Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tục cưới xin của người thái đen ở huyện mường la tỉnh sơn la...

Tài liệu Tục cưới xin của người thái đen ở huyện mường la tỉnh sơn la

.PDF
64
529
67

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC HÀ THỊ THANH BÌNH TỤC CƢỚI XIN CỦA NGƢỜI THÁI ĐEN Ở HUYỆN MƢỜNG LA TỈNH SƠN LA KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Sơn La, năm 2017 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC HÀ THỊ THANH BÌNH TỤC CƢỚI XIN CỦA NGƢỜI THÁI ĐEN Ở HUYỆN MƢỜNG LA TỈNH SƠN LA KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Chuyên ngành: Lịch sử địa phƣơng Ngƣời hƣớng dẫn: ThS. Lƣờng Hoài Thanh Sơn La, năm 2017 LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành bài khóa luận tốt nghiệp: “Tục cưới xin của người Thái Đen ở huyện Mường La tỉnh Sơn La” tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Lường Hoài Thanh và thầy cô trong khoa Sử - Địa đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình học tập và rèn luyện tại trường. Tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn tới UBND và bà con ở xã Mường Bú huyện Mường La đã giúp đỡ tôi trong quá trình khảo sát ở địa phương. Mặc dù đã cố gắng để thực hiện khóa luận một cách hoàn chỉnh nhất nhưng do điều kiện và trình độ có hạn nên khóa luận khó tránh khỏi những thiếu sót. Chính vì vậy tôi mong nhận được sự chỉ bảo, hướng dẫn cũng như đóng góp ý kiến của thầy cô, các nhà nghiên cứu văn hóa và của bạn đọc để tôi có thêm kiến thức và kinh nghiệm ngày càng hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn! Sơn La, ngày tháng Sinh viên thực hiện Hà Thị Thanh Bình năm 20 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .............................................................................. 2 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, mục đích và đóng góp của đề tài .................. 3 3.1. Đối tượng nghiên cứu .................................................................................. 3 3.2. Phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 3 3.3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................... 3 3.4. Ứng dụng của đề tài. .................................................................................... 3 4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 3 5. Bố cục của đề tài ............................................................................................ 4 CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGƢỜI THÁI ĐEN Ở TỈNH SƠN LA...................................................................................................................... 5 1.1. Nguồn gốc lịch sử dân tộc Thái ................................................................... 5 1.2. Đặc điểm về kinh tế - xã hội - văn hóa của đồng bào Thái Đen Sơn La. .............. 7 1.2.1. Đặc điểm kinh tế....................................................................................... 7 1.2.2. Về xã hội .................................................................................................. 8 1.2.3. Văn hóa .................................................................................................. 11 CHƢƠNG II: TỤC CƢỚI XIN CỦA NGƢỜI THÁI ĐEN Ở HUYỆN MƢỜNG LA – TỈNH SƠN LA ...................................................................... 14 2.1. Tục cưới xin cổ truyền của người Thái Đen ở huyện Mường La –Sơn La trước Cách mạng tháng Tám. ........................................................................... 14 2.1.1. Tục cưới xin của quý tộc. ....................................................................... 14 2.1.2 Tục cưới xin của thường dân. .................................................................. 31 2.2. Sau Cách mạng tháng Tám. ....................................................................... 37 2.3. Những thay đổi trong tục cưới xin của người Thái Đen ở huyện Mường La tỉnh Sơn La. ...................................................................................................... 41 2.3.1. Những thay đổi trong quan niệm về hôn nhân. ....................................... 41 2.2.2. Những thay đổi trong nghi lễ và tục cưới xin. ......................................... 42 CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY NHỮNG NÉT ĐẸP TRONG TỤC CƢỚI XIN CỦA NGƢỜI THÁI ĐEN Ở HUYỆN MƢỜNG LA – TỈNH SƠN LA............................... 46 3.1. Nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi trong tục cưới xin của người Thái Đen ở huyện Mường La tỉnh Sơn La. .......................................................................... 46 3.2. Một số kiến nghị về vấn đề giữ gìn và phát huy những nét đẹp trong tục cưới xin của người Thái Đen – Sơn La. ............................................................ 48 KẾT LUẬN .................................................................................................... 51 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC ẢNH MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trải qua quá trình dựng nước và giữ nước nền văn hóa Việt Nam đã được hình thành và phát triển – một nền văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc chứng minh sức sống mãnh liệt và trường tồn của dân tộc. Việt Nam là một quốc gia có 54 dân tộc anh em cùng chung sống, mỗi dân tộc trong cộng đồng người Việt đều có những giá trị văn hóa riêng phản ánh truyền thống lịch sử và tính cách riêng của dân tộc mình. Tất cả những nét riêng ấy đã tạo nên cho dân tộc ta một nền văn hóa đặc sắc đa dạng. Ngày nay, cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội thì văn hóa nói chung và tục cưới xin nói riêng cũng luôn vận động, biến đổi. Do đó, việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa luôn là một chiến lược quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội trong cả nước. Tục cưới xin có một vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa của dân tộc, cưới xin đã trở thành tục lệ từ bao đời, nó là sự nối tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác tạo nên một dòng chảy liên tục trong cuộc sống của cư dân.Với người Thái Đen cũng vậy. Từ lâu, tục cưới xin đã trở thành một nghi lễ quan trọng và tốt đẹp, là nơi chứa đựng những giá trị tư tưởng không thể thiếu trong đời sống văn hóa của người Thái Đen. Tục cưới xin không chỉ là dấu mốc quan trọng đánh dấu một sự kiện quan trọng trong bước đường đời của mỗi người mà còn gắn liền với đời sống tâm linh. Từ trước tới nay đã có rất nhiều học giả quan tâm nghiên cứu về tục cưới xin của người Thái Đen, song do người Thái Đen sống ở từng vùng miền khác nhau thì tục cưới xin cũng có những nét khác nhau. Do vậy, việc nghiên cứu nét đặc trưng trong tục cưới xin của người Thái Đen ở từng vùng từng miền chưa rõ nét và tục cưới xin của người Thái Đen ở huyện Mường La tỉnh Sơn La cũng vậy. Sự phát triển của nền kinh tế xã hội ngày nay đã có những tác động mạnh mẽ đến tục cưới xin của người Thái Đen đòi hỏi tục cưới hỏi phải tự mình thay đổi để bắt kịp với xu thế của thời đại mới. Nhưng sự thay đổi đó không đồng 1 nghĩa với việc lãng quên hay đánh mất đi những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình. Đứng trước sự biến đổi đó, tôi quyết định chọn đề tài “Tục cưới xin của người Thái Đen ở huyện Mường La tỉnh Sơn La” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình với mong muốn nghiên cứu và tìm hiểu một cách khái quát và chi tiết nhất về tục cưới xin của người Thái Đen ở huyện Mường La tỉnh Sơn La. Bên cạnh đó, tìm hiểu những thay đổi và những giá trị văn hóa cần được giữ gìn, phát huy mai sau, từ đó đưa ra một số giải pháp để tiếp tục duy trì những nét đẹp truyền thống trong tục lệ cưới xin cũng như xóa bỏ đi một số thủ tục rườm rà, ảnh hưởng tới đời sống. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Nghiên cứu về các dân tộc, nhất là dân tộc Thái đã thu hút được sự chú ý của nhiều học giả, nhiều nhà nghiên cứu. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu về dân tộc Thái như sau: + Tác phẩm “Luật tục Thái ở Việt Nam” của Ngô Đức Thịnh và Cầm Trọng, nhà xuất bản Văn hóa dân tộc (2003). Đây là tập hợp những tài liệu về luật tục của đồng bào Thái mà hai tác giả đã sưu tầm được trong đó có đề cập đến tục lệ cưới xin của người Thái. + Tác phẩm “Táy Pú Xấc” (Những bước đường chinh chiến của cha ông), Vương Chung (sưu tầm và dịch), nhà xuất bản Văn hóa dân tộc (2003). Trong tác phẩm cũng có nói tới tu ̣c cưới xin của đồ ng bào Thái Đen và những nét đặc trưng về kinh tế , văn hóa, xã hội truyền thống . Tuy nhiên, tục cưới xin được đề cập trong tác phẩm còn khá rộng nên chưa làm nổi bật được những đặc trưng trong tu ̣c cưới của đồ ng bào Thái Đen ở Sơn La. + Tác phẩm “Một số vấn đề về lịch sử và văn hoá Tây Bắc”, Phạm Văn Lực (Chủ biên), nhà xuất bản Đại học sư phạm (2011), là sự khái quát về lịch sử hình thành và truyền thống văn hóa các dân tộc trên mảnh đất Tây Bắc, trong đó có đề cập tới tục cưới xin của người Thái Đen ở Sơn La. + Tác phẩm “Bức tranh văn hóa các dân tộc Việt Nam” của Nguyễn Sinh Huy, nhà xuất bản Giáo dục (2003), đã trình bày khái quát các bước tiến hành đám cưới của người Thái. 2 + Tác phẩm “Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam” của Cầm Trọng, nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội (1978), tác phẩm đã nêu một cách khái quát về mọi mặt trong đời sống của người Thái từ lịch sử, văn hóa, xã hội…và phần nào đề cập tới tục lệ cưới xin. Như vậy, có thể nhận thấy được tục cưới xin của người Thái Đen đã được nói tới trong rất nhiều tác phẩm, các công trình nghiên cứu tuy nhiên chưa được tìm hiểu một cách chi tiết và chưa nhận thấy được sự thay đổi của tục cưới xin trước tác động của kinh tế - xã hội hiện nay. 3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu, mục đích và đóng góp của đề tài 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu Khóa luận tìm hiểu về tục cưới xin của người Thái Đen ở huyện Mường La tỉnh Sơn La và những thay đổi của tục cưới xin trước sự phát triển của xã hội. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Huyện Mường La, tỉnh Sơn La. 3.3. Mục đích nghiên cứu - Tìm hiểu các nghi lễ tập tục và các giá trị văn hóa tinh thần trong lễ cưới cổ truyền của người Thái Đen ở huyện Mường La – Sơn La. - Tìm hiểu về những thay đổi trong tục cưới xin của người Thái Đen. - Đề xuất một số giải pháp để gìn giữ những giá trị tốt đẹp trong tục lệ cưới xin của người Thái Đen. 3.4. Ứng dụng của đề tài. - Bổ sung thêm kiến thức về đời sống tinh thần của người Thái Đen, đặc biệt là tục lệ cưới xin. - Là tài liệu tham khảo cho học phần cơ sở văn hóa Việt Nam và lịch sử địa phương. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Hai phương pháp chủ yếu là phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Ngoài ra, còn sử dụng các phương pháp bổ trợ khác như tập hợp tài liệu, so sánh, tổng hợp... Bên cạnh đó, chúng tôi còn sử dụng phương pháp điền dã, khảo sát thực 3 địa để thu thập thông tin. 5. Bố cục của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục ảnh, đề tài được chia làm 3 chương: Chƣơng 1: KHAI QUÁT CHUNG VỀ NGƢỜI THÁI ĐEN Ở TỈNH SƠN LA. 1.1. Nguồn gốc lịch sử dân tộc Thái 1.2. Đặc điểm về kinh tế - xã hội - văn hóa của đồng bào Thái Đen Sơn La. Chƣơng 2: TỤC CƢỚI XIN CỦA NGƢỜI THÁI ĐEN Ở HUYỆN MƢỜNG LA TỈNH SƠN LA. 2.1.Tục cƣới xin của ngƣời Thái Đen trƣớc Cách mạng tháng Tám. 2.1.1. Tục cưới xin của quý tộc. 2.1.2. Tục cưới xin của thường dân. 2.2. Tục cƣới xin của ngƣời Thái Đen sau Cách mạng tháng Tám. 2.3. Những thay đổi trong tục cƣới xin của ngƣời Thái Đen ở huyện Mƣờng La tỉnh Sơn La. 2.3.1. Những thay đổi trong quan niệm về hôn nhân. 2.3.2. Những thay đổi trong nghi lễ và tục cưới xin. Chƣơng 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM BẢO VỆ VÀ PHÁT HUY NHỮNG NÉT ĐẸP TRONG TỤC CƢỚI XIN CỦA NGƢỜI THÁI ĐEN Ở HUYỆN MƢỜNG LA TỈNH SƠN LA. 3.1. Nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi trong tục cƣới xin của ngƣời Thái Đen ở huyện Mƣờng La tỉnh Sơn La. 3.2. Một số kiến nghị về vấn đề giữ gìn và phát huy những nét đẹp trong tục cƣới xin của ngƣời Thái Đen – Sơn La 4 CHƢƠNG 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGƢỜI THÁI ĐEN Ở TỈNH SƠN LA 1.1. Nguồn gốc lịch sử dân tộc Thái Căn cứ theo truyề n thuyế t dân gian hay các văn tự chữ Thái tồn tại đến ngày nay như căn cứ vào các tài liê ̣u thành văn “Quám tố mương” (chuyê ̣n kể bản mường ) hay “Táy pú xấ c” (những bước đường chinh chiến của cha ông ), “Hit khoong bản mường” (phong tu ̣c tập quán), Piết mương, phanh mương.... thì lịch sử cư trú của người Thái ở Sơn La còn có nhiều ý kiến khác nhau. Nế u như các thế kỷ đầu công nguyên , lịch sử miền Vân Nam Trung Quố c đã xuấ t hiê ̣n khố i Ô Man Đông Thoán và Ba ̣ch Man Tây Thoán thì rất có thể người Thái đã có mặt trên các điểm như Nậm Lai Nong Se , Mường Ôm, Mường Ai và Mường Tung Hoàng và mô ̣t số nơi như vùng lòng chảo Mường Then (Thanh), Mường Tấ c (Phù Yên – Sơn La). Nế u như các thế kỷ đầu công nguyên , lịch sử miền Vân Nam Trung Quố c đã xuấ t hiê ̣n khố i Ô Man Đông Thoán và Ba ̣ch Man Tây Thoán thì rất có thể người Thái đã có mặt trên các điểm như Nậm Lai Nong Se , Mường Ôm, Mường Ai và Mường Tung Hoàng và mô ̣t số nơi như vùng lòng chảo Mường Then (Thanh), Mường Tấ c (Phù Yên – Sơn La). Vào khoảng thế kỷ VII -VIII người Thái đã trở thành thành phần cư dân của nước Nam Chiế u bên cạnh các dân tộc nói tiếng Tạng – Miế n. Khi nhà Nguyên được thành lập đã tấn công tiêu diệt Nam Chiếu. Sự kiện này đã dẫn tới một làn sóng di cư mạnh mẽ của người Thái xuống phía Nam, góp phần hình thành nên các vương quốc Thái tại lưu vực sông Mê Công và phía Bắc sông Hồng (Việt Nam). Trong sử thi “Quám tố mương” (chuyện kể bản Mường) của người Thái đen còn kể rằng, họ trực tiếp là con cháu của Ải Ngu Háu (Chúa Hổ Mang). Sở dĩ người Thái Đen lấy rắn hổ mang làm ông tổ là do bắt đầu từ mối tình Tạo Qua (đời thứ 10 của tù trưởng Thái Đen Lạng Chượng) với nàng Xo người Khơ Mú dòng dõi Khum Quàng, Ămpoi làm vợ hai. Hai người sinh được một người 5 con trai khôi ngô tuấn tú đó chính là Hổ Mang. Do ghen ghét, vợ cả của Tạo qua tìm cách giết chàng trai bằng cách bắt chàng trèo lên hốc cây có rắn hổ mang, chàng đã bắt được con rắn độc to lớn này.Từ đó chàng mang tên “rắn Hổ Mang” “Ải Ngu Háu” và trở thành ông Tổ của người Thái Đen hiện nay. Về sự có mặt của dân tộc Thái Tây Bắc, cho đến nay tuy vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng nhìn chung các nhà nghiên cứu đều thống nhất cho rằng: cư dân thuộc nhóm tiếng Tày – Thái vốn sinh sống ở vùng cao nguyên Thanh Tạng (Tây Tạng – Trung Quốc), do không chịu thần phục chính sách đồng hóa thôn tính của các triều đại phong kiến Hán tộc nên vào thời điểm cuối thiên niên kỉ II Sau Công Nguyên họ đã ồ ạt tìm đường thiên di xuống phía nam theo đường sông Mê Công và sông Hồng (người Thái gọi là Nặm Tao) đổ bộ lên Myanma, Lào và vào vùng Tây Bắc Việt Nam. Đến cuối thế kỉ XIII, đầu thế kỉ XV, ở Tây Bắc Việt Nam xuất hiện ba trung tâm Thái: Điểm cực Nam vàTây Nam là Mộc Châu (trung tâm của người Thái Trắng), điểm cực Bắc và Tây Bắc là Mường La, vùng giữa là Mường Muổi (trung tâm của người Thái Đen hiện nay).[8; tr 308] Trong quá trình phát triển, các thủ lĩnh của ba trung tâm Thái ở Mộc Châu, Mường Lay, Mường Muổi, thường xuyên xung đột, lấn chiếm lẫn nhau. Đến thời Tạo Ngần (cuối thế kỉ XIV), do chăm lo đến phát triển kinh tế, xây dựng bản mường, khuyên bảo nhân dân dần dần thế lực của Tạo Ngần ở Mường Muổi trở nên cường thịnh thu phục được hai trung tâm Thái ở Mộc Châu, Mường Lay và các tộc người khác ở Tây Bắc, xóa đi tình trạng phân tán cát cứ, thống nhất được Tây Bắc. Từ đây, lịch sử xã hội Thái nói chung, văn hóa Thái nói riêng có những bước phát triển quan trọng.[8; tr 386] Sau này, cho dù xã hô ̣i Thái đã trải qua những năm tháng bị bo ̣n phong kiế n , đế quốc chia rẽ… nhưng lịch sử của người Thái vẫn phát triể n thố ng nhấ t . Đó là mô ̣t nhóm địa phương của mô ̣t tô ̣c người thiể u số thuô ̣c đa ̣i gia đình dân tô ̣c Viê ̣t Nam, có màu sắc riêng nằ m trong sắ c thái chung của dân tô ̣c Viê ̣t Nam. Về tên gọi, người Thái tự gọi mình là Phủ Tay hay Côn Tay đều có nghĩa là người, có hai ngành Thái đó là: Thái Đen (Tay Đăm) và Thái Trắng (Tay Đon 6 hay Tay Khao).Người Thái Đen Sơn La là một ngành của dân tộc Thái. Dân tộc Thái là một dân tộc lớn trong các dân tộc thiểu số Việt Nam, là dân tộc đông nhất của khu vực Tây Bắc Việt Nam. Theo thống kê ở bảng danh mục của thành phần dân tộc Việt Nam, Tổng cục thống kê, Hà Nội tháng 4 – 1999 thì dân tộc Thái đứng thứ ba (sau dân tộc Kinh và Tày). Tóm lại, người Thái đã có nguồn gốc lâu đời ở nước ta, họ đã đoàn kết cùng nhau xây dựng bản mường.góp phần vào công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Hiện nay đồng bào Thái ở Sơn La chiếm 54,7% dân số trong đó 2/3 là người Thái Đen, họ sống, cư trú rải rác trong huyện thành: Thành phố Sơn La, Thuận Châu, Mai Sơn, Yên Châu, Mường La, Quỳnh Nhai, Sông Mã, Sốp Cộp [8; tr 307]. 1.2. Đặc điểm về kinh tế - xã hội - văn hóa của đồng bào Thái Đen Sơn La. 1.2.1. Đặc điểm kinh tế Nền kinh tế nông nghiệp đã trở thành nguồn sống chủ yếu của đồng bào Thái Sơn La. Trong trồng trọt, cây lúa được coi là trung tâm giữ vai trò chủ đạo, bên cạnh việc trồng trọt người Thái vẫn còn bảo lưu hình thái kinh tế cổ xưa: săn bắn, hái lượm, đánh bắt cá. Bởi vậy đồng bào Thái có câu: “Được mùa thì quay lưng vào rừng Đói kém thì cúi mặt xuống hố mài” Ngoài lúa, người Thái còn trồng các loại như cây ngô, khoai, sắn… Nguồn thực phẩm cũng được bổ xung từ việc chăn nuôi gia cầm (gà, vịt, ngan…), đặc biệt là gia súc lớn, vừa là nguồn cung cấp thực phẩm trong sinh hoạt vừa là nguồn cung cấp sức kéo để làm ruộng, nương, kéo ngô, làm nhà cửa như trâu, bò… Nguồn thực phẩm tự nhiên cũng là nơi cung cấp thức ăn cho đồng bào như: hái lượm rau, măng, củ, quả, săn thú rừng, đánh bắt cá ở sông suối… người Thái Đen đã đúc kết đặc điểm kinh tế của mình qua câu ngạn ngữ: “Miếng cơm ở đất Thức ăn ở rừng” Nền kinh tế của đồng bào Thái Sơn La chưa có sự phân công lao động 7 lớn, chăn nuôi chưa tách ra khỏi trồng trọt, thủ công nghiệp chưa tách khỏi nông nghiệp nên chưa xuất hiện các thị trường tập trung. Phần lớn, nền kinh tế của đồng bào Thái vẫn là tự cung tự cấp, họ có thể tự cung cấp lương thực, thực phẩm cho đến công cụ lao động như cuốc, xẻng, các đồ dùng sinh hoạt, vật dụng gia đình bằng các nghề thủ công truyền thống. Ngày nay, nhờ được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước tới các vùng xa xôi hẻo lánh, vùng sâu vùng xa thì cơ cấu kinh tế trở nên linh hoạt hơn. Giao lưu kinh tế trở nên phát triển và ngày càng mở rộng, cuộc sống được cải thiện dần, kinh tế gia đình ngày càng khá giả hơn trước . Đồng bào Thái có các nghề phụ đình gia như: dệt vải, đan lát, làm mộc… Phụ nữ Thái thì giỏi dệt vải, thêu thùa. Đàn ông thì đan lát, làm mộc tạo ra những sản phẩm phong phú và mang tính thẩm mĩ cao. 1.2.2. Về xã hội Người Thái ở Sơn La nói riêng, ở Tây Bắc nói chung thì cơ sở chủ yếu của nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự cung, tự cấp tự nhiên. Vì vậy tổ chức xã hội của họ cũng có những nét đặc thù vừa thể hiện tính chất cát cứ địa phương, vừa thể hiện tính chất thống nhất của cả nước. Về tổ chức bộ máy chính quyền trong các bản mường: Trong thời kì phong kiến tính chất cát cứ địa phương thể hiện rõ ràng với từng đơn vị châu Mường, mỗi châu Mường là một đơn vị lãnh đạo đảm bảo quyền lợi theo tục lệ của một dòng họ hay một dòng quý tộc đặt dưới sự thống trị của châu Mường (chủ Mường). Lịch sử phát triển của châu Mường gắn với sự phát triển của các dòng quý tộc Thái, mà trong nhiều đời đã được triều đình phong kiến trung ương công nhận quyền thống trị ở địa phương với tính cách “thế tập”. Người Thái có câu: "Sích bẩu châu căm" (Dòng họ nhà trời làm chủ đất vàng) đã nói lên quyền làm chủ của các quý tộc Thái với vùng đất đai của họ là các châu Mường. Những châu Mường trung tâm được gọi là châu Mường lớn (Mường luông). Như đời nhà Lý có Mường Lò Luông, đời nhà Trần có Mường Muổi luông. Tuy nhiên, Mường luông không có tính chất như một cấp tỉnh mà chủ 8 yếu làm nhiệm vụ truyền đạt và đôn đốc châu Mường thực hiện chiếu chỉ của triều đình. Về hình thức, trong bộ máy hành chính của cả nước, các châu Mường chỉ có vị trí như cấp huyện, xong về thực chất mỗi châu Mường có tính chất như một “triều đình nhỏ” được triều đình phong kiến trung ương công nhận quyền “Thế tập” của quý tộc cũng như quyền tổ chức bộ máy hành chính và cai quản địa phương theo tập quán và luật lệ riêng. Trong từng đơn vị châu Mường có nhiều người cư trú cho nên quý tộc Thái cùng với bộ máy hành chính của họ không những thống trị nhân dân lao động Thái mà cả những tộc người khác nữa. Sau khi đất nước độc lập, thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng bào Thái Sơn La đã quy tụ và sống ổn định dưới các đơn vị hành chính bản mường. Mỗi bản gồm khoảng 40- 50 nóc nhà cùng nhau sinh sống, có người đứng đầu là trưởng bản. Về mặt xã hội: trước Cách mạng tháng Tám, xã hội người Thái cũng được chia làm 2 giai cấp chính: giai cấp thống trị và giai cấp bị thống trị. Thứ nhất là giai cấp thống trị phân chia thành hai tầng lớp đó là: tầng lớp quý tộc và tầng lớp chức dịch hay " bô lão toàn mường". - Tầng lớp quý tộc: Trong một bản " Quám tố mương" thì : Khi người Thái đến Mường Lò, các họ Lò, Lường, Cà, Vi, Mè, Lềm..., đã tôn sùng họ Lường làm "mo", họ Lò làm "tạo". Lịch sử phát triển của xã hội Thái ở Tây Bắc đã diễn biến trên một quá trình vô cùng phức tạp và cuối cùng một ngành của họ Lò đã tiến lên chiếm địa vị thống trị. Một ngành của họ Lò ấy đã trở thành quý tộc, được xã hội ghi nhận bằg một thành ngữ "họ trời sinh ra để làm chủ đất vàng". Sau khi được giữ địa vị thống trị trong các "châu mường", lớp quý tộc họ Lò đã lấy các họ công khai là: Cầm (hay Khẳm), Bạc Cầm, Hoàng, Đèo .. Tuy nhiên những tên ghi trong gia phả quý tộc vẫn ghi họ Lò Cằm (hay Khằm). [10; tr 240] - Tầng lớp chức dịch hay "bô lão toàn mường" (trừ ông Mo). Họ là những người ngoài họ quý tộc hay là những người có công trong các cuộc chinh chiến. Chức dịch chỉ được quyền thống trị và bóc lột quần chúng lao 9 động khi đương chức. Khi không làm quan chức nữa thì phải quay về thành phần nhân dân lao động. Bởi vậy có thể coi quan chức là tầng lớp trung lưu trong xã hội Thái. Họ một mặt trung thành với quý tộc (tin sai nái chậư) và bóc lột nhân dân, mặt khác lại có sự gần gũi, gắn bó với họ hàng, bà con trong bản để nhỡ có mất chức cũng có chỗ dựa. Thứ hai là giai cấp bị thống trị được gọi chung là lớp nông dân lao động, lực lượng đông đảo nhất và là lực lượng trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất trong xã hội. Tầng lớp này gồm nhiều thành phần dân tộc, chia làm 3 loại: - Nông dân “gánh vác”: Đây là tầng lớp nông dân chiếm đại đa số cư dân sống trong châu mường. Muốn trở thành nông dân "gánh vác", họ phải có vợ và hết thời gian ở rể. Họ lao động trực tiếp cho nghĩa vụ "việc mường" như nộp thóc gọi là "khẩu chạn" và cống nạp vật phẩm cho người đứng đầu châu mường. Bên cạnh đó, họ là lớp người phải nhận nghĩa vụ đi lính khi có chiến tranh và khi không cần thiết họ lại trở về với đồng ruộng. - Nông dân gọi là “cuông, nhốc, pụa”: loại nông dân này phải chịu sự cưỡng bức lao dịch trên đồng ruộng của nhà quý tộc và tầng lớp thống trị khác. Hay nói cách khác, ngoài việc sản xuất để nuôi mình, còn phải đi làm ruộng cho chủ và phục vụ tất cả nhu cầu cuộc sống của nhà chủ. Họ không được coi là một thành viên độc lập trong châu mường. Về địa vị xã hội bộ phận này thường bị kẻ thống trị bóc lột khinh bỉ, rẻ rúng. - “Cốn hướn” (gia nô): lớp nông dân này là tôi đòi trong nhà chiếm số ít hơn cả (thường chiếm tỷ lệ từ 6% đến 9% số dân Thái trong các “châu mường”). Những quý tộc lớn đứng đầu “châu mường” có thể có 15, 20 gia nô gái, trai. Những quý tộc nhỏ và chức dịch ... thường có dăm ba người “cốn hướn”. [10; tr 257] Nhìn chung, tầng lớp nông dân trong các “châu mường” có ba loại, nhưng họ có một địa vị xã hội thống nhất, đó là lớp người trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất trong bản mường, bị quý tộc và bộ máy chính quyền thống trị và bóc lột. 10 1.2.3. Văn hóa Văn hóa là kết quả của hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc. Quá trình sinh sống, hòa huyết đồng bào Thái Tây Bắc đã sáng tạo ra nền văn hóa nghệ thuật dân gian đa dạng, phong phú đậm đà bản sắc dân tộc đúng như người Thái đã nói: “Ăn cơm nếp, uống rượu cần Ở nhà sàn, mặc “xửa cỏm” [6; tr 308] Hoặc câu: “Đi ăn cá về nhà uống rượu ở thì ngủ đệm, đắp chăn ấm” [6; tr 309]. Một trong những sản phẩm độc đáo của nền văn hóa vật chất của đồng bào Thái Sơn La là hình ảnh ngôi nhà sàn cổ được dựng lên trên cơ sở sự phát triển kinh tế - xã hội. Người Thái thường có câu thành ngữ để nói về ngôn ngữ nhà sàn của họ “Hươn mi hản quản mi xấu” có nghĩa là “nhà có gác, sàn có cột”. Nhà sàn của người Thái Đen thường mang một vẻ rất riêng, mang đặc trưng dân tộc. Nhà thường được cấu trúc bởi các loại cây thân gỗ và các loại cây như tre, nứa… và được lợp bằng cỏ gianh. Khi làm nhà để nối các cột kèo, người Thái sử dụng các đòn đâm qua lỗ đục của các cột, kiểu kiến trúc có vẻ rất đơn sơ nhưng lại rất chắc chắn. Nhà của người Thái Đen bao giờ cũng làm số gian lẻ hai đầu hồi “tạp cống”, khúm núm như mai rùa và có khâu cút chọc trời. Ngày nay, mái nhà sàn của người Thái được lợp chủ yếu bằng ngói hoặc proxi măng, chiếc khau cút không còn vai trò chắn giữ mái gianh nữa mà chỉ có vai trò trang trí cho ngôi nhà của mình. Vì vậy, hình dáng chiếc khau cút có thêm nhiều họa tiết mới mang hơi thở của phong cách kiến trúc hiện đại đẹp và phong phú về kiểu cách nhưng mối liên hệ giữa các kiểu dáng của chiếc khau cút này với văn hóa của dân tộc Thái mờ nhạt hơn so với các kiểu dáng khau cút cổ truyền (khau bẻ, khau cút pụa…). Bên cạnh nếp nhà sàn đặc biệt đó thì người Thái Đen còn có trang phục truyền thống riêng biệt không thể nhầm lẫn với dân tộc khác. Trang phục của người phụ nữ Thái Đen vừa đẹp, vừa gọn và đặc biệt làm nổi rõ những đường 11 nét trên cơ thể của họ, họ mặc áo cánh ngắn (xửa cỏm) khuy cắt bằng bạc và hình bướm, ve ôm sát lấy thân người, váy màu đen không trang trí hoa văn. Trang phục của người Thái Trắng khác ở điểm là cổ chữ V, áo gam màu sáng còn người Thái Đen thì cổ áo hình tròn hoặc thường có màu tối. Phụ nữ chưa chồng búi tóc sau gáy, phụ nữ có chồng búi tóc trên đỉnh đầu (tẳng cẩu), phụ nữ Thái Trắng khi có chồng vẫn không búi tóc lên trên đỉnh đầu. Trong dịp tết, lễ phụ nữ thường mặc áo dài, với các loại xẻ nách, chui đầu trang trí hoa văn. Đặc biệt trong tang ma, con dâu trưởng phải mặc áo dài có tên là “xửa trai” đặc trưng của phụ nữ thái đen là đầu đội khăn piêu, phụ nữ Thái Trắng là đội nón rộng vành và đan bằng nan tre. Trang phục nam giới: Ngày thường mặc áo màu đen, cổ tròn, xẻ ngực, cài cúc vải có hai cúc dưới vạt trước, quần kiểu chân quê màu chàm đen. Dịp lễ tết họ mặc áo dài, xẻ nách màu chàm đầu cuốn khăn, chân đi guốc. Trong tang ma họ mặc nhiều loại áo, tương phản màu sắc với ngày thường, có nối cắt may dài, thụng không lượn nách với các loại: xẻ ngực, xẻ nách… Người Thái rất nổi tiếng về nghệ thuật thêu, dệt vải, nguyên liệu chính để dệt và thêu là sợi bông và sợi tơ tằm do vậy nghề trồng bông nuôi tằm rất phát triển. Một trong những nét độc đáo của văn hóa ẩm thực phải kể đến đó là mời rượu "Phi" (ma). Tục lệ này có từ lâu đời, người Thái xưa cho rằng thế giới có 3 bộ phận cấu thành: Cõi trời - cõi người - trái đất. Trong cõi trời phải có các "Phi" theo con người mang đến điều tốt lành hoặc ám ảnh gay tai họa cho con người. Khi nâng chén rượu đầu tiên, chủ và khách chúc nhua những lời tốt lành chính là lúc gia chủ mời "Phi" phù hộ cho gia đình, dòng họ mình và khách, nếu gia chủ và khách cụm ly nhau là tỏ thái độ tôn trọng và đoàn kết, thì cách thể hiện sự tôn trọng đối với "Phi" đó là gia chủ hoặc khách ngồi gần đổ một chút rượu từ chén của mình vào 2 chén rượu Phi, còn nếu ngồi xa thì đổ một chút rượu xuống sàn nhà. Người Thái tin rằng hành động như vậy sẽ khiến các "Phi" vui, âm dương hòa hợp mọi sự sẽ tốt lành . . . Các món ăn chủ yếu của người Thái là đồ nướng như cá nướng, thịt nướng, 12 thịt vùi do… Trong các dịp lễ, tết thường làm bánh trưng, các loại xôi… trong cưới xin, vào nhà mới thường uống rượu cần, rượu cất từ ngô, sắn hoặc gạo. Ngoài ra, người Thái là một trong bốn nhóm tộc người có chữ viết riêng, điều này có ý nghĩa lớn đối với dân tộc Thái nói chung và người Thái Đen Sơn La nói riêng trong việc ghi chép lại những giá trị văn hóa, thiết chế xã hội,… mà đến ngày nay còn lưu giữ lại là nguồn tài sản vô giá cho tộc người, cùng các ngành nghiên cứu khoa học. Trong sinh hoạt văn hóa nghệ thuật của dân tộc Thái, chúng ta không thể không nói đến “xên mo”, “Khắp một lao”, “Khắp sư”, “thiên trường ca sống chụ xôn xao” (tiễn dặm người yêu), Sử thi “Táy pú xấc” (những bước đường chinh chiến của ông cha); tục ngữ Thái “Quám chiến lang” và bên cạnh đó là một kho tàng giá trị văn hóa sâu sắc chưa được biên soạn và vẫn đang tồn tại trong dân gian: Bài cúng tổ tiên, bài cúng hồn... Trong sản xuất, đời sống sinh hoạt, hát (người Thái gọi là khắp) đối với họ không thể thiếu được. Người ta tự hát một mình hoặc hát cho mọi người nghe một cách say xưa. Trước đây đã có những cuộc hát kéo dài đến 2, 3 ngày đêm. Qua hát người ta không những thưởng thức được thi vị của ý thơ mà còn gửi gắm tâm tư, tình cảm vào những âm thanh trầm bổng của giọng hát hay. Hễ có thơ là người ta có thể hát ngay theo một lối hát cho hợp với thể loại. Đó chính là các làn điệu dân ca biểu hiên bằng lối hát thơ thích hợp của từng vùng. Cùng với những tinh hoa văn hóa độc đáo thể hiện đời sống tình cảm đằm thắm thiết tha của cộng đồng dân tộc, đồng bào Thái còn có nhiều phong tục tập quán tốt đẹp như: Lễ mừng thọ, lễ mừng cơm mới, mừng nhà mới, hội ném còn, Hạn Khuống. Ngoài ra đồng bào Thái còn có các tập tục truyền thống lâu đời như: ma chay, cưới xin, cúng bản mường... Trong đó, tục cưới xin là một tập tục mang đậm màu sắc văn hoá Thái với nghi lễ cưới, các bước tổ chức khâu cưới rất chặt chẽ. Chính từ những điều này mà hôn nhân người Thái Đen mang một màu sắc độc đáo và riêng biệt. 13 CHƢƠNG II: TỤC CƢỚI XIN CỦA NGƢỜI THÁI ĐEN Ở HUYỆN MƢỜNG LA – TỈNH SƠN LA 2.1. Tục cƣới xin cổ truyền của ngƣời Thái Đen ở huyện Mƣờng La – Sơn La trƣớc Cách mạng tháng Tám. Đồng bào Thái Đen ở Sơn La sinh sống bằng nghề nông là chủ yếu, với việc làm nương, rẫy và kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước nhưng khoa học, kỹ thuật chưa được áp dụng vào sản xuất nên đời sống của người dân nơi đây còn gặp nhiều khó khăn. Do đó mà ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội và chuyện tình yêu, hôn nhân của người Thái Đen không nằm ngoài ảnh hưởng đó. Thời phong kiế n người Thái Đen lấy vợ , lấy chồng rất sớm. Nữ thường là 13,14 tuổi, nam thì 15 hoặc 16 tuổi. Các cô gái mới 12,13 tuổi đã thêu “Piêu”, chăn, đệm để chuẩn bị lấy chồng. Vì vậy, người phụ nữ suốt ngày chỉ bận việc làm bông, dệt vải, may thêu và cơm nước ngoài ra không biết gì tới việc xã hội. Tầm hiểu biết của phụ nữ do đó rất bị hạn chế. 2.1.1. Tục cưới xin của quý tộc. Giai đoạn này, xã hội có sự phân chia giai cấp sâu sắc nên lễ cưới được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau, với rất nhiều khâu đoạn được tổ chức chặt chẽ chu đáo, tuần tự, thứ bậc từ đầu đến cuối và trải qua những bước cụ thể. Trước đây tạo lấy vợ thì mỗi người trong bản mường không kể chức dịch hay thường dân đến phải góp. Các bậc cha chú họ hàng nhà tạo, các bô lão, hó he, mo chang…phải cùng đứng ra tổ chức. Lệ bản Luật mường đặt ra rõ mọi người phải tuân thủ 7 bước sau: - Lệ mở gói ăn hỏi - Lệ gọi là ôm phải đứt lời, mối đứt giá - Lệ dẫn con trai lên trên làm rể ở quản - Lệ làm lễ nhập phòng và tổ chức lễ cưới lên - Lệ tổ chức lễ cưới xuống, đón dâu về nhà lớn và bảnmường - Lễ bô lão đặt danh xưng cho bà mường. - Lệ làm lễ “tiến đưa áo”.[13; tr 498] 14 Mỗi một bước là một lệ bản luật mường, bản mường phải cùng án nha gánh chịu mọi chi phí để rước đón nàng về với tạo, tạo ra cột trụ cho bản mường. *Lệ mở gói ăn hỏi Hàng bô lão cử một dàn ông, một đàn bà làm mối. Đi theo ông, bà mối có đoàn tùy tùng. Theo lệ, đồ dẫn lễ không có quy trình cụ thể về số lượng mà chỉ nói: “một đôi rượu, một đôi gà”. Chỗ án nha là “cha mẹ của bản Mường” thì phải có một đầu lợn, rượu… đủ đặt cỗ mời họ nhà gái, giúp cho lời lẽ của ông mối, bà mỗi thốt ra được suôn sẻ. Đến nơi, ông, bà mối đưa cho người đại diện họ nhà gái thư của án nha bầy tỏ nguyện vọng của mình. Nói về chỗ sẽ kết dâu gia-một bên họ nhinh xao tức nhà trai; một bên là lung ta tức họ nhà gái. Nói về việc thăm hỏi và giới thiệu như nhường lời cho mối nói tiếp. Phía lung ta – nếu thực sự không bị gượng ép thì vui vẻ nhận lấy thư gửi và quà tặng. Nếu có phải gượng ép thì cũng chẳng lời nào mà nói được. Bởi vì chỗ án nha, từ chối không được, cưỡng lại cũng chẳng xong. Phần lớn các trường hợp đều phải tuân thủ lệ bản luật mường mà vui lòng tiếp nhận lấy con rể của mình. Sau đó, ông bà mối trở về báo lại với án nhamọi việc và chuẩn bị cho lễ dạm hỏi. * Lệ “hỏi dứt lời, dạm đứt giá” Có thể hiểu nôm na đây là biệc dạm ngõ và thách cưới giữa hai bên nhà trai và nhà gái để thống nhất trước khi đám cưới diễn ra. Theo luật tục Thái, khi con trai quý tộc lấy vợ, luật mường nói: “án nha, phìa cùng bô lão toàn mường cử viên ông chang – người khéo ăn nói đi thương lượng vói lung ta. Trong mọi điều mọi việc bản mường phải thu xếp như thế nào, trong chi phí dù có phải tốn kém miễn sao cưới được “nàng ngọc hoa vàng” đến ăn ở bên cạnh tạo mường, trở thành mẹ mường bà mường.[14; tr 512] Tục ngữ có câu: “lệ bản 12 luật mường 24” – lung ta phải mở lời lẽ thông suốt nói hết “luật 24”. Nhưng người Thái nghĩ tái lệ Thái: “ăn xem lòng, diện 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan