Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ ứng dụng những hạt nhân hợp lý của học thuy&...

Tài liệu ứng dụng những hạt nhân hợp lý của học thuy&

.DOC
7
88
140

Mô tả:

LỜI NÓI ĐẦU: Phân quyền là một trong những lý thuyết chính trị – pháp lý có ý nghĩa hết sức quan trọng cả trong tư tưởng và thực tiễn chính trị thế giới. So với các tư tưởng chính trị trong chế độ chuyên chế độc tài, nguyên tắc phân quyền được coi là tư tưởng thời đại, đánh dấu sự chuyển biến từ việc sử dụng “quyền lực dã man” trong các xã hội chuyên chế sang việc thực thi quyền lực văn minh trong xã hội dân chủ. Nhận thức được vai trò và ý nghĩa to lớn của tư tưởng này, Nhà nước ta đã vận dụng linh hoạt những hạt nhân hợp lí trong nguyên tắc phân chia quyền lực vào tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta ngày nay. Trong bài tiểu luận này, em xin đi sâu vào vấn đề đó, và nêu ra một số hạn chế và phương hướng khắc phục cơ bản nhất. I/ Khái quát về tư tưởng phân chia quyền lực: Phân chia quyền lực là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản. Tư tưởng phân chia quyền lực đã có mầm mống từ rất xa xưa trong lịch sử phát triển của nhân loại, thể hiện qua các tác phẩm của Aristote, John Locke, nhưng đến Montesqieu- một nhà tư tưởng nổi tiếng người Pháp thế kỉ XVIII mới hoàn thiện ở mức độ cao và thể hiện rõ trong bộ máy nhà nước tư sản. Trước hết, chúng ta cần hiểu “quyền lực” được đề cập đến ở đây là quyền lực nhà nước. Nội dụng của tư tưởng phân chia quyền lực có thể được hiểu ngắn gọn như sau: Thứ nhất, quyền lực nhà nước phải được chia thành các loại quyền khác nhau và do các cơ quan nhà nước khác nhau đảm nhiệm. Theo Montesqieu (1689-1775) thì quyền lực nhà nước được chia thành ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp do các cơ quan khác nhau nắm giữ. Ngoài ra còn có sự phân quyền theo hệ thống hàng dọc từ Trung ương đến địa phương. Điểm thứ hai của nguyên tắc phân chia quyền lực là: có sự chuyên môn hóa của các công quyền, tức là mỗi cơ quan công quyền chỉ chuyên chú và thu hẹp hoạt động của mình vào việc thực hiện các chức năng riêng của mình, không xâm lấn sang các ngành , lĩnh vực hoạt động của các cơ quan khác. Mục đích của việc phân chia tách biệt này là tránh được sư chuyên quyền, lạm quyền, độc đoán trong việc thực hiện quyền lực nhà nước; đảm bảo được tự do, dân chủ. Điểm thứ ba, giữa các cơ quan nhà nước cấp cao thực hiện chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp tồn tại trong thế cân bằng quyền lực dưới sự tác động của một hệ thống kiềm chế và đối trọng. Cả ba loại quyền lực trên đều hoạt động trên cơ sở của luật pháp. Sự phân bố quyền lực nhà nước một mặt phải đảm bảo không có cơ quan nào nắm giữ hết quyền lực đồng thời cũng không có cơ quan nào nằm ngoài sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan khác. Như vậy, mối quan hệ giữa các cơ quan công quyền được thể hiện theo hai hướng: chủ yếu là kiềm chế, đối trọng nhau song cũng có sự phối hợp với nhau trong một số hoạt động nhất định. 1 Trên đây là nội dung tóm tắt cơ bản của nguyên tắc phân quyền được hiểu theo cách hiểu phổ biến nhất hiện nay, dựa trên tư tưởng của Montesqieu. Ngoài cách hiểu trên còn có nhiều cách hiểu khác tuy nhiên bài tiểu luận không đề cập đến. II, Sự vận dụng những hạt nhân hợp lí của nguyên tắc phân chia quyền lực nhà nước vào tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước Việt Nam hiện nay. 1. Hạt nhân hợp lí và tiêu chí để đánh giá hạt nhân hợp lí: Hạt nhân hợp lí là những điểm phù hợp với yêu cầu thực tiễn của việc tổ chức bộ máy nhà nước, đảm bảo hoạt động hiệu quả của bộ máy nhà nước. Đồng thời nó cũng là những điểm không mâu thuẫn với nguyên tắc tập trung thống nhất quyền lực– một nguyên tắc căn bản trong tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước ta, không mâu thuẫn với các nguyên tắc như: Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản đối với tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; đảm bảo tất cả quyền lực thuộc về tay nhân dân, pháp chế. Nếu đảm bảo được tất cả những tiêu chí đó thi được coi là một hạt nhân hợp lí. 2. Những hạt nhân hợp lí được vận dụng vào tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta hiện nay: Nhận thức được những hạt nhân hợp lí của nguyên tắc phân chia quyền lực, Nhà nước ta đã vận dụng linh hoạt vào bộ máy nhà nước. Những hạt nhân hợp lí được vận dụng đó là:  Quyền lực Nhà nước được chia thành 3 nhánh quyền lực: lập pháp, hành pháp và tư pháp do 3 cơ quan khác nhau đảm nhiệm.  Sự phân công, phân nhiệm rõ ràng, rành mạch giữa các cơ quan nhà nước Trung ương theo nghĩa phân công lao động quyền lực để đảm bảo sự độc lập tương đối trong hoạt động của mỗi cơ quan1.  Xác định cụ thể phạm vi thẩm quyền của từng loại, từng cấp cơ quan và tác động qua lại (sự phối hợp, kiềm chế) giữa các cơ quan ấy.2 Nhà nước ta đã khẳng định rõ: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp.” Như vậy, mặc dù không công nhận nguyên tắc phân chia quyền lực là một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước ta nhưng việc áp dụng những hạt nhân hợp lí của nguyên tắc này đã được khẳng định rõ. Và để tìm hiểu sự áp dụng những hạt nhân hợp lí này như thế nào trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta, chúng ta cùng xem xét thông qua các bản Hiến pháp, đặc biệt là Hiến pháp năm 1992. 3. Sự vận dụng cụ thể những hạt nhân hợp lí của nguyên tắc phân chia quyền lưc trong tổ chức và hoạt động trong bộ máy nhà nước ta hiện nay:  (1), (2): Theo cuốn: “Tư tưởng phân chia quyền lực và áp dụng trong bộ máy nhà nước ở một số nước.”, Nguyễn Thị Hồi, NXB Tư pháp, 2008. 1  2 2 Cùng với chặng đường phát triển của đất nước, những hạt nhân hợp lí của nguyên tắc phân chia quyền lực được thể hiện qua các bản Hiến pháp. Tuy nhiên với mỗi giai đoạn, mỗi bản Hiến pháp, những hạt nhân này thể hiện với một mức độ khác nhau. Em xin được tóm lược như sau: Trong bản Hiến pháp năm 1946, “nguyên tắc phân chia quyền lực”,“lập pháp”, “hành pháp” không hề được nhắc đến. Sự vận dụng hạt nhân hợp lí của nguyên tắc này trong bộ máy nhà nước còn rất hạn chế, chỉ ở mức độ mềm dẻo, hòa dịu. Trong bản Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, sự phân quyền biểu hiện ngày càng mờ nhạt do nước ta xây dựng bộ máy nhà nước theo mô hình Liên Xô cũ nên sự phân quyền rất hạn chế. Trải qua quá trình tồn tại và phát triển, thực tế cho thấy rằng: càng ngày hoạt động của nhà nước theo mô hình Liên Xô cũ càng làm cho bộ máy nhà nước thêm cồng kềnh và kém hiệu lực. Nếu không có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng thì các cơ quan nhà nước không thể hoạt động một cách có hiệu quả. Trước tình hình đó, do yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước và đổi mới nhận thức, nhà nước ta hiện nay đã vận dụng nhiều hơn những hạt nhân hợp lí của nguyên tắc phân chia quyền lực vào tổ chức và hoạt động, thể hiện rõ qua bản Hiến pháp năm 1992. Về tổ chức, quyền lực nhà nước được chia thành ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp, được giao cho ba cơ quan khác nhau đảm nhiệm. Cụ thể, Quốc Hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất nắm quyền lập pháp; Chính Phủ nắm quyền hành pháp và quyền tư pháp giao cho Tòa án và Viện kiểm sát. Mỗi cơ quan đều có các Uỷ ban, cơ quan cấp dưới phối hợp cùng thực hiện nhiệm vụ Trong hoạt động, sự áp sụng nguyên tắc phân quyền được thể hiện rõ trong ba khía cạnh sau. KHÍA CẠNH 1: Sự phân công, phân nhiệm rõ ràng giữa các cơ quan lập pháp hành pháp và tư pháp nhằm đảm bảo tính chuyên môn hóa, tránh sự lạm quyền, chồng chéo trong hoạt động. 1, Cơ quan lập pháp Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp, là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhà nước. Trong hiến pháp 1992, ngoài những quyền hạn và nhiệm vụ giống như Hiến pháp 1980, phạm vi quyền lực của Quốc hội được mở rộng hơn. Quốc hội không còn quyền tự định giao thêm cho cơ quan khác những quyền và nhiệm vụ nằm ngoài Hiến pháp, song lại được bổ sung thêm một số quyền như: Quy định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, quy định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, phân bổ ngân sách trung ương, quy định chính sách dân tộc của nhà nước và quy định việc trưng cầu ý dân…Trong Hiến pháp 1992 sửa đổi, quyền lực của Quốc hội cũng được tăng cường lên rất nhiều. Nếu như trước đây, trong thời gian Quốc hội không họp, Uỷ ban thường vụ Quốc hội có thể tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược và trình lên Quốc hộ trong kì họp gần nhất thì hiện tại, Uỷ ban thường vụ Quốc hội chỉ còn quyền đó khi Quôc hội không thể họp được. 2, Cơ quan hành pháp Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất của nước ta nên Chính phủ không còn được coi là một bộ phận của Quốc hội. Do vậy, cơ quan hành pháp có sự độc lập nhất định với cơ quan lập pháp khi thực hiện các hoạt động có tính chất hành pháp. Sự độc lập ấy còn 3 được củng cố thêm nhờ việc không cần có sự chung nhân viên giữa hai cơ quan này, vì trừ Thủ tướng thì các thành viên khác không nhất thiết là đại biểu của Quốc hội và những thành viên trong Uỷ ban thường vụ quốc hội( UBTVQH) cũng không thể đồng thời là thành viên của Chính Phủ. Như vậy, với đặc điểm này thì việc áp dụng nguyên tắc phân chia quyền lực đã thể hiện rõ: không những phân chia nhiệm vụ, lĩnh vực hoạt động khác nhau giữa các cơ quan mà về nhân sự- những người đảm nhiệm công việc cũng có sự độc lập nhất định. Ngoài những quyền hạn và nhiệm vụ tương tự như Hội đồng bộ trưởng trước đây, Chính phủ còn được bổ sung thêm một số quyền như: Tổ chức lãnh đạo công tác chống quan liêu, tham nhũng, công tác giải quyết khếu nại, tố cáo của công dân; đàm phán, kí kết, phê duyệt điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước trừ những điều ước thuộc thẩm quyền của Chủ tịch nước( theo Hiến pháp 1992 sửa đổi); bảo vệ lợi ích nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân Việt Nam ở nước ngoài. Sự đôc lập và quyền lực cả Thủ tướng cũng lớn hơn Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Thủ tướng có các quyền hạn như: lãnh đạo công tác của Chính phủ, các thành viên Chính phủ, chủ tọa các phiên họp của Chính phủ; ban hành các quy định, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành văn bản nào đó, đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những văn bản quy phạm pháp luật của các thành viên khác trong Chính phủ… Như vậy, Thủ tướng có vai trò rất quan trọng đối với nhân sự của Chính phủ. Đặc biệt trong Hiến pháp 1992, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến có quy định cụ thể nhiệm vụ và quyền hạn của Thủ tướng. Chế định Chủ tịch nước cá nhân được thiết lập lại nên Chủ tịch nước không còn được coi là một bộ phận của lập pháp như trong Hiến pháp năm 1980. Chủ tịch nước có quyền hành pháp song trên thực tế chỉ là hành pháp tượng trưng. Trong Hiến pháp 1992 quy định có sự phân tách giữa UBTVQH với Chủ tịch nước. Đây là điểm quan trọng nhất trong sự phân công, phân nhiệm rạch ròi giữa hai quyền lập pháp và hành pháp vì nó xóa bỏ sự kiêm nhiệm trong việc thực hiện quyền lực nhà nước. Chủ tịch nước có quyền phong hàm, cấp sĩ quan cấp cao trong lực lượng vũ trang nhân dân, hàm cấp ngoại giao và các hàm cấp Nhà nước khác. Theo Hiến pháp 1992 sửa đổi, Chủ tịch nước có quyền căn cứ vào Nghị quyết của UBTVQH ra lệnh tổng động viên, cục bộ và công bố tình trạng khẩn cấp. Trong trường hợp UBTVQH không thể họp thì chủ tịch nước mới có quyền ban bố tình trạng khẩn cấp ở trong cả nước hoặc từng địa phương.Chủ tịch nước còn được quy định một số quyền thuộc chức năng lập pháp, hành pháp, tư pháp song đó chỉ là các quyền mạng tính tượng trưng như: quyền công bố Hiến pháp, luật, pháp lênh, quy trình dự án luật của lập pháp, Thẩm phán tối cao của tư pháp; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng, thống lĩnh các lực lượng vũ trang. Do vậy, Chủ tịch nước đóng vai trò quan trọng trong mối quan hệ giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp. 3. Cơ quan tư pháp Tòa án: là cơ quan được phân công quyền xét xử. Sự độc lập của Tòa án không những thể hiện ở:” Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” mà còn bởi chế độ thẩm phán bổ nhiệm. Đây là quy định nhằm tăng cường tính độc lập cho Tòa án đồng thời thể hiện rõ sự vận dụng nguyên tắc phân quyền trong tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp. 4 Viện kiểm sát: Chức năng và nhiệm vụ của viện kiểm sát cơ bản giống hiến pháp 1980 tuy nhiên có một số sửa đổi. Nếu như trong Hiến pháp 1980, Viện kiểm sát có thẩm quyền rất lớn: có nhiệm vụ giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước từ cấp Bộ trở xuống và các Tòa án. Song hiện tại, để thực hiện chủ trương về phân công, phân nhiệm rõ ràng giữa các cơ quan trong nhà nước để tránh sự trùng lặp chồng chéo trong hoạt động kiểm tra giám sát của Quốc hội với cơ quan Thanh tra của Chính phủ với chức năng kiểm sát của Viện kiểm sát, cũng như tăng cường cơ chế tự kiểm tra trong nội bộ các cơ quan nên Hiến pháp bổ sung đã xóa bỏ chức năng kiểm tra chung chủa Viện kiểm sát. KHÍA CẠNH 2: Giữa các cơ quan có sự phối hợp hoạt động nhằm đảm bảo tính thống nhất quyền lực nhà nước. 1. Cơ quan hành pháp, tư pháp phối hợp với lập pháp trong một số hoạt động như: có thẩm quyền trình dự án luật, pháp lệnh của Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Chính phủ có quyền hướng dẫn cho Hội đồng nhân dân trong việc thực hiện pháp luật, Hiến pháp, Nghị quyết của Quốc hội…kiểm tra tính hợp pháp của các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân đề ra. (theo khoản 1. điều 7, luật tổ chức Chính phủ). 2. Cơ quan lập pháp, tư pháp phối hợp với hành pháp như: Quốc hội có quyền quyết định kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước, quy định chính sách tài chính, bổ nhiệm, miễn nhiêm, cách chức Thủ tướng; phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng…(điều 2, luật tổ chức Quốc hội 2001). 3. Cơ quan lập pháp, hành pháp phối hợp với tư pháp như: Quyền đại xá của Quốc hội, quyền giải thích pháp luật, Hiến pháp dành cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội, quyền quản lí công tác công chứng, luật sư, giám định tư pháp, thi hành án được giao cho Chính phủ(Đ.18, luật tổ chức Chính phủ). KHÍA CẠNH 3: Giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp tư pháp có sự giám sát, kiềm chế hoạt động của nhau nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nước. 1. Sự giám sát, kiềm chế hoạt động của cơ quan lập pháp với hành pháp, tư pháp:  Quốc hội có quyền tham gia vào việc thành lập các cơ quan nhà nước khác như: bầu nhiệm, miễn nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức phó thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ.  Quốc hội có khả năng kiềm chế hoạt động của cơ quan nhà nước khác thông qua quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước, quyền bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, và Viện kiểm sát nhân dân tối cao nếu trái với Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội…  Quốc hội có quyền phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế đã kí kết hoặc tham gia theo đề nghị của Chủ tịch nước; phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về việc thành lập Hội đồng quốc phòng an ninh, phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng , Bộ trưởng, và các thành viên khác của Quốc hội. 5  Điều 84 đã được sửa đổi theo hướng tăng thêm sự độc lập và trách nhiệm của hành pháp, tư pháp trước lập pháp và sự giám sát của lập pháp với hành pháp:’’ Quốc hội có quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội bầu và phê chuẩn, và người nào bị Quốc hội bất tín nhiệm sẽ bị miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc cách chức”.  Vai trò kiềm chế các cơ quan khác của Quốc Hội còn được thực hiện thông qua Uỷ ban thường vụ Quốc hội, qua việc ràng buộc các cơ quan khác như: Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội, phải trả lời chất vấn của các đại biểu Quốc hội. 2. Sự giám sát, kiềm chế của cơ quan hành pháp đối với lập pháp và tư pháp:  Chủ tịch nước có quền đề nghị Quốc hội bầu nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.  Chủ tịch nước có khả năng giám sát Uỷ ban thường vụ quốc hội thông qua quyền đề nghị cơ quan này xem xét lại pháp lệnh. sự đề nghị này chỉ được trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày pháp lệnh được thông qua. Nếu pháp lệnh đó vẫn được UBTVQH biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không đồng ý thì Chủ tịch nước trình lên Quốc hội trong kì họp gần nhất.  Chủ tịch nước có quyền đề nghị về ciệc thành lập Hội đồng quốc phòng an ninh và đề nghị cụ thể danh sách thành viên để Quốc hôi phê chuẩn.  Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ quốc hội, của Chính phủ. Chính phủ phải báo cáo công tác trước Chủ tịch nước; Chánh án tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo trước Chủ tịch nước trong thời gian Quốc hội không họp.  Chủ tịch nước và Thủ tướng lại có quyền yêu cầu ủy ban thường vụ Quốc hội triệu tập họp Quốc hội bất thường… 3.Sự giám sát kiềm chế của cơ quan tư pháp với cơ quan lập pháp và hành pháp:  Truy tố các thành viên của cơ quan này khi họ phạm tội; Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao có thể bắt giam, truy tố, khám xét nơi ở và làm việc của đại biểu Quốc hội nếu có sự đồng ý của Quốc hội và Uỷ ban thường vụ quốc hội. Khi đó, Tòa án có quyền xét xử những người này và nếu họ bị kết án thì đương nhiên mất quyền đại biểu quốc hội kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. III: Một số vấn đề về việc áp dụng hạt nhân tiêu biểu trong thực hiện quyền lực nhà nước: 1, Một số hạn chế cần khắc phục: Thực tế ở nước ta hiện nay, việc áp dụng nguyên tắc phân chia quyền lực dù đã có nhứng bước tiến rõ rệt song không thể tránh khỏi những hạn chế. Việc phân công chưa rõ ràng giữa các cơ quan dẫn đến sự thiếu chuyên môn, chồng chéo về thẩm quyền. Bên cạnh đó, chúng ta cũng chưa thiết lập hiệu quả cơ chế kiểm soát quyền lực từ ngay bên trong bộ máy nhà nước. Quyền lực tập trung nhưng không 6 được kiểm soát hiệu quả dẫn đến tình trạng có nơi người dân ủy quyền nhưng bị mất quyền, các quyền tự do bị bó hẹp trên một số lĩnh vực và quyền dân chủ chỉ còn mang tính hình thức. Hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội còn hình thức chưa thực sự là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Hệ thống cơ quan thanh tra, kiểm tra tuy khá đầy đủ nhưng chưa phát huy được hết vai trò cảu mình, khả năng phát hiện tham những, tiêu cực thấp. Cơ quan tư pháp còn thiếu độc lập, khách quan, công bằng, chưa thực sự là cán cân công lí trong bảo vệ pháp luật và quyền lợi của người dân. Như vậy chúng ta cần khắc phục những hạn chế nêu trên,có các biện pháp hợp lí nhằm tăng cường quyền lực cho các cơ quan nhà nước; vừa có sự phân công, phối hợp, kiểm soát hợp lí giữa các cơ quan với nhau, vừa đảm bảo được tính thống nhất quyền lực nhà nước. 2. Ý nghĩa của việc áp dụng hạt nhân hợp lí trong hoạt động và tổ chức bộ máy nhà nước ta Trong thời gian qua, chúng ta không thể phủ nhận vai trò của nguyên tắc phân chia quyền lực. Việc áp dụng hạt nhân tiêu biểu của nguyên tắc phân chia quyền lực vào bộ máy nhà nước ta thể hiện sự đổi mới về nhận thức và hoạt động của Đảng, nhằm xây dựng bộ máy nhà nước chuyên nghiệp, dân chủ, tiến tới xã hội công bằng, dân chủ, văn minh . KẾT LUẬN Mặc dù không công nhận là một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động nhưng việc áp dụng những hạt nhân hợp lí của nguyên tắc phân chia quyền lực đã khẳng định sự đổi mới nhận thức của Đảng. Tuy vậy để đáp ứng mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền, tư tưởng này cầ được tiếp tục nghiên cứu và có sự vận dụng rõ rêt, phù hợp hơn nữa trong bộ máy nhà nước ta. 7
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất