ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
---------–&—--------CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO THẠC SĨ CNTT QUA MẠNG
BÀI THU HOẠCH MÔN E-LEARNING
ĐỀ TÀI:
ƯU VÀ NHƯỢC ĐIỂM CỦA CÁC
MÔ HÌNH E-LEARNING
Giảng viên: TS. Nguyễn Kim Dung
Nhóm học viên: Space
Tp.HCM, Tháng 6/2013
Bài thu hoạch môn “Phương pháp giảng dạy đại học và E-learning”
Danh sách học viên nhóm Space
STT
MSHV
Họ
Tên
Ghi chú
1
CH1101124
Nguyễn Mai
Thương
Nhóm trưởng
2
CH1101051
Nguyễn Thị Phúc
Triêm
Thư ký
3
CH1101160
Trần Duy
Phong
4
CH1101129
Vũ Công
Tâm
5
CH1101137
Nguyễn Thị Thanh
Thảo
6
CH1101158
Huỳnh Lê Quốc
Vương
Trang 2
Bài thu hoạch môn “Phương pháp giảng dạy đại học và E-learning”
Đề cương và phân công công việc
STT
1
2
3
4
5
Nội dung
Học viên thực hiện
I. Giới thiệu về E-learning
1.
Làm rõ khái niệm E-learning
2.
Vì sao phải sử dụng E-learning
3.
Giới thiệu các mô hình E-learning
4.
Phân loại các mô hình E-learning
II. Mô hình CBT & WBT
1.
Giới thiệu
2.
Ưu điểm
3.
Nhược điểm
III.
CH1101051
Vũ Công Tâm
CH1101129
Mô hình online learning
Nguyễn Thị Thanh Thảo
1.
Giới thiệu
CH1101137
2.
Ưu điểm
3.
Nhược điểm
IV.
Mô hình distance learning
Huỳnh Lê Quốc Vương
1.
Giới thiệu
CH1101158
2.
Ưu điểm
3.
Nhược điểm
V. Mô hình LMS (Learning management
Nguyễn Mai Thương
system)
CH1101124
1.
Giới thiệu
2.
Ưu điểm
3.
Nhược điểm
6
Nguyễn Thị Phúc Triêm
VI.
Làm báo cáo Power Point.
Mô hình blended learning
Trần Duy Phong
1.
Giới thiệu
CH1101160
2.
Ưu điểm
3.
Nhược điểm
Trang 3
Bài thu hoạch môn “Phương pháp giảng dạy đại học và E-learning”
7
VII.
Tổng kết
Trần Duy Phong
1.
Ưu nhược điểm của E-learning
CH1101160
2.
Hướng phát triển
Trang 4
Bài thu hoạch môn “Phương pháp giảng dạy đại học và E-learning”
MỤC LỤC
I.
Giới thiệu về E-learning
10
1.
Làm rõ khái niệm E-learning
10
2.
Vì sao phải sử dụng E-learning?
10
3.
Giới thiệu các mô hình E-learning
12
a.
Mô hình CBT & WBT
12
b.
Mô hình Online learning
12
c.
Mô hình Distance learning
12
d.
Mô hình LMS
12
e.
Mô hình Blended learning
13
4.
II.
Phân loại các mô hình E-learning
13
Mô hình CBT & WBT
1.
CBT (Computer Base Training) Khởi đầu của mọi mô hình e-learning.
14
a.
Khái niệm
14
b.
Đặc điểm
14
c.
Người nào có thể học bằng CBT
14
d.
Ưu điểm của CBT
14
2.
III.
14
WBT (Web Base Training)
15
a.
Khái niệm
15
b.
Ưu điểm của WBT
15
c.
Khuyết điểm của CBT và WBT
16
d.
Tiêu chí của một ứng dụng CBT-WBT tốt
16
Mô hình online learning
17
1.
E-learning - cách mạng hay cải cách?
17
2.
Đào tạo trực tuyến là gì?
19
3.
Một công nghệ đào tạo trực tuyến
21
Trang 5
Bài thu hoạch môn “Phương pháp giảng dạy đại học và E-learning”
4.
Cán cân giữa ưu điểm và nhược điểm
22
5.
Sơ kết
23
IV.
Mô hình distance learning
23
1.
Giới thiệu về đào tạo từ xa
23
2.
Ưu và nhược điểm của phương pháp đào tạo từ xa.
26
V.
a.
Ưu điểm
26
b.
Nhược điểm
26
Mô hình LMS (Learning Management System)
27
1.
Định nghĩa
27
2.
Phân loại
28
3.
Đặc điểm của LMS
28
4.
Chức năng của LMS
29
5.
Ưu và nhược điểm của LMS
29
a.
Ưu điểm
29
b.
Hạn chế
30
6.
Giới thiệu các hệ thống LMS hiện nay:
31
7.
Đánh giá khả năng ứng dụng LMS vào thực tế ở Việt Nam hiện nay
32
VI.
Mô hình blended learning
33
1.
Blended Learning là gì?
33
2.
Mô hình triển khai thực tế
34
2.1
Thời lượng học
34
2.2
Chuẩn bị
34
2.3
Triển khai
35
3.
Ưu và nhược điểm
38
3.1
Ưu điểm của mô hình Blended learning
38
3.2
Nhược điểm của mô hình Blended learning
38
Trang 6
Bài thu hoạch môn “Phương pháp giảng dạy đại học và E-learning”
VII. TỔNG KẾT
1.
2.
39
Ưu và nhược điểm của mô hình E-learning
39
a.
Ưu điểm
39
b.
Nhược điểm
39
Niềm tin và E-learning
39
Trang 7
Bài thu hoạch môn “Phương pháp giảng dạy đại học và E-learning”
LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình phát triển của xã hội, nhu cầu đòi hỏi nguồn nhân lực chất lượng cao cũng
như việc cần thết phải học tập, cập nhật và trau dồi kiến thức ngày càng cao. Cũng vì lẽ đó mà
E-learning đang trở thành xu thế tất yếu trong nền kinh tế tri thức. Bởi vì E-learning chính là
chất xúc tác làm thay đổi toàn bộ mô hình học tập cho học sinh, sinh viên, viên chức và cho
nhiều loại đối tượng tiềm năng khác như bác sĩ, y tá, giáo viên… thực tế là cho bất kỳ ai mong
muốn được học tập dù dưới hình thức chính thống hay không chính thống.
Hiện nay E-learning đang thu hút được sự quan tâm đặc biệt của các nước trên thế giới và rất
nhiều tổ chức, công ty hoạt động trong lĩnh vực E-learning ra đời.
Trong phạm vi bài tiểu luận của mình chúng em xin trình bày, làm rõ khái niệm E-learning
cũng như những mô hình E-learning căn bản, đồng thời phân tích ưu khuyết điểm của từng mô
hình.
Vì thời gian nghiên cứu có hạn nên không tránh khỏi sai sót, mong được sự góp ý, phê bình
từ cô và các bạn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn:
- Trường Đại Học Công Nghệ Thông Tin TP HCM đã tạo điều kiện cho chúng em được nghiên
cứu và học tập.
- Cô TS. Nguyễn Kim Dung đã tận tâm giảng dạy và giúp đỡ chúng em trong suốt quá trình học
tập môn Phương pháp giảng dạy đại học và E-learning.
- Các anh chị học viên trong nhóm của lớp CH6 đã giúp đỡ chúng em trong suốt quá trình học,
trau đổi, và thực hiện bài thu hoạch.
Chúng em xin chân thành cảm ơn !
Trang 8
Bài thu hoạch môn “Phương pháp giảng dạy đại học và E-learning”
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
Trang 9
Bài thu hoạch môn “Phương pháp giảng dạy đại học và E-learning”
I. Giới thiệu về E-learning
1. Làm rõ khái niệm E-learning
Có nhiều quan điểm, định nghĩa khác nhau về e-Learning, dưới đây sẽ trích ra một số định
nghĩa e-Learning đặc trưng nhất:
E-Learning là sử dụng các công nghệ Web và Internet trong học tập (William Horton); (2) ELearning là một thuật ngữ dùng để mô tả việc học tập, đào tạo dựa trên công nghệ thông tin và
truyền thông (Compare Infobase Inc); (3) E-Learning nghĩa là việc học tập hay đào tạo được
chuẩn bị, truyền tải hoặc quản lý sử dụng nhiều công cụ của công nghệ thông tin, truyền thông
khác nhau và được thực hiện ở mức cục bộ hay toàn cục (MASIE Center); (4) Việc học tập được
truyền tải hoặc hỗ trợ qua công nghệ điện tử. Việc truyền tải qua nhiều kĩ thuật khác nhau như
Internet, TV, video tape, các hệ thống giảng dạy thông minh, và việc đào tạo dựa trên máy tính
(Coputer Base Training) (Sun Microsystems, Inc)… Hiểu theo nghĩa rộng, E-learning là một
thuật ngữ dùng để mô tả việc học tập, đào tạo dựa trên công nghệ thông tin và truyền thông, đặc
biệt là công nghệ Internet.
Theo quan điểm hiện đại, E-learning là sự phân phát các nội dung học sử dụng các công cụ
điện tử hiện đại như máy tính, mạng Internet, mạng vệ tinh, đĩa CD học liệu…; người dạy và
người học có thể giao tiếp với nhau qua mạng dưới các hình thức như: người học theo dõi bài
giảng qua mạng (trực tiếp hoặc gián tiếp), e-mail, thảo luận trực tuyến (chat), diễn đàn (forum)
…
Tuy có nhiều định nghĩa khác nhau, nhưng nói chung E-Learning đều có những điểm chung
sau: dựa trên công nghệ thông tin và truyền thông. Cụ thể hơn là công nghệ mạng, kĩ thuật đồ
họa, kĩ thuật mô phỏng, công nghệ tính toán…
2. Vì sao phải sử dụng E-learning?
Chúng ta sử dụng E-learning vì những lợi ích và hiệu quả mà nó mang lại:
Theo Bill Gates, The Road Ahead “Information technology will bring mass customization
to learning too....Workers will be able to keep up to date on techniques in their field. People
anywhere will be able to take the best courses taught by the greatest teachers”. Nếu công nghệ
thông tin đạt tới đỉnh điểm của nó thì thật là tuyệt vời. Ngay tại Việt Nam, chúng ta cũng có thể
Trang 10
Bài thu hoạch môn “Phương pháp giảng dạy đại học và E-learning”
tham gia các khóa học bên Mĩ với thầy giáo giỏi nhất.
Nền kinh tế thế giới đang bước vào giai đoạn kinh tế tri thức. Đặc điểm của nền kinh tế này
là dịch vụ sẽ là khu vực thu hút được nhiều lao động tham gia nhất và là những lao động có
tri thức cao. Do đó việc nâng cao hiệu quả chất lượng giáo dục, đào tạo sẽ là nhân tố sống còn
quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia, công ty, gia đình, và cá nhân. E-learning
chính là một giải pháp hữu hiệu giải quyết vấn đề này. Việc học tập không chỉ bó gọn trong việc
học phổ thông, học đại học mà là học suốt đời. Tức là đối tượng học tập sẽ bao gồm cả người
lớn.
Với sự hỗ trợ của các phần mềm thông minh, có tính tương tác cao sẽ đưa ra cách giảng dạy
phù hợp với từng người. Đây là cơ hội tuyệt vời để người bị coi là “cá biệt” theo cách đào tạo
truyền thống bắt kịp với các người bình thường khác.
Đối với các công ty, sự đào tạo nhân viên các kĩ năng mới sẽ quyết định chất lượng sản phẩm
và các dịch vụ mà họ cung cấp. Một vấn đề đặt ra với các công ty là làm sao tạo ra tạo các nội
dung huấn luyện nhanh nên họ rất cần các công cụ tạo nội dung dễ dàng, nhanh và không đòi hỏi
kiến thức về IT quá nhiều.
So sánh với lớp học truyền thống, E-learning có những lợi thế sau:
Đào tạo mọi lúc mọi nơi: Truyền đạt kiến thức theo yêu cầu, thông tin đáp ứng nhanh chóng.
Học viên có thể truy cập các khoá học bất kỳ nơi đâu như văn phòng làm việc, tại nhà, tại những
điểm Internet công cộng, 24 giờ một ngày, 7 ngày trong tuần. Đào tạo bất cứ lúc nào bất cứ nơi
đâu họ muốn.
Tiết kiệm chi phí: Giúp giảm khoảng 60% chi phí bao gồm chi phí đi lại và chi phí tổ chức
địa điểm. Học viên chỉ tốn chi phí trong việc đăng kí khoá học và có thể đăng kí bao nhiêu khoá
học mà họ cần.
Tiết kiệm thời gian: giúp giảm thời gian đào tạo từ 20-40% so với phương pháp giảng dạy
truyền thống do rút giảm sự phân tán và thời gian đi lại.
Uyển chuyển và linh động: Học viên có thể chọn lựa những khoá học có sự chỉ dẫn của giảng
viên trực tuyến hoặc khoá học tự tương tác (Interactive Self-pace Course), tự điều chỉnh tốc độ
học theo khả năng và có thể nâng cao kiến thức thông qua những thư viện trực tuyến
Trang 11
Bài thu hoạch môn “Phương pháp giảng dạy đại học và E-learning”
Tối ưu: Nội dung truyền tải nhất quán. Các tổ chức có thể đồng thời cung cấp nhiều ngành
học, khóa học cũng như cấp độ học khác nhau giúp học viên dễ dàng lựa chọn
Hệ thống hóa: E-learning dễ dàng tạo và cho phép học viên tham gia học, dễ dàng theo dõi
tiến độ học tập, và kết quả học tập của học viên. Với khả năng tạo những bài đánh giá, người
quản lí dễ dàng biết được nhân viên nào đã tham gia học, khi nào họ hoàn tất khoá học, làm thế
nào họ thực hiện và mức độ phát triển của họ.
3. Giới thiệu các mô hình E-learning
a. Mô hình CBT & WBT
CBT (Computer-Based Training-Học trên máy tính): Hiểu theo nghĩa rộng, thuật ngữ này
nói đến bất kỳ một hình thức đào tạo nào có sử dụng máy tính. Nhưng thông thường thuật ngữ
này được hiểu theo nghĩa hẹp để nói đến các ứng dụng (phần mềm) đào tạo trên các đĩa CDROM hoặc cài trên các máy tính độc lập, không nối mạng, không có giao tiếp với thế giới bên
ngoài.
WBT (Web-Based Training – Học trên Web/Internet/Intranet): là hình thức đào tạo sử dụng
công nghệ Web. Nội dung học, các thông tin quản lý khóa học, thông tin về người học được để
trên các Website và người dùng có thể dễ dàng truy nhập qua trình duyệt. Người học có thể giao
tiếp với nhau và với giáo viên, sử dụng các chức năng trao đổi trực tiếp, diễn đàn, email…, thậm
chí có thể nghe được giọng nói và nhìn thấy hình ảnh của người giao tiếp với mình.
b. Mô hình Online learning
Sử dụng Internet hoặc hội thảo cầu truyền hình để tạo ra các cộng đồng học tập. Tài liệu
học tập được cung cấp trên trang web và đôi khi trên đĩa CD-ROM, email, bảng tin, diễn đàn,
và chat được sử dụng để tương tác với các sinh viên và giáo viên khác. Việc học có thể diễn ra
trong lớp học hoặc nơi làm việc, có thể được thực hiện tại nhà, tại các trung tâm truy cập trực
tuyến, hoặc tại một thư viện công cộng.
c. Mô hình Distance learning
Thuật ngữ này nói đến hình thức đào tạo trong đó người dạy và người học không ở cùng một
chỗ, thậm chí không cùng một thời điểm. Ví dụ như việc đào tạo sử dụng công nghệ hội thảo
cầu truyền hình hoặc công nghệ web.
d. Mô hình LMS
Trang 12
Bài thu hoạch môn “Phương pháp giảng dạy đại học và E-learning”
Learning management là một ứng dụng phần mềm cho việc quản lý, theo dõi, báo cáo và
cung cấp các tài liệu hướng dẫn cho các khóa học giáo dục e-learning hoặc các chương trình đào
tạo. Thông thường, một LMS có thể chạy trên nền web nên người học có thể truy cập nội dung
học tập mọi lúc mọi nơi.
e. Mô hình Blended learning
Là sự kết hợp phương pháp học tập mặt đối mặt ở lớp với các hoạt động qua trung gian máy
tính để tạo thành một phương pháp giảng dạy tích hợp. Trong phương pháp này, học sinh tiếp
tục nhận được các hướng dẫn trên lớp từ giáo viên và tham gia các hoạt động trên lớp truyền
thống khác. Tuy nhiên, việc học sẽ được bổ sung bởi các hoạt động online, một số hoạt động sẽ
mang tính tự định hướng và tự học, một số sẽ khuyến khích sự hợp tác.
4. Phân loại các mô hình E-learning
Trong hệ thống E-Learning, vai trò của người học là trung tâm. Ta phân loại mô hình Elearning dựa vào 3 cấp độ:
Cấp độ 1: CBT (Computer-Based Training-Học trên máy tính) & WBT (Web-Based
Training – Học trên Web/Internet/Intranet): Khởi đầu của mọi mô hình e-learning.
Học thông qua CD-ROM hoặc Web (Mô hình học qua Web đang ngày càng phát triển), có
kiểm tra đầu vào, học từng bước và có kiểm tra mức độ tiếp thu bài, hoc viên tự học, không có
giáo viên hướng dẫn, chi phí thấp.
Cấp độ 2: Học trực tuyến có giảng viên
Học thông qua Internet/Intranet, sử dụng Hệ thống Quản lý Học tập (LMS), có sự giao tiếp
giữa giảng viên – học viên, học viên – học viên, giảng viên có thể trực tiếp trả lời câu hỏi, đặt
câu hỏi, chấm điểm đánh giá học viên, giảng viên có thể đánh giá khả năng của học viên, đồng
thời có thể chỉ dẫn học viên tham gia các khóa học mức cao hơn.
Cấp độ 3: Lớp học ảo
Học thông qua mạng Internet/Intranet, sử dụng Hệ thống Quản lý Học tập (LMS), các “lớp
học ảo” được tổ chức ngay trên mạng như các lớp học thông thường, các giờ học “live” được
tổ chức để thảo luận về các “case studies”. Giáo viên có thể thực hiện các hướng dẫn trực tiếp
(hands-on) nhờ e-lab, sinh viên có thể học trực tiếp hoặc xem lại các bài giảng và làm bài tập
off-line với hình thức giống như đang tham gia lớp học trực tiếp, tất cả các khoá học trực tuyến
có thể được quản lý, giám sát giống như các lớp học thông thường.
Trang 13
Bài thu hoạch môn “Phương pháp giảng dạy đại học và E-learning”
II. Mô hình CBT & WBT
1. CBT (Computer Base Training) Khởi đầu của mọi mô hình e-learning.
a. Khái niệm
Hiểu theo nghĩa rộng, thuật ngữ này nói đến bất kỳ một hình thức đào tạo nào có sử dụng
máy tính. Nhưng thông thường thuật ngữ này được hiểu theo nghĩa hẹp để nói đến các ứng dụng
(phần mềm) đào tạo trên các đĩa CD-ROM hoặc cài trên các máy tính độc lập, không nối mạng,
không có giao tiếp với thế giới bên ngoài. Thuật ngữ này được hiểu đồng nhất với thuật ngữ CDROM Based Training. Đôi khi còn được gọi là Computer Aided Instruction (CAI).
b. Đặc điểm
•
Học thông qua CD-ROM.
•
Có kiểm tra đầu vào.
•
Học từng bước, có kiểm tra mức độ tiếp thu bài.
•
Học viên tự học, không có giáo viên hướng dẫn.
c.
Người nào có thể học bằng CBT
Những người đủ khả năng sử dụng máy tính thành thạo và quen với việc đánh máy tính: Học
sinh, sinh viên, nhân viên, giáo viên …
d. Ưu điểm của CBT
•
Cho phép người học tự điều chỉnh nhip độ học theo trình độ của riêng mình. Người
học có thể lướt qua những mảng kiến thức đã biết hoặc có thể đi chậm lại những mảng kiến thức
mà chưa nắm rõ.
•
Học sinh có thể có tùy chọn để chọn tài liệu học tập đáp ứng mức độ nhận thức và sự
quan tâm của mình
•
Thay đổi phong cách học tập truyền thống và tiếp cận mới
•
Nâng cao kiến thức về kĩ năng sử dụng máy tính vì có nhiều thời gian làm việc trên
máy tính
Trang 14
Bài thu hoạch môn “Phương pháp giảng dạy đại học và E-learning”
•
Tạo cho người học tính tự giác và chủ động trong việc học, biết cách tự tạo ta thời
gian biểu cho riêng mình.
•
Có sự hỗ trợ của các ứng dụng khác trên máy tính có thể giúp người học dễ hình dung
hơn về bài học (Hình ảnh và âm thanh minh hoạ rõ nét hơn kiểu truyền thống).
•
Nội dung của chương trình đào tạo là thống nhất và giống nhau cho tất cả những
người học, không phụ thuộc vào người dạy như chương trình truyền thống.
•
Giảm thời gian đi lại cho người học
•
Chủ động thời gian học tập, một người học có thể tham dự khoá học ở bất kỳ lúc nào
họ muốn, kể cả khi đi du lịch. Chủ động sắp xếp công việc của gia đình và việc học.
•
CBT còn tiết kiệm chi phí tổ chức hướng dẫn, sắp xếp chi phí đào tạo, chi phí đi lại và
thời gian.
•
Thông qua CBT, nhân viên có thể theo kịp với công nghệ bao giờ thay đổi.
•
Công nghệ CBT cũng chia nhỏ một phần mềm phức tạp thành các module có kích
thước nhỏ giúp cho sự hiểu biết chúng dễ dàng và nhanh chóng hơn.
2.
WBT (Web Base Training)
a.
Khái niệm
Là hình thức đào tạo sử dụng công nghệ web. Nội dung học, các thông tin quản lý khoá học,
thông tin về người học được lưu trữ trên máy chủ và người dùng có thể dễ dàng truy nhập thông
qua trình duyệt Web. Người học có thể giao tiếp với nhau và với giáo viên, sử dụng các chức
năng trao đổi trực tiếp, diễn đàn, e-mail... thậm chí có thể nghe được giọng nói và nhìn thấy hình
ảnh của người giao tiếp với mình.
b. Ưu điểm của WBT
•
Các khóa huấn luyện rất dễ dàng chuyên giao đến con người do áp dụng trên môi
trường web
•
Thích hợp đào tạo cho cả cá nhân và theo nhóm
•
Khả năng chạy trên đa nền tảng: Windows, Mac, UNIX, PDA, phone …
•
Nội dung dễ dàng được cập nhật
•
Yêu cầu hiểu biết về kĩ thuật máy tính ít.
Trang 15
Bài thu hoạch môn “Phương pháp giảng dạy đại học và E-learning”
•
Có thể dễ dàng liên kết tới một chương trình đào tạo khác.
c.
Khuyết điểm của CBT và WBT
• Người học không có tinh thần tự giác, động lực thấp và thói quen học tập thụ động sẽ bị
rơi lại phía sau.
•
Nếu cấu trúc chương trình quá khác với các cấu trúc truyền thống sẽ làm người học
khó tiếp cận và gây nhầm lẫn.
•
Người học có thể cảm thấy bị cô lập từ giảng viên và bạn cùng lớp do chỉ học một
mình trên máy tính
•
Học sinh sẽ phải tự tìm lời giải cho những vấn đề khúc mắc mà không có sự giúp đỡ
của giáo viên và bạn bè
•
Phụ thuộc quá nhiều vào đường truyền internet (WBT). Mọi sự cố lien quan đến
đường truyền internet đều có thể làm gián đoạn quá trình học tập
•
Những người chưa làm quen với máy tính có thể gặp khó khăn trong những ngày đầu
tiếp cận học trên máy tính.
•
Khó có thể tạo một buổi thực hành hoặc làm việc trong phòng thí nghiệm như những
lớp học truyền thống, người học phải tự tìm những công việc tương tự để thực hành.
d.
Tiêu chí của một ứng dụng CBT-WBT tốt
Độ tin cậy của nội dung và thiết kế (Content reliability and design): Nếu nội dung lạc hậu,
lỗi thời và thiết kế kém sẽ làm hại nhiều người hơn. Do đó, cần phải có những nhà cung cấp nội
dung uy tín, nội dung tài liệu được chứng minh độ đúng đắn và chương trình được thiết kế tốt.
Gói ứng dụng thông minh (Intelligent bundling): Mỗi chương trình CBT hướng đến những kĩ
năng và mục đích đào tạo riêng, do đó người học phải chọn lựa và tìm những chương trình phù
hợp nhất với nhu cầu khác nhau của mình.
Khả năng tùy biến (Customizability): Nhà cung cấp sẵn sang tùy biến chương trình của họ để
tương thích với điều kiện và sở thích của người học hay không.
Tích hợp dễ dàng (Ease of integration): Có thể dễ dàng tích hợp vào cơ sở đào tạo sẵn có của
của người học hay không
Trang 16
Bài thu hoạch môn “Phương pháp giảng dạy đại học và E-learning”
Dịch vụ khách hàng (Customer service): Nhà cung cấp có một hồ sơ theo dõi sao lưu giải
pháp đào tạo trực tuyến của họ cộng với với một dịch vụ chăm sóc khách hàng chất lượng
cao hay không?
III. Mô hình online learning
1. E-learning - cách mạng hay cải cách?
Trước khi đi vào mô hình đào tạo trực tuyến, ta trở lại một chút với e-learning qua câu hỏi
rất thú vị “e-learning thật sự là một cuộc cách mạng hay chỉ là một cách cải tiến trong đào tạo,
giảng dạy”. Để trả lời câu hỏi này thì ta xem qua một nghiên cứu của Andrew Ettinger và Viki
Holton thuộc trường Ashridge đã thực hiện phỏng vấn với 16 công ty về các vấn đề trọng tâm
xoay quanh e-learning [9].
Allied Irish Bank; The BBC; The British Council; Coca-Cola GB; Deutsche Bank; Electrocomponents; Franz Haniel Akademie; Gartmore Investment Management; Lloyds TSB;
Logicom; Mercer Human Resource Consulting; The Ministry of Defence; Norwich Union Life;
Somerset County Council; Volvo Truck Corporation; Xerox Europe.
Trong các công ty được phỏng vấn ở trên có khá nhiều công ty danh tiếng. Chẳng hạn như
cái tên đầu tiên Allied Irish Bank là một trong 4 ngân hàng thương mại lớn nhất của Ireland,
nhóm này có được mệnh danh là Big Four. BBC, The British Council thì chắc không ai không
biết, … Việc phỏng vấn với những công ty nổi tiếng này có thể đảm bảo phần nào cho chất
lượng khảo sát. Quay lại với e-learning, theo tình hình hiện nay thì mặc dù e-learning vẫn đang
được phát triển mở rộng nhưng lại chậm hơn những dự đoán ban đầu đã rất kỳ vọng vào nó.
Nhiều người cho rằng e-learning đơn giản chỉ là một cách khác để học, đào tạo. Tuy nhiên,
nhiều quan điểm lại cho rằng e-learning lại rất có tiềm năng, tin rằng e-learning có đầy đủ sức
mạnh thể thay đổi hoàn toàn cách học cũng như trong việc quản lý nguồn tri thức. Chia thành 2
nhóm người sceptics và believers.
Nhóm sceptics thì thường đánh giá e-learning là một cách tiếp cận nghèo nàn để học tập.
Với các comments đơn giản như “nó tạo ra một môi trường tồi tệ cho người học” hay cho đến
một cách độc đoán như là “e-learning không thể thay thế các buổi học trong phòng”. Những
khó khăn trong những năm đầu của e-learning cũng là một trong những nguyên nhân của những
comments như thế. Các vấn đề về công nghệ đã gây ra nỗi ám ảnh cho e-learning trong
Trang 17
Bài thu hoạch môn “Phương pháp giảng dạy đại học và E-learning”
những buổi đầu. Một ví dụ chẳng hạn như khó khăn trong việc chuyển đổi – kết hợp giữa các
nền tảng công nghệ khác nhau giữa các phòng ban, các website và các quốc gia khác nhau. Và
mọi người thường nghĩ vấn đề này chỉ xảy ra với những công ty không có kiến thức IT chuyên
sâu. Không phải vậy, vấn đề này ảnh hưởng đến hầu hết tất cả các tổ chức. Các vấn đề về công
nghệ từ nhỏ đến lớn đều được đề cập đến bởi hầu hết những người được phỏng vấn. Điều này
cho thấy công nghệ vẫn gặp hết nhiều khó khăn. Dĩ nhiên, công nghệ bây giờ đã tiến xa rất
nhiều so với những năm giữa thập niên 1990. Do đó những vấn đề này có thể được khắc phục
trong những năm tới. Chẳng hạn như bây giờ phần mềm có thể tạo ra tiếng vang như trong
phòng học tạo cho người dạy cảm giác hơn. Cải thiện cơ sở hạ tầng công nghệ cũng giúp giảm
chi phí cho việc phát triển e-learning.
Ngược lại với nhóm sceptics là nhóm believers. Tuy nhiên, nhóm này không nhất thiết là
những người truyền giáo luôn suy nghĩ e-learning nên, hay có thể thay thế các loại hình học tập
khác. Nhóm này tin tưởng vào tiềm năng của e-learning sẽ đem lại những sự khác biệt trong đào
tạo. Hầu hết các công ty được phỏng vấn trong nghiên cứu này tin tưởng rằng e-learning hoàn
toàn trở thành một phương pháp đào tạo. Một số công ty có nhu cầu trong việc đào tạo rộng
khắp thì báo cáo rằng e-learning loại bỏ đi những thủ tục hành chính rườm rà tốn thời gian, và
tiết kiệm chi phí hiệu quả cho việc đào tạo số lượng lớn.
Để chứng tỏ doanh nghiệp mình đang đi theo xu hướng hiện đại của thế giới thì trong những
quảng cáo giới thiệu về mình có đính kèm theo chữ e-learning. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của
Ashridge thì tổng số tiền đầu tư vào e-learning không tỷ lệ thuận với thành công của họ, cho dù
cách tiếp cận xây dựng e-learning là stand-alone hay kết hợp với các phương pháp đào tạo khác
thì vẫn rất khó khăn để hiện thực. Nghiên cứu này còn cho biết nhiều người nghe tới e-learning
thì sợ rằng đây là một cách để cắt giảm chi phí đào tạo, gây ra những hiệu ứng tiêu cực.
Và thực trạng Việt Nam
Trở lại với vấn đề trên ở Việt Nam, nghe tới e-learning thì hầu hết mọi người có ác cảm với
nó, mọi người thường nghĩ đây là một chương trình đào tạo qua loa, cho có bằng có cấp. Và
thực sự hiện nay đúng là như vậy, có một bài viết của BS Hồ Hải chỉ trích về vấn đề này khi
thấy một thực trạng là tồn tại nhiều cử nhân, thạc sĩ online của ngành giáo dục nước nhà, thậm
chí ngay cả những tiến sĩ có bằng ngoại quốc nhưng tiếng Anh một chữ bẻ đôi cũng không biết.
Trích dẫn 1 đoạn như sau:
“Lịch sử E-learning của Việt Nam: Đi tắt đón đầu là chuyện mà ai cũng thường thấy trong vài thập
niên trở lại đây ở Việt Nam. Nên chuyện E-learning cũng được phát động phong trào như trăm
Trang 18
Bài thu hoạch môn “Phương pháp giảng dạy đại học và E-learning”
hoa đua nở ở Việt Nam chỉ sau thế giới, đặc biệt là sau ông William D. Graziedei (là người nghĩ ra
chương trình giáo dục online vào những năm đầu thập niên 1993) chỉ có 3 năm, tức vào năm 1996!
Sau 12 năm thực hiện dự án E-learning của bộ giáo dục và đào tạo phát động, một hội thảo hòanh
tráng ở Viện nghiên cứu giáo dục có một tổng kết khoa học: Đào tạo trực tuyến trong nhà trường
Việt Nam - Thực trạng và giải pháp. Một tổng kết 169 trang với nhiều bài viết khoa học những rất
không khoa học!!!
Việt Nam chúng ta luôn bắt chước cái mới rất nhanh, nhưng chúng ta chỉ bắt chước bằng tâm thế và
tư thế của một kẻ khôn ranh, chưa bao giờ chúng ta bắt chước với tâm thế và tư thế của một người
khôn ngoan.” Xem thêm tại đây.
Có thể thấy rõ ràng khá nhiều khó khăn trong việc áp dụng và triển khai e-learning. Vậy đào
tạo trực tuyến thì sao, nó cũng là một hình thức của e-learning. Để tìm ra nguyên nhân vấn đề
cũng như giải pháp thích hợp đào tạo trực tuyến trong giảng dạy thì trước tiên ta cần phải hiểu
được đào tạo trực tuyến là gì?
2. Đào tạo trực tuyến là gì?
Sự nhập nhằng giữa các thuật ngữ
Thế nào là e-learning? Thế nào là đào tạo từ xa? Thế nào là đào tạo trực tuyến? …
Nếu ta thì lục tìm trên mạng thì sẽ không thấy được định nghĩa chuẩn nhất có những thuật ngữ
liên quan đến e-learning này. Để cụ thể hơn, xem kết quả [2] của 43 người được phỏng vấn để
trả lời về định nghĩa cho các thuật ngữ e-learning, distance learning, online learning theo các đặc
điểm [2]. Các thuật ngữ được so sánh với nhau có 2 kết quả xảy ra là giống nhau và không giống
nhau. Nếu giống nhau có thể sử dụng thay thế cho nhau thì không có gì để nói. Còn nếu khác
nhau thì được chia làm 2 loại:
o khác nhau về mặt quan hệ cha-con giữa các thuật ngữ
o khác nhau về đặc điểm của thuật ngữ (cách truy cập để có thể học, cách tương tác với
nhau: đồng bộ hay không đồng bộ, sử dụng phương tiện gì, giống với gì)
Ta dễ dàng nhận ra sự không thống nhất ở kết quả phản hồi [2], nếu đi tiếp tìm hiểu định nghĩa
những thuật ngữ này thì khá lùng bùng. Do đó, ta sẽ đi vào ngay chính bản chất của nó tường
minh ngay trên cụm từ “đào tạo trực tuyến”.
Như đã nói ở trên để có thể đi đến được các vấn đề liên quan đến đào tạo trực tuyến thì ta cần
phải hiểu được đào tạo trực tuyến là gì hay nói cách khác là cần phải hiểu được chữ trực tuyến
Trang 19
Bài thu hoạch môn “Phương pháp giảng dạy đại học và E-learning”
ở đây có nghĩa như thế nào, nó khác gì với đào tạo thông thường ngồi tại lớp học. Ta thường
thấy cụm từ như game trực tuyến, chat trực tuyến hay mua bán, giao dịch trực tuyến thì chữ trực
tuyến trong cụm từ đào tạo trực tuyến ở đây cũng có cùng ngữ cảnh, ngữ nghĩa như thế.
• Game trực tuyến có nghĩa là cho phép mọi người cùng chơi một game, trao đổi với
nhau nhưng không nhất thiết phải ngồi cạnh nhau.
• Chat trực tuyến là tán gẫu qua mạng, hai người hoặc nhiều người không ở chung một
nơi nhưng vẫn có thể thấy nhau và nói chuyện với nhau.
Vậy trực tuyến ở đây có nghĩa là một hình thức trao đổi gián tiếp mà những người tham gia
không nhất thiết phải ngồi bên cạnh nhau [1]. Thường thì trực tuyến thường được hiểu ngầm là
trao đổi gián tiếp qua internet. Nhưng thực ra không nhất thiết như vậy, ví dụ radio trực tuyến:
bạn có thể trao đổi với người dẫn chương trình qua điện thoại khi chương trình đang được phát.
Các thành phần chính yếu trong đào tạo trực tuyến
Và dựa trên chữ trực tuyến này, có nhiều định nghĩa đã được đưa ra cho đào tạo trực tuyến. Với
mỗi vùng miền, mỗi trường có cách định nghĩa khác nhau phụ thuộc vào cách thức mà họ triển
khai áp dụng mô hình đào tạo trực tuyến [2] nhưng thành phần căn bản cốt yếu nhất trong tất cả
các định nghĩa đó là việc sử dụng các thiết bị terminal như desktop, laptop, tablet, smartphone,
… và thông qua các công nghệ truyền thông, giao tiếp để deliver (truyền) và receive (nhận) có
thể là tài liệu như file word, pdf hay có thể là hình ảnh, âm thanh tương tác với nhau của người
học, người dạy để đạt được mục tiêu là trực tuyến.
Chú ý: Đào tạo trực tuyến không phải 100% hoàn toàn là không gặp nhau mà ở đó sẽ có
những buổi gặp gỡ giữa người học và người dạy nhằm tổng hợp các kiến thức đã học, đánh
Trang 20
- Xem thêm -