TÍCH CỰC HOÁ HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC CỦA HỌC SINH TRONG DẠY
HỌC VẬT LÝ
20:22, 24/12/2008
Khi bàn về phương pháp giáo dục J.Piaget đã rất nhấn mạnh đến vai trò hoạt động
của học sinh. Ông nói: “ Trẻ em được phú cho tính hoạt động thực sự và giáo dục
không thể thành công nếu không sử dụng và không thực sự kéo dài tính hoạt động đó”
Như vậy có thể nói sự hoạt động của trẻ trong quá trình giáo dục và giáo dưỡng là yếu tố
không thể thiếu được và theo chúng tôi để kéo dài hoạt động đó thì việc tích cực hoá được coi
là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất. Điều này cũng cần phải được quán triệt trong
tiến trình khắc phục quan niệm của học sinh trong dạy học vật lý. 1. Dạy học và phát triển
Mục đích của dạy học là đem đến sự phát triển toàn diện cho học sinh. Điều đó nói
lên rằng giữa dạy học và phát triển có mối quan hệ với nhau. Đó là mối quan hệ hai chiều,
biện chứng: Trước hết phát triển là mục đích cuối cùng của hoạt động dạy học, đồng thời khi
tư duy học sinh phát triển thì việc thu nhận và vận dụng kiến thức của học sinh sẽ nhanh
chóng và hiệu quả hơn, quá trình dạy học diễn ra một cách thuận lợi hơn. Nghĩa là sự hoạt
động và trí tuệ của con người có mối quan hệ mật thiết với nhau. Không có hoạt động thì trí
tuệ không thể phát triển tốt được, Bỡi vì “Trí tuệ có bản chất hoạt động , không phải cái gì
“nhất thành bất biến” trí tuệ được hình thành dần trong mỗi hoạt động cá nhân”.
Nhìn chung dạy học bằng cách này hay cách khác đều có thể góp phần phát triển học
sinh, nhưng dạy học được coi là đúng đắn nhất nêu nó đem lại sự phát triển tốt nhất cho người
học. Theo Vưgôtxki thì: “Dạy học được coi là tốt nhất nếu nó đi trước sự phát triển và kéo
theo sự phát triển”. Cơ sở của quan điểm này là lý thuyết “vùng phát triển gần nhất” do ông
đề xướng . Lý luận dạy học đã chỉ ra rằng: “Dạy học phải có tác dụng thức đẩy sự phát triển
trí tuệ của người học”. Một mặt trí tuệ của học sinh chỉ có thể phát triển tốt trong quá trình
dạy học khi thầy giáo phát huy tốt vai trò của người tổ chức, điều khiển làm giảm nhẹ khó
khăn cho học sinh trong quá trình nhận thức, biết cách khuyến khích học sinh tham gia vào
hoạt động nhận thức tích cực trong dạy học. Mặt khác đối với học sinh để phát triển trí tuệ
của mình không có cách nào khác là phải tự mình hành động, hành động một cách tích cực và
tự giác. Đó chính là bản chất của của mối quan hệ biện chứng giữa dạy và họ, giữa hoạt động
và phát triển.
Thông qua hoạt động trí tuệ học sinh phát triển dần từng bước từ thấp đến cao. Bỡi
vậy các biện pháp giáo dục của thầy cũng phải thay đổi cho phù hợp với từng bậc thang của
sự phát triển. Theo lý thuyết của Vưgốtxki thì trình độ ban đầu của học sinh tương ứng với
“vùng phát triển hiện tại”. Trình độ này cho phép học sinh có thể thu được những kiến thức
gần giũ nhất với kiến thức cũ để đạt được trình độ mới cao hơn. Vưgôtxki gọi đó là “vùng
phát triển gần nhất”. Khi học sinh đạt tới vùng phát triển gần nhất nghĩa là các em đang ở
“vùng phát triển hiện tại” nhưng ở trình độ mới cao hơn. Sau đó thầy giáo lại tiếp tục tổ chức
và giúp đỡ học sinh đưa học sinh tới “vùng phát triển gần nhất” mới để sau đó nó lại trở về
“vùng phát triển hiện tại”. Cứ tiếp tục như vậy sự phát triển của học sinh đi từ nấc thang này
đến nấc thang khác cao hơn.
Vưgôtxki chỉ ra rằng ở những trẻ em khác nhau có vùng phát triển gần nhất khác
nhau, nó phụ thuộc rất nhiều vào trình độ và năng lực của thầy giáo, đặt biệt phụ thuộc vào
nhiệm vụ học tập trước học sinh thông qua nghệ thuật đưa ra các “câu hỏi nêu vấn đề” và
“các câu hỏi gợi ý”. Thừa nhận lý thuyết “vùng phát triển gần nhất” của Vưgôtxki cũng có
nghĩa phải tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh. Vì thế có thể nói tích cực hoá hoạt
đông nhận thức của học sinh là một biện pháp không thể thiếu được trong dạy học theo quan
điểm: “Dạy học là phát triển”. Bỡi một sự gợi ý khéo léo có tính chất gợi mở của giáo viên sẽ
có tác dụng kích thích tính tự lực và tư duy sáng tạo của học sinh, lôi kéo họ chủ động tham
gia vào quá trình dạy học một cách tích cực, tự giác. J. Piaget đã kết luận: “Người ta không
học được gì hết, nếu không phải trải qua sự chiếm lĩnh bằng hoạt động, rằng học sinh phải
phát minh lại khoa học, thay vì nhắc lại những công thức bằng lời của nó”.
2. Tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh
Tích cực hoá là một hoạt động nhằm làm chuyển biến vị trí của người học từ thụ động
sang chủ động, từ đối tượng tiếp nhận tri thức sang chủ thể tìm kiếm tri thức để nâng cao hiệu
quả học tập.
Tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh là một trong những nhiệm vụ của thầy
giáo trong nhà trường và cũng là một trong những biện pháp nâng cao chất lượng dạy học.
Tuy không phải là vấn đề mới, nhưng trong xu hướng đổi mới dạy học hiện nay thì việc tích
cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh là một vấn đề được đặc biệt quan tâm. Nhiều nhà
vật lý học trên thế giới đang hướng tới việc tìm kiếm con đường tối ưu nhằm tích cực hoá
hoạt động nhận thức của học sinh, nhiều công trình luận án tiến sĩ cũng đã và đang đề cập đến
lĩnh vực này. Tất cả đều hướng tới việc thay đổi vai trò người dạy và người học nhằm nâng
cao hiệu quả của quá trình dạy học nhằm đáp ứng được yêu cầu dạy học trong giai đoạn phát
triển mới. Trong đó học sinh chuyển từ vai trò là người thu nhận thông tin sang vai trò chủ
động, tích cực tham gia tìm kiếm kiến thức. Còn thầy giáo chuyển từ người truyền thông tin
sang vai trò người tổ chức, hướng dẫn, giúp đỡ để học sinh tự mình khám phá kiến thức mới.
Quá trình tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh sẽ góp phần làm cho mối
quan hệ giữa dạy và học, giữa thầy và trò ngày càng gắn bó và hiệu quả hơn. Tích cực hoá
vừa là biện pháp thực hiện nhiệm vụ dạy học, đồng thời nó góp phần rèn luyện cho học sinh
những phẩm chất của người lao động mới: tự chủ, năng động, sáng tạo. Đó là một trong
những mục tiêu mà nhà trường phải hướng tới.
Tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh là biện pháp phát hiện những quan
niệm sai lệch của học sinh qua đó thầy giáo có biện pháp để khắc phục những quan niệm đó.
Vì thế việc khắc phục những quan niệm của học sinh có vai trò quan trọng trong nhà trường
nhằm tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh.
3. Các biện pháp tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh
Tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh có liên quan đến nhiều vấn đề, trong
đó các yếu tố như động cơ, hứng thú học tập, năng lực, ý chí của cá nhân, không khí dạy
học………. đóng vai trò rất quan trọng. Các yếu tố liên quan chặt chẽ với nhau và có ảnh
hưởng tới việc tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh trong học tập. Trong đó có
nhiều yếu tố là kết quả của một quá trình hình thành lâu dài và thường xuyên, không phải là
kết quả của một giờ học mà là kết quả của cả một giai đoạn, là kết quả của sự phối hợp nhiều
người, nhiều lĩnh vực và cả xã hội.
Để có thể tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh trong quá trình học tập
chúng ta cần phải chú ý đến một số biện pháp chẳng hạn như: Tạo ra và duy trì không khí dạy
học trong lớp; xây dựng động cơ hứng thú học tập cho học sinh; giải phóng sự lo sợ học
sinh…… Bỡi chúng ta không thể tích cực hoá trong khi học sinh vẫn mang tâm lý lo sợ, khi
các em không có động cơ và hứng thú học tập và đặt biệt là thiếu không khí dạy học. Do đó
với vai trò cuả mình, thầy giáo phải là người góp phần quan trọng trong việc taọ ra những
điều kiện tốt nhất để cho học sinh học tập, rèn luyện và phát triển. Sau đây chúng ta đi vào
một số biện pháp cụ thể:
-Tạo ra và duy trì không khí dạy học trong lớp nhằm tạo ra môi trường thuận lợi cho
việc học tập và phát triển của trẻ.
Trong môi trường đó học sinh dễ dàng bộc lộ những hiểu biết của mình và sẵn sàng
tham gia tích cực vào quá trình dạy học, vì khi đó tâm lý các em rất thoải mái.
-
Khởi động tư duy gây hứng thú học tập cho học sinh.
Trước mỗi tiết học tư duy của học sinh ở trạng thái nghỉ ngơi. Vì vậy, Trước hết thầy
giáo phải tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh ngay từ khâu đề xuất vấn đề học tập
nhằm vạch ra trước mắt học sinh lý do của việc học và giúp các em xác định được nhiệm vụ
học tập. Đây là bước khởi động tư duy nhằm đưa học sinh vào trạng thái sẵn sàng học tập, lôi
kéo học sinh vào khong khí dạy học. Khởi động tư duy chỉ là bước mở đầu, điều quan trọng
hơn là lphải tạo ra và duy trì không khí dạy học trong suốt giờ học. Học sinh càng hứng thú
học tập bao nhiêu, thì việc thu nhận kiến thức của cacs em càng chủ động tích cức bấy nhiêu.
Muốn vậy cần phải chú ý đến việc tạo các tình huống có vấn đề nhằm gây sự xung đột tâm lý
của học sinh. Điêu này rất cần thiết và cũng rất khó khăn, nó đòi hỏi sự cố gắn, nổ lực và
năng lực sư phạm của thầy giáo. Ngoài ra cũng cần chú ý tới lôgic của bài giảng. Một bài
giảng gồm các mắt xích nối với nhau chặt chẽ , phần trước là tiền đề cho việc nghiên cứu
phần sau, phần sau bbổ xung làm rõ phần trước. Có như vậy thì nhịp độ hoạt động, hứng thú
học tập và quá trình nhận thức của học sinh mới tiến triển theo một mạch liên tục không bị
ngắt quãng.
Khai thác và phối hợp các phương pháp dạy học một cách có hiệu quả, đặc biệt chú
trọng tới các phương pháp dạy học tích cực. Việc tích cực hoá hoạt động nhận thức của học
sinh phụ thuộc rất nhiều vào việc tổ chức và điều khiển quá trình dạy học của thầy giáo. Bỡi
vậy, trong tiến trình dạy học, thầy giáo cần phải lựa chọn và sử dụng các phương pháp dạy
học hiệu quả, đặc biệt là các phương pháp dạy học tích cực như: Phương pháp nêu vấn đề;
Phương pháp phát triển hệ thống câu hỏi; Phương pháp thực nghiệm………. có như vậy mới
khuyến khích tính tích cực sáng tạo của học sinh trong học tập.
Tổ chức cho học sinh hoạt động. Thầy giáo và học sinh là những chủ thể của quá
trình dạy họ, vì thế tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh phải do chính những chủ đề
này quyết định. Trong việc xác định rõ vai trò, nhiệm vụ của từng chủ thể có ý nghĩa rất quan
trọng, nó giúp cho chủ thể định hướng hoạt động của mình. Trong giờ học thầy giáo không
được làm thay học sinh, mà phải đóng vai trò là người tổ chức quá trình học tập của học sinh,
hướng dẫn học sinh đi tìm kiếm kiến thức mới. Còn học sinh phải chuyển từ vai trò thụ động
sang chủ động tham gia tích cực và sáng tạo vào quá trình học tập tánh tình trạng ngồi chờ và
ghi chép một cách máy móc. Muốn vậy, cần phải tăng cường hơn nữa việc tổ chức cho học
sinh thảo luận và làm việc theo nhóm.
Trương Đình Hùng, tổ Lý-KTCN
- Xem thêm -