BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
..………. ………….
VŨ LÂM CÔNG
TỶ GIÁ THỰC HIỆU LỰC TÍNH THEO
GIÁ TRỊ GIA TĂNG TẠI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
..………. ………….
VŨ LÂM CÔNG
TỶ GIÁ THỰC HIỆU LỰC TÍNH THEO
GIÁ TRỊ GIA TĂNG TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành : Tài chính – Ngân hàng
Mã số
: 60340201
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PSG.TS. TRẦN THỊ THÙY LINH
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Tỷ giá thực hiệu lực tính theo giá trị gia tăng tại
Việt Nam” là công trình nghiên cứu của chính tác giả, nội dung được đúc kết
từ quá trình học tập và các kết quả nghiên cứu thực tiễn trong thời gian qua,
số liệu được sử dụng là trung thực và có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng. Luận
văn được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của GS.TS Trần Ngọc Thơ
và PGS.TS Trần Thị Thùy Linh.
Tác giả luận văn
VŨ LÂM CÔNG
Mục lục
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng và hình
Danh mục các từ viết tắt
Tóm lược
Giới thiệu .......................................................................................................... 1
1. Tổng quan về các nghiên cứu trước đây ....................................................... 4
2. Phương pháp nghiên cứu và dữ liệu nghiên cứu ........................................... 8
2.1 Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 8
2.1.1 Tỷ giá hối đoái................................................................................. 8
2.1.2 Giá trị gia tăng thương mại ............................................................ 15
2.1.3 Tỷ giá thực hiệu lực tính theo giá trị gia tăng................................. 30
2.1.4 Sự khác nhau giữa giá tỷ giá thực hiệu lực tính theo giá trị gia tăng
và tỷ giá thực hiệu lực ............................................................................. 33
2.2 Dữ liệu nghiên cứu ................................................................................ 38
3. Kết quả nghiên cứu .................................................................................... 41
4. Kết luận, hạn chế và hướng nghiên cứu thiếp theo ..................................... 45
4.1 Kết luận ................................................................................................. 45
4.2 Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo ................................................. 47
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 48
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 50
Phụ lục 1: Chỉ số VAREER và REER cho VN từ 1996 – 2009 ................... 50
Phụ lục 2: Chỉ số CPI và YDFL cho VN từ 1996 – 2009............................. 51
Phụ lục 3: Chỉ số YDFL cho các nước từ 1996 – 2009 ................................ 52
Phụ lục 4: Trọng số giá trị gia tăng và trọng số thương mại song phương
cho VN từ 1996 - 2009 ................................................................................ 61
Phụ lục 5 Bảng trọng số song phương hàng năm của VN với các nước trên
thế giới từ 1996 - 2009 ................................................................................ 62
DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ HÌNH
Hình 2.1: Thương mại thông thường
Hình 2.2: Thương mại theo chiều dọc và giá trị gia tăng thương mại
Bảng 3.1: Tỷ giá thực hiệu lực tính theo giá trị gia tăng VN từ 1996 – 2009
Bảng 3.2: Tỷ giá thực hiệu lực tính theo giá trị gia tăng, tỷ giá thực hiệu lực
của VN từ 1996 – 2009.
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
GPD: Tổng sản phẩm nội địa - Gross Domestic Product
IMF: Quỹ tiền tệ quốc tế ( International Monetary Fund)
OECD: Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (Organization for Economic Cooperation and Development)
REER: Tỷ giá thực song phương, Tỷ giá thực hiệu lực – Real effective
exchange rates
TQ: Trung Quốc
YDFL: Chỉ số giảm phát GDP – GDP Deflator
VAREER: Tỷ giá thực hiệu lực tính theo giá trị gia tăng – Value – added real
effective exchange rates
VN: Việt Nam
Tóm lược
Bài nghiên cứu xây dựng một cách đo lường mới cho tỷ giá thực hiệu lực
(REER), chỉ số tỷ giá thực hiệu lực tính theo giá trị gia tăng (VAREER). Chỉ
số VAREER bổ sung cho chỉ số REER trong đo lường sức cạnh tranh của
quốc gia khi hàng hóa không chỉ được sản xuất hoàn toàn tại một quốc gia mà
được sản xuất từ nhiều quốc gia khác nhau. Chỉ số VAREER được tính toán
dựa trên hai thành phần là trọng số giá trị gia tăng thương mại và chỉ số giảm
phát GDP. Trong trường hợp VN, chỉ số VAREER trong giai đoạn 1996 –
2009 là 0,197, cao hơn trung bình 13% so với chỉ số REER.
Từ khóa: Giá trị gia tăng thương mại, tỷ giá thực hiệu lực tính theo giá trị gia
tăng, tỷ giá thực hiệu lực.
1
Giới thiệu
Tỷ giá hối đoái luôn được xem là một trong những biến số kinh tế vĩ
mô quan trọng của nền kinh tế. Tỷ giá hối đoái đo lường giá trị của một
đồng tiền trên một đơn vị đồng tiền khác. Tỷ giá thể hiện giá tương đối
giữa hàng hóa sản xuất trong nước và hàng hóa trên thị trường thế giới. Là
một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động
xuất nhập khẩu của quốc gia.
Tỷ giá thực hiệu lực (REER) là tỷ giá danh nghĩa đã được điều chỉnh
theo lạm phát trong nước và lạm phát nước ngoài, có tính đến trọng số
thương mại giữa các quốc gia. REER là một chỉ số, được thiết kế để đo
lường tác động của sự thay đổi giá lên cầu cho sản phẩm của mỗi quốc gia.
Chỉ số REER được ứng dụng rộng rãi, và thường được sử dụng để đánh giá
sức cạnh tranh hàng hóa xuất khẩu của quốc gia, trạng thái của cán cân
thương mại và cán cân thanh toán quốc tế, hay đo lường sự mất cân bằng
của tỷ giá hối đoái danh nghĩa.
Mặc dù có ứng dụng rộng rãi, nhưng chỉ số REER hiện tại không còn
phù hợp cho sự phân tích sức cạnh tranh của một quốc gia trong trường
hợp mà hàng hóa xuất khẩu của quốc gia được tạo ra bởi hàng hóa sự kết
hợp giữa hàng hóa trong nước và hàng nhập khẩu, hay đầu vào của hàng
xuất khẩu là hàng nhập khẩu. Chỉ số REER dựa vào những nền tảng lý
thuyết được cung cấp bởi Armington (1969). Trong hệ thống này, mỗi sản
phẩm của quốc gia khác nhau cạnh tranh với các sản phẩm từ các quốc gia
khác ở các thị trường bên ngoài. Công thức tính REER dựa trên định nghĩa
tổng sản lượng sản xuất của mỗi quốc gia và quốc gia xuất khẩu sản phẩm
mà quốc gia đó sản xuất, nói rõ hơn là những sản phẩm mà quốc gia đó sản
xuất thì hoàn toàn được sản xuất nội địa. Nhưng trong kinh tế toàn cầu hiện
2
nay, hàng hóa nhập khẩu được sử dụng để sản xuất hàng xuất khẩu, chứ
không phải quốc gia đó sản xuất sản phẩm 100% từ nội địa. Đây chính là
điểm làm cho chỉ số REER không còn phù hợp khi phân tích sức cạnh tranh
nữa.
Để làm rõ hơn, hãy xem xét ví dụ của việc sản xuất hàng may mặc
của VN. Phương pháp Armington sẽ phân loại sản phẩm may mặc như là
sản phẩm của VN, và cho rằng VN sẽ cạnh tranh với các nhà cung cấp sản
phẩm may mặc ở thị trường nước ngoài. Theo định nghĩa này, giá của sản
phẩm may mặc của VN tăng lên sẽ hàm ý rằng sức cạnh tranh của VN sẽ
giảm xuống. Tuy nhiên, trong thực tế sản phẩm may mặc của VN có đầu
vào được nhập khẩu lên đến 80% (Bộ công thương). Mặt khác, VN là điểm
cuối trong dây chuyền sản xuất hàng may mặc chứ không phải sản phẩm
may mặc được hoàn toàn sản xuất 100% tại VN. Theo đó, VN sẽ cạnh
tranh với các nước quốc gia có thể là điểm gia công hàng may mặc như
Pakistan, Indonesia, … chứ không phải cạnh tranh với các nhà cung cấp
hàng may mặc trên thế giới. Do đó, phải chăng chúng ta nên định nghĩa lại
sản phẩm xuất khẩu của VN như là một phân đoạn của giá trị gia tăng được
sản xuất tại VN hơn là hoàn toàn được sản xuất tại VN?
Với sự mở rộng của chuỗi sản xuất toàn cầu, mỗi quốc gia chuyên
môn hóa trong giá trị gia tăng tại một điểm nào đó của quá trình sản xuất
hơn là sản xuất hoàn hoàn sản phẩm. Mỗi quốc gia cạnh tranh thông qua sự
cung cấp giá trị gia tăng đối với các thị trường bên ngoài, không phải là
cạnh tranh các hàng hóa cuối cùng hoặc là tổng sản phẩm xuất khẩu. Do
đó, chỉ số đo lường sức cạnh tranh REER không còn phù hợp nữa.
Trong bài nghiên cứu này, tác giả sẽ giới thiệu về giá trị gia tăng
thương mại, là phần giá trị gia tăng của quốc gia trong sản phẩm xuất khẩu
3
và chỉ số “tỷ giá thực hiệu lực tính theo giá trị gia tăng – VAREER”. Chỉ
số VAREER là chỉ số dựa trên giá trị gia tăng thương mại và sẽ khắc phục
những hạn chế của chỉ số REER trong việc đo lường sức cạnh tranh. Đồng
thời tính toán và so sánh chỉ số VAREER với chỉ số REER cho Việt Nam.
4
1. Tổng quan về các nghiên cứu trước đây
Qua tìm hiểu thì trong thời gian qua đã có một số nghiên cứu có liên quan
đến giá trị gia tăng thương mại và tỷ giá thực hiệu lực như sau:
Các tài liệu tiếng Anh
- Hummels-Ishii-Yi (2001) đưa ra khái niệm về chuyên môn hóa chiều dọc
(vertical specialization – sản phẩm được sản xuất từ nhiều quốc gia khác
nhau, và mỗi quốc gia chuyên môn hóa trong một bước cụ thể của quy
trình sản xuất sản phẩm). Tập trung vào khái niệm hẹp hơn của chuyên
môn hóa theo chiều dọc là hàng hóa được nhập khẩu để làm đầu vào cho
sản xuất hàng hóa xuất khẩu. Trong đó, quy trình sản xuất sản phẩm thì
cần ít nhất hai quốc gia, và trong quá trình sản xuất sản phẩm thì các sản
phẩm phải được chuyển giao giữa các quốc gia này. Tác giả nhấn mạnh
rằng, trong quá trình chuyển giao “tới – lui” hàng hóa giữa các quốc gia
làm cho đo lường thương mại quốc tế không còn phản ánh đúng nữa.
Chẳng hạn, Nhật Bản xuất khẩu phôi thép sang Mexico, sau đó thép được
gia công, ép, đóng dấu và xuất khẩu sang Mỹ. Thương mại quốc tế, theo
đó sẽ ghi nhận xuất khẩu thép từ Mexico sang Mỹ (thực chất phần xuất
khẩu của Mexico là rất thấp vì đã nhập phôi thép từ Nhật Bản), đồng thời
ghi nhận thép xuất khẩu từ Nhật Bản sang Mexico. Dựa trên khái niệm về
thương mại theo chiều dọc, các tác giả đã tính toán đo lường giá trị của
đầu vào xuất khẩu hàm chứa trong giá trị hàng xuất khẩu. Với dữ liệu
tính toán chủ yếu là bảng đầu vào – đầu ra (input – output) về đầu vào
nhập khẩu, tổng sản phẩm đầu ra và xuất khẩu. Tác giả sử dụng dữ liệu
đầu vào – đầu ra của OECD, của 14 quốc gia (10 nước OECD, Ireland,
Korea, Taiwan và Mexico). Kết quả, tỷ lệ sản phẩm đầu vào nhập khẩu
5
trong hàng hóa xuất khẩu năm 1990 trung bình là 0,21, tăng 30% so với
năm 1970 là 0,165.
- Belke và Wang (2005), lý luận về độ mở thương mại giữa các quốc gia
trong cùng một khu vực, từ đó đề xuất sử dụng về giá trị gia tăng thương
mại thay cho tổng giá trị thương mại trong đo lường thương mại quốc tế.
Trong bài nghiên cứu, tác giả cho rằng mức độ mở cửa thương mại có
ảnh hưởng đến quan hệ thương mại quốc tế. Độ mở cửa thương mại càng
lớn thì sự kết nối giữa thị trường trong nước và thị trường nước ngoài
chặt chẽ hơn. Khi đó, sản phẩm được sản xuất sẽ được sản xuất và tiêu
dùng trong nước và nước ngoài. Đo lường thương mại giữa các nước sẽ
không còn đúng, vượt giá giá trị mà mỗi quốc gia sản xuất ra. Nếu hàng
hóa xuất khẩu được sản xuất có đầu vào nhập khẩu, thì khi sản phẩm
được hoàn tất và mang ra xuất khẩu thì thu nhập từ xuất khẩu hàng hóa
đó mang lại không những cho quốc gia cho quốc gia xuất khẩu hàng hóa
mà còn bao hàm cả thu nhập của quốc gia cung cấp sản phẩm đầu vào để
sản xuất hàng hóa đó. Kết quả của nghiên cứu cho thấy, độ mở của nền
kinh tế càng cao, thì phần đóng góp nội địa cho sản phẩm xuất khẩu càng
nhỏ. Từ đó, tác giả đề xuất sử dụng giá trị gia tăng thay cho tổng thương
mại để đo lường thương mại giữa các quốc gia.
- Daudin, Rifflart, và Schweisguth (2008) đưa ra khái niệm và cách thức
đo lường giá trị gia tăng thương mại (value – added trade). So sánh giá trị
gia tăng thương mại và thương mại thông thường. Khái niệm giá trị gia
tăng thương mại dựa vào khái niệm chuyên môn hóa thương mại theo
chiều dọc. Giá trị gia tăng thương mại đo lường thương mại ròng của
thương mại theo chiều dọc. Giá trị gia tăng được tạo ra ở các giai đoạn
6
khác nhau của quá trình sản xuất ở mỗi quốc gia và ngành công nghiệp.
Tác giả sử dụng dụng dữ liệu của GTAP và dữ liệu đầu vào – đầu ra của
66 vùng lãnh thổ, 55 lĩnh vực sản xuất từ năm 1997 đến năm 2001. Kết
quả cho thấy, năm 2001 thì 26% giá trị thương mại quốc tế là thương mại
theo chiều dọc (năm 1997 là 25%). Kết quả cũng trình bày chi tiết giá trị
gia tăng thương mại cho 55 lĩnh vực sản xuất. Trong đó, ngành dịch vụ
có tỷ trọng trên giá trị gia tăng thương mại lớn hơn nhiều khi so với tỷ
trọng của ngành này trên giá trị thương mại thông thường.
- Sébastien Miroudo, Rainer Lanz và Alexandros Ragoussis (2009) nghiên
cứu dòng thương mại của hàng hóa và dịch vụ trung gian giữa các nước
OECD và giữa các nước OECD với các đối tác thương mại lớn từn năm
1995 – 2005. Để đo lường thương mại hàng trung gian, có 2 phương pháp
có thể sử dụng: thứ nhất là dựa trên sự phân tích dòng thương mại, phân
chi sản phẩm theo mục đích sử dụng của chúng. Cách thứ hai là dựa trên
dữ liệu đầu vào – đầu ra, cung cấp trực tiếp bảng nhập khẩu hàng hóa
nước ngoài được sử dụng để sản xuất hàng hóa và dịch vụ trong nước.
Bài nghiên cứu sử dụng cách kết hợp cả hai phương pháp để tính toán.
Kết quả cho thấy, thương mại của hàng hóa và dịch vụ trung gian chiếm
lần lượt 56% - 73% trên tổng thương mại thông thường. Với sự gia tăng
của chuyên môn hóa sản xuất giữa các quốc gia, thương mại hàng hóa
dịch vụ trung gian làm đầu vào cho sản xuất tăng hàng năm 6,2% cho
hàng hóa và 7% cho dịch vụ từ năm 1995 – 2006. Khi so sánh với thương
mại hàng hóa và dịch vụ cuối cùng, thì hàng nhập khẩu trung gian nhạy
cảm với chi phí thương mại hơn hàng hóa dịch vụ cuối cùng. Bên cạnh
đó, nghiên cứu cũng cho thấy hoạt động của các công ty đa quốc gia làm
cho dòng thương mại cho hàng hóa trung gian cao hơn, làm tăng tỷ lệ
7
hàng hóa nước ngoài trên hàng hóa trong nước trong đầu vào sản xuất.
Nếu đầu vào sản xuất có tỷ lệ nhập khẩu cao thì dẫn tới hiệu quả sản xuất
của các ngành công nghiệp trong nước kém hiệu quả hơn.
- Robert C. Johnson và Guillermo Noguera (2012 a) kết hợp dữ liệu đầu
vào – đầu ra và trọng số thương mại để xác định sự liên kết sản phẩm
giữa các quốc gia (sản phẩm được sản xuất qua nhiều khâu ở các quốc
gia khác nhau). Phân tích sự “lỗi thời” của đo lường thương mại thông
thường ở sự “tính trùng” (tính trùng cả hàng hóa trung gian) với giá trị
gia tăng thương mại. Từ đó, tác giả đề xuất cách tính toán giá trị gia
tăng thương mại, tính toán trọng số thương mại về giá trị gia tăng cho
69 quốc gia và 18 vùng lãnh thổ. Bằng cách chuyển dữ liệu từ bảng đầu
vào – đầu ra thương mại sang dữ liệu giá trị gia tăng thương mại. Trong
đó, tỷ lệ giá trị gia tăng trên tổng sản phẩm xuất khẩu được định nghĩa
là một đo lường cho độ lớn của thị phần sản phẩm.
- Robert C. Johnson và Guillermo Noguera (2012) kết hợp dữ liệu thương
mại, sản xuất và đầu vào để tính toán giá trị gia tăng hàm chứa trong
thương mại cho 42 quốc gia từ năm 1970 đến năm 2009. Bài nghiên cứu
mở rộng công thức tính toán của nghiên cứu Robert C. Johnson và
Guillermo Noguera (2012 a) để tính toán cho nhiều năm liên tục. Bài
nghiên cứu chỉ ra rằng tỷ lệ giá trị gia tăng trên tổng thương mại giảm từ
10% đến 15%, với 2/3 của sự xụt giảm này nằm trong hai thập kỷ cuối
của kỳ nghiên cứu.
8
2. Phương pháp nghiên cứu và dữ liệu nghiên cứu
2.1
Phương pháp nghiên cứu
Phần đầu, giới thiệu chi tiết về chỉ số REER và trọng số đo lường sức
cạnh tranh giữa các quốc gia trong tính toán chỉ số REER. Phần thứ hai, giới
thiệu về giá trị gia tăng thương mại, cách thức tính toán giá trị gia tăng
thương mại xuất phát từ trường hợp đơn giản gồm hai quốc gia và hai hàng
hóa, sau đó mở rộng ra tính toán giá trị gia tăng thương mại tổng quát cho
nhiều quốc gia với nhiều hàng hóa. Tính toán giá trị gia tăng thương mại
chính là bước ban đầu của việc tính toán trọng số giá trị gia tăng song
phương, làm cơ sở cho việc tính toán chỉ số giá trị giá tăng tỷ giá thực hiệu
lực – VAREER. Tiếp theo, bài nghiên cứu trình bày lý luận và công thức
tính toán chỉ số VAREER, so sánh sự khác biệt giữa hai chỉ số VAREER và
REER. Phân cuối cùng, là phần trình bày kết quả tính toán chỉ số VAREER
cho VN.
2.1.1 Tỷ giá hối đoái
Khái niệm về tỷ giá hối đoái rất phức tạp, có thể tiếp cận nó từ những
góc độ khác nhau. Cho đến nay, tỷ giá luôn là vấn đề gây nhiều tranh luận
trên cả phương diện lý thuyết lẫn thực tế, có rất nhiều loại tỷ giá hối đoái: tỷ
giá danh nghĩa, tỷ giá thực, tỷ giá thực song phương, tỷ giá thực đa
phương…. Mỗi loại tỷ giá có cách định nghĩa và tính toán khác nhau
Tỷ giá hối đoái (hay tỷ giá) danh nghĩa song phương
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa song phương (NER) giữa hai đồng tiền
được định nghĩa là giá của một đơn vị ngoại tệ tính theo nội tê. NER thường
được các Ngân hàng thương mại niêm yết hàng ngày để phục vụ cho các
9
giao dịch mua – bán ngoại tệ. Tỷ giá danh nghĩa có thể được niêm yết theo
cách trực tiếp (số đơn vị nội tệ trên một đơn vị ngoại tệ), hoặc theo cách gián
tiếp (số đơn vị ngoại tệ trên một đơn vị nội tệ). Tỷ giá danh nghĩa của từng
cặp đồng tiền được ấn định dựa trên quan hệ cung cầu. Tuy nhiên, tỷ giá
danh nghĩa tăng hay giảm không nhất thiết phải đồng nghĩa với sự gia tăng
hay giảm sức cạnh tranh thương mại quốc tế.
Tỷ giá thực
Tỷ giá thực là một chỉ số cho thấy tỷ giá danh nghĩa đã được điều
chỉnh theo lạm phát trong nước và lạm phát nước ngoài. Về ý nghĩa, tỷ giá
hối đoái thực đo lường sức mua của một đơn vị ngoại tệ trong nền kinh tế
nước ngoài trong mối quan hệ tương đối với sức mua của một lượng nội tệ
tương đương ở nền kinh tế trong nước. Tỷ giá thực cần phải được khảo sát
trong mối quan hệ với những đối tác mà chúng ta có quan hệ mậu dịch thông
qua cách tiếp cận với cách tính tỷ giá thực song phương và tỷ giá thực đa
phương (Trần Ngọc Thơ, Nguyễn Ngọc Định (2012))
Tỷ giá thực song phương
Tỷ giá thực được xác lập trong mối quan hệ với một đối tác thương
mại được gọi là tỷ giá thực song phương (BRER). Tỷ giá thực song phương
so sánh giá cả của một rổ hàng hóa tiêu dùng hay sản xuất đại diện của nước
chủ nhà và giá cả của một rổ hàng hóa làm đại diện ở nước ngoài được ước
tính bằng một loại tiền, có thể là nội tệ hoặc ngoại tệ, và chỉ ra giá trị tương
đối của nội tệ và ngoại tệ (Trần Ngọc Thơ, Nguyễn Ngọc Định (2012)). Tỷ
giá thực song phương có thể được biểu diễn theo công thức sau:
10
Trong đó:
: là chỉ số giá trong nước tính bằng nội tệ.
: là chỉ số giá nước ngoài tính bằng ngoại tệ.
NER: là tỷ giá danh nghĩa niêm yết theo cách gián tiếp.
Tỷ giá thực song phương là một chỉ số, với cách niêm yết tỷ giá danh
nghĩa theo cách gián tiếp thì tử số là giá hàng hóa ở trong nước quy thành
ngoại tệ, nên về bản chất tỷ giá thực thể hiện sự so sánh mức giá hàng hóa ở
trong nước và nước ngoài khi cả hai đều tính bằng ngoại tệ. Với quy ước
này, chỉ số RER tăng lên hàm ý rằng đồng nội tệ được định giá cao, và
ngược lại.
Nếu RER > 1, thì nội tệ được xem là định giá cao, giá cả trung bình
trong nước cao hơn so với nước ngoài, và sẽ tạo nên vị thế cạnh tranh
thương mại kém hơn so với nước bạn hàng.
Nếu RER < 1, thì nội tệ được xem là định giá thấp, giá cả trung bình
trong nước thấp hơn so với nước ngoài, và sẽ tạo nên vị thế cạnh tranh
thương mại tốt hơn so với nước bạn hàng.
Tuy nhiên, tỷ giá thực song phương mới chỉ cho biết sự lên gia hay
xuống giá của đồng ngoại tệ. Ngày nay, mậu dịch quốc tế là đa phương,
trong quan hệ mua bán, một quốc gia có rất nhiều quốc gia bạn hàng trên thế
giới. Để so sánh tính cạnh tranh của hàng hóa nội địa với tất cả các đối tác
thương mại, người ta dùng tỷ giá hối đoái thực đa phương (REER).
11
Tỷ giá thực đa phương
Tỷ giá thực đa phương hay còn gọi là tỷ giá thực hiệu lực là trung bình có
trọng số của các tỷ giá thực song phương giữa một quốc gia với từng đối tác
thương mại với trọng số là tỷ trọng thương mại. Tỷ giá thực đa phương REER là một trong những yếu tố cần xem xét để đánh giá xem nội tệ có bị
định giá cao hay thấp so với đồng tiền của các đối tác hay không.
Công thức tính REER như sau (Zalleno và Desruelle (1997):
∏
(1)
Trong đó:
-
: là tỷ giá thực hiệu lực của nước i
-
: là tỷ giá thực của quốc gia i với quốc gia j, trong đó chỉ số giá
được tính theo chi phí đơn vị lao động (ULC), hoặc tính theo chỉ số
giá tiêu dùng (CPI)
-
: là trọng số cạnh tranh của quốc gia i so với quốc gia j.
Nếu RER được tính trên tỷ giá danh nghĩa niêm yết theo cách gián
tiếp, thì:
REER >1, nội tệ được xem là định giá thực cao và ngoại tệ được coi
là định giá thực thấp, tác động xấu đến cán cân xuất nhập khẩu.
REER<1, thì nội tệ định giá thực thấp và ngoại tệ định giá thực cao,
sức cạnh tranh thương mại quốc tế sẽ được cải thiện vì nếu chuyển
một đồng ngoại tệ sang đồng nội tệ sẽ mua được nhiều hàng hóa trong
12
nước hơn so với nước ngoài. Chính điều này sẽ kích thích xuất khẩu
gia tăng
Trường hợp REER = 1, thì sức mua của đồng tiền trong nước và nước
ngoài là như nhau, tác động làm cho cán cân xuất nhập khẩu cân bằng.
Vể mặt ý nghĩa, chỉ số REER thích hợp hơn so với RER trong so sánh
mức độ cạnh tranh về giá của một nước so với các đối tác thương mại,
REER đóng vai trò rất lớn trong việc phân bổ nguồn tài nguyên trong sản
xuất và điều chỉnh hành vi tiêu dùng của nền kinh tế.
Để làm rõ hơn tính chất của chỉ số REER trong việc đo lường cạnh tranh,
chúng ta sẽ phân tích sâu hơn về trọng số cạnh tranh:
Theo Zalleno và Desruelle (1997)
∑
∑
(2)
Trong đó:
-
∑
: là thị phần của nước j ở thị trường nước k, và
: là doanh
số của quốc gia l ở thị trường nước k
-
∑
: là tỷ lệ đầu ra của nước i được bán ở thị trường nước k
Có thể phân tích từng thành phần của công thức (2) như sau: thành
phần ∑
đo mức độ cạnh tranh giữa các nhà sản xuất của quốc gia i và
quốc gia j ở thị trường k, bằng cách nhân tỷ lệ sản phẩm đầu ra của i ở k (
- tầm quan trọng của thị trường k đối với i) với thị phần của j ở k (vị thế
cạnh tranh của j ở k); và thành phần ∑
đo lường mức cạnh tranh
13
giữa các nhà sản xuất của quốc gia i và tất cả các nhà sản xuất khác ở thị
trường k, bằng cách nhân tầm quan trọng của thị trường k đối với i với thị
phần của tất cả các nhà sản xuất khác tại thị trường k.
Trọng số cạnh tranh có thể phân tích thành hai thành phần là trọng số
nhập khẩu và trọng số xuất khẩu:
(3)
Trong đó:
-
: là trọng số nhập khẩu, bằng với phần nhập khẩu của
∑
quốc gia i từ quốc gia j.
∑
-
∑
, là trọng số xuất khẩu, trọng số xuất khẩu này có
thể phân tích tương tự trọng số xuất khẩu ở phần trên.
-
: là hệ số tương quan của trọng số nhập khẩu, đo
∑
lường tương quan của sự cạnh tranh ở thị trường nội địa giữa các nhà
sản xuất của quốc gia i và tất cả các nhà sản xuất khác.
-
∑
∑
: là hệ số tương quan của trọng số xuất khẩu, đo
lường tương quan của sự cạnh tranh giữa các nhà sản xuất của i với tất
cả các nhà sản xuất khác ở các thị trường xuất khẩu của quốc gia i.
Như vậy, với ý nghĩa đo lường sức cạnh tranh và đo lường sức mua của
đồng tiền, chỉ số REER trở thành một chỉ số quan trọng của kinh tế vĩ mô.
Tuy nhiên, trong trường hợp hàng hóa nhập khẩu để sử dụng làm đầu vào
- Xem thêm -