sử dụng nhiều giống cây trồng, vật nuôi và kỹ thuật mới; các lĩnh vực sản xuất công nghiệp truyền thống đã thay thế các máy móc cơ khí đơn giản thành những máy tự động hóa tinh vi; dịch vụ thì phát triển với nhiều phương tiện nhanh hơn, hiệu quả hơn. Song không thể không thể không nhắc đến những ngành công nghệ cao mà đặc biệt là công nghệ thông tin, đây là những ngành mà sản phẩm chủ yếu dựa trên tri thức, sự phát triển mạnh mẽ công nghệ thông tin đã giúp con người có nhiều tiến bộ vượt bật trong sự phát triển kinh tế – xã hội, khoa học – công nghệ, cũng như sự phát triển của tri thức con người. Sự phát triển của các ngành công nghệ cao hình thành những tập đoàn, công ty khổng lồ với giá trị kinh tế rất lớn, trong khi số lượng lao động không quá đông và cũng không sử dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên. Đồng thời với việc tri thức ngày càng tham gia mạnh mẽ vào toàn bộ đời sống kinh tế – xã hội thì việc phổ biến tri thức diễn ra cũng rất mạnh mẽ. Việc tiếp cận tri thức cũng dễ dàng và đa dạng hơn so với trước đây, từ tri thức thông qua giáo dục – đào tạo, các tài liệu khoa học, cho đến mạng thông tin… Từ việc tiếp cận dễ dàng và đa dạng hơn so với trước mà con người đã có nhiều cải tiến, phát minh, ý tưởng mới khi vận dụng nó vào quá trình lao động sản xuất, học tập, nghiên cứu, sáng tạo, hoạt động xã hội của con người. 15 Thứ hai, nền kinh tế tri thức dựa trên đội ngũ lao động chủ yếu là tri thức, đƣợc đào tào đầy đủ cả về chất và lƣợng tạo thành nguồn nhân lực chất lƣợng cao để phát triển kinh tế. Yếu tố này giữ vai trò quyết định vì trong nền kinh tế tri thức để vận hành máy móc, công cụ sản xuất, phương pháp sản xuất hiện đại đòi hỏi người lao động phải đủ năng lực điều khiển và sử dụng nó. Bên cạnh đó, chính đội ngũ lao động sẽ trở thành nguồn gốc sáng tạo để cải tiến phương tiện, máy móc, kỹ thuật… và đặt ra những yêu cầu khoa học mới đòi hỏi những nhà nghiên cứu tìm tòi và phát minh. Thứ ba, quá trình sản xuất dựa trên nền tảng quá trình sử dụng và phát triển công nghệ hiện đại. Kinh tế tri thức có tốc độ hoạt động nhanh và tạo ra nhiều biến đổi trong đời sống kinh tế – xã hội theo hướng ngày càng phát triển đi lên, vì thế sáng tạo trở thành động lực trực tiếp và không thể thiếu của sự phát triển. Trong nền kinh tế tri thức không hẳn cái khan hiếm, quý giá mới có giá trị mà cái chưa biết cũng tạo nên giá trị, cái đã biết đã được sử dụng thì sẽ mất dần giá trị của nó. Tìm ra cái chưa biết tức là việc tạo ra cái mới và cũng có nghĩa là cái cũ bị thay thế và mất đi. Vòng đời công nghệ, sản phẩm trong nền kinh tế tri thức từ lúc mới nẩy sinh, phát triển, chín muồi đến tiêu vong ngày càng rút ngắn; nếu trước đây vòng đời công nghệ có thể tính bằng nhiều thập kỷ thì nay tính bằng năm, thậm chí rút ngắn xuống bằng tháng chẳng hạn trong công nghệ thông tin [31, tr.104]. Đem so sánh kinh tế tri thức với kinh tế công nghiệp trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh thì kinh tế công nghiệp chủ yếu thực hiện tối ưu hóa sản xuất, tức là hoàn thiện cái đã có, để làm giảm chi phí sản xuất; còn trong kinh tế tri thức thì chủ yếu thực hiện sáng tạo ra cái mới có chất lượng cao hơn, thời gian đi tới người tiêu dùng nhanh hơn. Sản xuất những ngành công nghệ cao và sản xuất dựa trên công nghệ cao trở thành ngành sản xuất chủ đạo, như C.Mác đã dự báo: “Phát minh trở thành một nghề đặc biệt” [31, tr.104 -105]. Sự phát triển của khoa học – công nghệ và việc đưa nó vào sản xuất làm định hình nền kinh tế tri thức là nền kinh tế dựa trên những dây chuyền hiện đại, những 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan