Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tư tưởng về “đạo làm người” và con đường đạt tới nó trong “bài giảng trên núi” c...

Tài liệu Tư tưởng về “đạo làm người” và con đường đạt tới nó trong “bài giảng trên núi” của chúa kitô

.PDF
78
545
113

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN XUÂN TOÁN TƯ TƯỞNG VỀ “ĐẠO LÀM NGƯỜI” VÀ CON ĐƯỜNG ĐẠT TỚI NÓTRONG “BÀI GIẢNG TRÊN NÚI” CỦA CHÚA KITÔ Chuyên ngành: Triết học Mã số : 60.22.03.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS ĐỖ LAN HIỀN Hà Nội - 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Đỗ Lan Hiền. Công trình này chưa được công bố trên bất kỳ tạp chí, sách, báo nào. Các tài liệu, trích dẫn trong luận văn là hoàn toàn trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Tp. Hồ Chí Minh, ngày…..tháng….năm 2016 Tác giả luận văn Nguyễn Xuân Toán MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: SỰ RA ĐỜI BÀI GIẢNG TRÊN NÚI CỦA CHÚA KITÔ .. 14 1.1. Các điều kiện kinh tế - xã hội, chính trị và văn hóa, các tiền đề lý luận cho sự ra đời tư tưởng “đạo làm người” trong Bài giảng trên núi của Chúa Kitô .............................................................................................................. 14 1.2. Khái quát Bài giảng trên núi của Chúa Kitô ........................................ 28 Chương 2: TƯ TƯỞNG “ĐẠO LÀM NGƯỜI” VÀ “CON ĐƯỜNG ĐẠT ĐẠO” TRONG BÀI GIẢNG TRÊN NÚI CỦA CHÚA KITÔ ................ 36 2.1. “Đạo làm người” trong Bài giảng trên núi của Chúa Kitô .................. 36 2.2. Con đường đạt tới “đạo làm người” trong Bài giảng trên núi của Chúa Kitô .............................................................................................................. 49 2.3. Những giá trị và hạn chế tư tưởng “đạo làm người” trong Bài giảng trên núi của Chúa Kitô ....................................................................................... 59 KẾT LUẬN .................................................................................................... 67 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 69 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT Dn Danien Dt Do Thái Ga Gioan Gv Giảng viên Lc Luca Ml Malakhi Mt Matthêu Rom Roma MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 9.10.2014 của Bộ Chính trị về Công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030 khẳng định: một trong 2những nhiệm vụ quan trọng của giới lý luận nước ta trong thời gian tới là “Xây dựng văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực để phát triển đất nước, văn hóa phải đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc đi đôi với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Phát triển văn hóa để xây dựng con người phát triển toàn diện”[19]. Ngày nay, chúng ta đang thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” và chúng ta đã đạt được những thành công nhất định trong sự nghiệp trọng đại này. Mức sống và chất lượng sống của người dân đã từng bước được cải thiện. Những thành quả của công cuộc đổi mới đất nước tạo ra những tiền đề cần thiết cho sự phát triển toàn diện con người. Trong những năm gần đây, toàn cầu hoá đã trở thành xu thế tất yếu đang chi phối cuộc sống của mọi quốc gia. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã góp phần làm cho xã hội Việt Nam năng động hơn, phát triển hơn, con người trở nên tự tin hơn. Kinh tế thị trường cũng trở thành một lực đẩy quan trọng đối với dân chủ và dân chủ hoá đời sống xã hội. Song mặt trái của nền kinh tế thị trường đã thâm nhập rất mạnh vào tâm lý, lối sống của người Việt Nam. Con người hiện nay quá bận tâm với các nhu cầu và tiện nghi vật chất. Họ ít chú trọng phát triển nhân cách và thế giới tinh thần của mình. Trước sự quyến rũ về vật chất, họ lãng quên những chân giá trị tinh thần như tình bác ái, sẻ chia, lòng trắc ẩn, v.v... Các kỳ Đại hội Đại biểu toàn quốc gần đây đều nhận định, đánh giá tình trạng suy thoái về đạo đức, cụ thể, 1 Văn kiện Đại hội XI (2011) đã chỉ ra rằng: “Môi trường văn hóa bị xâm hại, lai căng, thiếu lành mạnh, trái với thuần phong mỹ tục, các tệ nạn xã hội, tội phạm và sự xâm nhập của các sản phẩm và dịch vụ độc hại làm suy đồi đạo đức, nhất là trong thanh, thiếu niên, rất đáng lo ngại” [17, tr.169],“xu hướng thương mại hóa và sa sút đạo đức trong giáo dục khắc phục còn chậm, hiệu quả thấp, đang trở thành nỗi bức xúc của xã hội” [17, tr.168]. Văn kiện Đại hội XII tiếp tụcnhấn mạnh “ Môi trường văn hóa còn tồn tại những biểu hiện thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội và một số loại tội phạm có chiều hướng gia tăng” [18, tr.125], Vì vậy, việc thức tỉnh con người nhớ đến những giá trị tinh thần cao cả đã được các thánh nhân tạo dựng có một ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách. Trong văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định “Tiếp thu tinh hoa văn hóa của các dân tộc trên thế giới để làm giàu thêm nền văn hóa Việt Nam”[15, tr.111]. Tôn giáo đã từng tồn tại lâu dài cùng với quá trình lịch sử loài người, nên cần phải xem nó là một bộ phận di sản văn hóa tinh thần của nhân loại. Trong quá trình phát triển, phổ biến trên quy mô toàn thế giới, tôn giáo không chỉ đơn thuần chuyển tải niềm tin của con người mà còn có vai trò chuyển tải, hoà nhập văn hóa và văn minh, góp phần duy trì đạo đức xã hội qua các thế hệ. Nó có ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống tinh thần của con người. Với tư cách một hệ giá trị tinh thần nhân văn, tôn giáo đã có những biểu hiện độc đáo thể hiện trong cách ứng xử, lối sống, phong tục, tập quán, trong các yếu tố văn hóa vật chất cũng như tinh thần của cộng đồng xã hội, của mỗi khu vực, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc [37]. Kitô giáo là một trong ba tôn giáo thế giới, mang trong mình những giá trị tinh thần tốt đẹp, phản ánh truyền thống văn hóa phương Tây và một bộ phận của văn hóa chung nhân loại. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Tôn giáo của Zêsu có ưu điểm là lòng nhân ái cao cả”[71, tr.152]. Những giá trị 2 tinh thần của Kitô giáo rất gần gũi với những giá trị tinh thần truyền thống tốt đẹp của người Việt, đặc biệt là tinh thần tương thân, tương ái [26]. Cuộc sống không chỉ dựa trên lợi ích vật chất mà còn cần đến những giá trị tinh thần, những giá trị về đạo đức cao cả. Con người không chỉ thỏa mãn với tiền tài, địa vị mà còn cần hơn nữa sự cảm thông và chia sẻ tình người, cần đến sự bao dung, tha thứ, cảm thông; Kitô giáo hướng con người đến tình yêu tha nhân như rường cột của một cuộc sống đích thực. Như vậy, nghiên cứu tôn giáo nói chung, tư tưởng về đạo làm người của Kitô giáo nói riêng là một trong những nhiệm vụ nghiên cứu của bộ môn lịch sử triết học. Song, việc nghiên cứu này còn tạo điều kiện để chúng ta giải quyết những vấn đề thực tiễn là hoàn thiện đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân nhờ tiếp thu những giá trị chung của nhân loại và những giá trị nhân văn của Kitô giáo. Kitô giáo có những ảnh hưởng nhất định đến văn hóa Việt Nam và đặc biệt là đã ảnh hưởng không nhỏ đến đạo đức, lối sống của một bộ phận giáo dân Việt Nam. Việc tiếp thu những giá trị tinh thần của Kitô giáo trong điều kiện đạo đức của một bộ phận xã hội bị suy thoái đạo đức do tác động tiêu cực của kinh tế thị trường và toàn cầu hóa có ý nghĩa quan trọng. Tinh hoa đạo đức ("đạo làm người") của Kitô giáo được đúc kết trong Bài giảng trên núi (vẫn quen được gọi là tinh hoa của Phúc âm, Phúc âm của Phúc âm) có thể cộng hưởng với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, góp phần tích cực trong việc giáo dục đạo đức con người và xã hội hôm nay. Xuất phát từ những lý do nêu trên, tôi chọn đề tài “Tư tưởng về “đạo làm người” và con đường đạt tới nó trong “Bài giảng trên núi” của Chúa Kitô ” làm đề tài luận văn thạc sĩ triết học của mình. 2. Tình hình nghiên đề tài Ngoài những cơ sở lý luận chung của lịch sử triết học mác xít, như quan niệm duy vật về lịch sử, nguyên lý biện chứng duy vật và các phương 3 pháp nghiên cứu lịch sử tư tưởng, theo chúng tôi, để tiếp cận với tư tưởng “đạo làm người” của Kitô giáo, cần phải quan niệm nó là sự kết tinh tinh hoa văn hóa của thời đại tương ứng cả trong và ngoài nước. Tình hình nghiên cứu trên thế giới Từ trước đến nay, đề tài Kinh Thánh đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều chuyên gia, học giả cả trong và ngoài Kitô giáo, các nhà hoạch định chính sách, các tổ chức quốc tế, và cho đến hiện nay có nhiều công trình khoa học nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau về đề tài này đã được công bố. Tiêu biểu trong số đó có các công trình sau: “A new Catechism Catholic Faith ForAdults”(Giáo lý mới Thời đại mới) do các học viện giáo lý Hòa Lan biên soạn, được Nxb. Herder and herder New York ấn hành năm 1967. Trong cuốn sách này, đã phân tích, trình bày khá đầy đủ về nhân quan Kitô giáo về đời sống nhân loại đến Đường tới Đức Kitô. Trong cuốn sách còn giới thiệu chung về các tôn giáo lớn và các học thuyết xã hội nhân bản với những đường nét tương hợp và khác biệt với Công giáo bằng cách nhìn nhận tôn trọng tương đối khách quan, nhưng dĩ nhiên vẫn theo một nhân quan Kitô giáo. Ngoài ra, trọng tâm của cuốn sách là đã diễn giải về lịch sử Cứu độ từ sự ra đời của Đấng Cứu thế đến nhiệm vụ cứu chuộc và mầu nhiệm Thánh linh trên giáo hội; diễn giải về Giáo hội hữu hình ở trần thế và những phương thế để giáo hội thông ban ơn cứu độ cho mọi tín hữu; diễn giải về kết cục của con người cái chết và thế giới bên kia của sự sống trần thế; Lynne Bundesen, “The Woman's Guide to the Bible”(Kinh Thánh hướng đến phụ nữ) được xuất bản bởi John Wiley & Sons, 1993. Cuốn sách đã phân tích, chỉ ra những giá trị thuộc về sức mạnh tinh thần của phụ nữ trong Kinh Thánh, thông qua các câu chuyện của các phụ nữ trong Kinh Thánh; đồng thời cuốn sách còn phân tích những trở ngại và thuận lợi của phụ 4 nữ trên con đường đến với Kinh Thánh; “Tôn giáo và đời sống hiện đại” của Viện Thông tin Khoa học xã hội thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, xuất bản năm 2004. Đây là loạt sách đã trình, giới thiệu những vấn đề chung nhất về các tôn giáo trên thế giới, từng khu vực và từng nước, thông qua việc trình bày khái quát những đặc trưng mang tính lịch sử, quá trình hình thành, du nhập, truyền bá và phát triển của các tôn giáo lớn, trong đó có Kinh Thánh của đạo Công giáo; Ngoài ra, các cuốn sách đó cũng đã khái quát thực trạng tôn giáo và chính sách tôn giáo của một số nước, cũng như phân tích ảnh hưởng của các tôn giáo đối với đời sống xã hội hiện đại; Lynne Bundesen, The Feminine Spirit, Recapturing the Heart of Scripture The Woman's Guide to the Bible” (Sức mạnh tinh thần – Kinh Thánh hướng dẫn cách chiếm được trái tim của Phụ nữ), được xuất bản bởi John Wiley&Sons, 2007. Trong công trình này, Lynne Bundesen đã đi sâu phân tích bộ sách Kinh Thánh nhằm mô tả về Thiên Chúa là ai, ngoài ra công trình còn phân tích một cách sâu sắc con đường, cách thức cho phụ nữ vượt qua định kiến, tư tưởng gia trưởng trọng nam kinh nữ đang chiếm ưu thế trong xã hội để người phụ nữ có vị trí và vai trò của mình trong xã hội; Trong cuốn “Christian and social issues” (Kitô giáo và những vấn đề xã hội), xuất bản tại New York, năm 1998, được viết bởi R.L Stine, tác giả đã phân tích khá sâu sắc về địa vị xã hội và số phận của con người; mối quan hệ của con người với phần thế giới còn lại, lịch sử loài người do có sự giáng thế của Thiên chúa. Trong đó, R.L Stine đã phân tích, nhìn nhận các hiện tượng của xã hội dưới góc nhìn nhân văn của con người được thể hiện trong Kinh Thánh, từ đó R.L Stine đã khẳng định chỉ có Kinh Thánh mới có thể khắc phục được những hiện tượng xã hội mang tính tiêu cực của con người do sự tiến bộ của khoa học và kỹ thuật trong xã hội hiện đại gây ra; 5 Công trình của Kathleen Norris“Thiện hành trong tu viện”, được Nguyễn Kim Dân biên dịch, Nxb. Tôn Giáo, xuất bản năm 2009. Trong công trình này, Kathleen Norris đã tìm hiểu, phân tích khá sâu sắc về đức tin; ngoài ra Kathleen Norris đã đưa ra những minh chứng rằng những người mộ đạo không quá cứng nhắc trong nghi thức; Kathleen Norris đã cho rằng các tu sĩ cũng là những con người. Họ cũng nói chuyện phiếm, cười đùa, ngủ gật trong nhà thờ, đau khổ vì những căng thẳng như nhiều người trong chúng ta. Thật khó mà không thán phục sự quyết tâm của Kathleen Norris trong việc khôi phục lại những nguyên tắc trong tu viện và cố gắng giải thích chúng; Cuốn sách của Jean-Baptite Duroselle và Jean-Marie Mayeur: “Lịch sử đạo Thiên Chúa”, do Trần Chí Đạo dịch, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2004. Cuốn sách đã cung cấp cái nhìn tổng thể và trình bày một cách khái quát nhất về lịch sử đạo Thiên Chúa và Kinh Thánh của đạo Công giáo; Trong cuốn sách cùa Pearl Buck: “Chuyện Kinh Thánh” doNguyễn Ước dịch, được Nxb. Văn học, Hà Nội, giới thiệu năm 2003. Trong tác phẩm này, có thể nói Pearl Buck đã trình bày một cách cô động bằng sự kết hợp giữa truyền thống đông tây, cả văn học lẫn tôn giáo về cuộc phấn đấu của con người, nam lẫn nữ, trong nỗ lực tìm kiếm cội nguồn của mình và nguyên thủy của sự sống và sự chết, về bản nguyên của vũ trụ; Cuốn sách của GS,TS. Trác Tân Bình: “Lý giải Tôn giáo” do Trần Nghĩa Phương dịch, Nxb. Hà Nội giới thiệu năm 2008, Trong công trình này, tác giả đã trình bày và lí giải về các tôn giáo ở Trung Quốc và trên thế giới. Tác giả đặc biệt chú trọng mô tả những hiện tượng biểu hiện bên ngoài của các tôn giáo nói chung và đạo Công giáo nói riêng; đồng thời tác giả đi sâu phân tích mổ xẻ kết cấu nội tại của các tôn giáo và trong đó hiển nhiên có Kinh Thánh của đạo Công giáo, nhằm đạt đến sự lí giải chân thực thế giới tâm linh tôn giáo, qua đó làm nổi bật hết sức khách quan mối quan hệ gắn bó giữa 6 tôn giáo và đời sống xã hội hiện thực của nhân loại. Công trình “Folk-lore in the Old Testament: Studies in Comparative Religion, Legend and Law” (Văn hóa dân gian trong Kinh Cựu Ước: Nghiên cứu so sánh Tôn giáo, Thần Thoại và Luật) của James George Frazer, Nxb. Kessinger Publishing, LLC, năm 2010. Công trình được coi là di sản chung thời cổ đại và sơ khai, trong đó James George Frazer đã nghiên cứu, phân tích khá sâu sắc về văn học – văn hóa dân gian, những giá trị đạo đức, nhận thức, niềm tin của con người về thế giới thông qua nhiều câu chuyện huyền thoại của bộ lạc Do Thái cổ được ghi trong Kinh Thánh; “The Genesis Flood – The Biblical Record and its Scientific i2mplications” (Khi trận lũ bắt đầu – Những điều ghi trong Kinh Thánh và ý nghĩa khoa học của nó) được viết bởi Tiến sĩ Henry M. Morris và Tiến sĩ John C. Whitcomb, Nxb. P & R, xuất bản năm 2011. Trong cuốn sách này, các tác giả đã phân tích và cung cấp cái nhìn về sự tiến hóa của các loài động vật dưới góc nhìn của Kinh Thánh; Sự sống trên trái đất; trận lũ toàn cầu, thế giới động vật trên cạn phải làm gì để có thể tồn tại theo cách lý giải của Thiên Chúa trong Kinh Thánh; Trong công trình “The Human Condition” (Triển vọng của con người) của Robert G. Bednarik, đăng trên Tạp chí B. K. Hall, Choice, Vol. 49, Số 6, Tháng 2, 2012, tác giả cho rằng, nội dung quan trọng nhất của Kinh Thánh không phải là hệ vấn đề giáo lý hay tổ chức giáo hội, mà là vấn đề nguồn gốc loại người và hiện sinh của con người. Chính vấn đề giải phóng con người mới là con đường, phương thức khắc phục sự tha hóa của con người. Đây cũng là nội dung quan trọng của Kinh Thánh được Robert G. Bednarik quan tâm phân tích, nghiên cứu và giải quyết nhờ đối chiếu giữa giải pháp Mác-xít với giải pháp Kitô giáo; Cuốn sách “Bible and Astronomy” (Kinh Thánh và Thiên văn học) của 7 tiến sĩ John C. Whitcomb, Nxb. Answers in Genesis. Trong công trình này, John C. Whitcomb đã phân tích, tổng hợp nhiều câu hỏi về thiên văn học và bên ngoài không gian, tiêu biểu như: Có cuộc sống ngoài không gian? Tại sao vạn vật phát triển?Liệu có một vụ nổ lớn trong vũ trụ? Chúng ta có thể thấy những ngôi sao xa xôi trong vũ trụ?…từ đó phân tích, luận giải những câu hỏi trên theo góc nhìn của Kinh Thánh; Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam Trong những thập niên gần đây, những vấn đề trong Kinh Thánh đã thu hút sự quan tâm đặc biệt của các nhà khoa học trong và ngoài Kitô giáo, các tổ chức chính trị, xã hội, văn hóa và khoa học trên cả nước. Và, cho đến hiện nay, nhiều công trình khoa học nghiên cứu về đề tài này đã được công bố. Có thể khái quát các công trình tiêu biểu trong số đó như sau: “Tôn giáo và đời sống hiện đại” của Viện Thông tin Khoa học xã hội thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, xuất bản năm 2004. Đây là loạt sách đã trình, giới thiệu những vấn đề chung nhất về các tôn giáo trên thế giới, từng khu vực và từng nước, thông qua việc trình bày khái quát những đặc trưng mang tính lịch sử, quá trình hình thành, du nhập, truyền bá và phát triển của các tôn giáo lớn, trong đó có Kinh Thánh của đạo Công giáo; Ngoài ra, các cuốn sách đó cũng đã khái quát thực trạng tôn giáo và chính sách tôn giáo của một số nước, cũng như phân tích ảnh hưởng của các tôn giáo đối với đời sống xã hội hiện đại; Cuốn sách “Tôn giáo và mối quan hệ văn hóa và phát triển ở Việt Nam” của Nguyễn Hồng Dương, Nxb. Khoa học xã hội, xuất bản năm 2004 tại Hà Nội. Trong cuốn sách này, tác giả đã trình bày khái quát một số vấn đề lý luận để giải quyết mối quan hệ giữa tôn giáo và văn hóa; đặc biệt cuốn sách đã phân tích khá sâu sắc vị trí, vai trò và ảnh hưởng của đạo Công giáo nói chung và những chuẩn mực trong Kinh Thánh nói riêng đến văn hóa và sự 8 phát triển của đời sống xã hội Việt Nam hiện đại, cũng như vai trò của lễ hội tôn giáo nói chung và đạo đạo Công giáo nói riêng đến văn hóa Việt Nam và nêu lên những đề xuất về chính sách văn hóa đối với tôn giáo; Cuốn “Đại cương lịch sử triết học phương Tây”, Nxb. Đại học Tổng hợp Hồ Chí Minh, Tp. HCM, 2006 của nhóm tác giả Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Thanh, Nguyễn Anh Tuấn chỉ ra triết học Hy Lạp cổ đại là tiền đề quan trọng của tư tưởng “đạo làm người” của Kitô giáo. Các tác giả khẳng định “Kitô giáo đánh dấu một bước ngoặt triệt để trong tư duy triết học… việc phổ biến Kitô giáo đồng thời cũng có nghĩa là sự xuất hiện một triết học mới” [23, tr. 121]. Trong cuốn sách này, các tác giả đã phân tích bốn phương diện nội dung nhân học triết học Hy Lạp cổ đại đã được kế tục một cách có phê phán và vượt bỏ trong Kinh Thánh để hình thành tư tưởng “đạo làm người” của Kitô giáo là (1) chủ nghĩa nhân cách; (2) tư tưởng sáng thế; (3) chủ nghĩa con là người trung tâm; (4) tư tưởng về niềm tin, hy vọng và tình yêu [23, tr. 122128]. Cuốn “Tôn giáo học nhập môn”Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2006 do Đỗ Minh Hợp (chủ biên), trong đó các tác giả cho rằng, tư tưởng đạo đức Kitô giáo là quan điểm về các nhân đức thể hiện trên các mặt chính trị - xã hội, kinh tế và đạo đức được luận chứng về mặt triết học và thần học nhờ viện dẫn vào Kinh Thánh. Tư tưởng này biểu hiện khủng hoảng của những giá trị văn hóa nhân sinh cổ đại Hy Lạp cổ đại: thói ích kỷ, thái độ thờ ơ đối với đau khổ của người khác, và cho rằng các giá trị tinh thần của Kitô giáo với cốt lõi là “tình yêu tha nhân” chính là lối thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng ấy. Sự tồn tại và phát triển của văn minh cổ đại bị đe dọa, đòi hỏi tạo dựng một hệ thống giá trị văn hóa tinh thần mới.Kitô giáo đáp ứng nhu cầu tinh thần này. Công trình “Tôn giáo - Lý luận xưa và nay”, do Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn Thanh, Lê Hải Thanh (đồng biên soạn), được Nxb. Tổng 9 hợp TP. Hồ Chí Minh giới thiệu năm 2006. Trong công trình này, các tác giả đã phân tích khái quát những cơ sở lý luận của tôn giáo học; trình bày khái quát lịch sử tôn giáo; phân tích khá sâu sắc một số thuật ngữ cơ bản của tôn giáo; đặc biệt các tác giả đã chỉ ra được tính đặc thù của triết học Kitô giáo nguyên thủy qua phản ánh sự bình đẳng trong quan hệ giữa con người với con người; lòng tham, sự giàu có và nghĩa vụ lao động của mỗi người; “Công giáo thế giới – tri thức cơ bản” của PGS, TS. Nguyễn Hồng Dương, Nxb. Từ điển Bách khoa, xuất bản năm 2012. Trong công trình này, tác giả đã giới thiệu những kiến thức cơ bản về các tôn giáo có nhiều tín đồ đang hiện hữu ở Việt Nam, trong đó có Kitô giáo. Ngoài ra, tác giả còn trình bày, phân tích khá kỹ về những tri thức cơ bản về Kitô giáo và Kinh Thánh: quá trình hình thành và phát triển (ra đời, lễ nghi và kinh sách, tổ chức, phân chia giáo phái, phát triển,…); quá trình du nhập vào Việt Nam; các cơ sở thờ tự; giải thích Kinh Thánh qua các thời kỳ,…; Công trình nghiên cứu của GS. Đặng Nghiêm Vạn: “Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam”, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, xuất bản năm 2012. Trong công trình này, tác giả đã phân tích khá toàn diện về mặt lý luận tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam, trong đó tác giả đã phân tích sâu sắc về đặc điểm và vai trò của tôn giáo Việt Nam nói chung và đạo Công giáo nói riêng trong đời sống hiện nay, đặc biệt là đời sống văn hóa khi đất nước đang bước vào đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động hội nhập vào xu thế toàn cầu hóa. Từ đó, công trình đã đề cập đến một số vấn đề về chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta; Trong công trình “Công giáo và Đức Kitô - Kinh Thánh qua cái nhìn từ phương Đông” của Lý Minh Tuấn, được Nxb. Tôn giáo, Hà Nội giới thiệu vào năm 2014. Trong công trình này, tác giả đã trình bày, phân tích khái quát mối quan hệ giữa Công giáo và Do Thái giáo; Ngũ kinh và những vấn đề liên 10 quan đến Ngũ kinh; đặc biệt tác giả đã phân tích khá sâu sắc những nội dung trong Kinh Cựu Ước và rút ra những giá trị của Kinh Cựu Ước đối với đời sống xã hội; Cuốn sách “Tôn giáo phương Đông - quá khứ và hiện tại” của Đỗ Minh Hợp (chủ biên), Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, xuất bản 2015. Trong cuốn sách này, tác giả đã trình bày về lịch sử hình thành và phát triển của các tôn giáo nói chung và đạo Công giáo nói riêng, về Kinh Thánh,… theo trình tự lịch đại khu vực và chủ yếu quan tâm tới những hình thức và biến thể khác nhau của các tôn giáo phương Đông, tác giả cũng đã trình bày các hệ thống tôn giáo dưới dạng khái quát có hệ thống, có so sánh theo thời gian; ngoài ra, tác giả cũng trình bày khái quát trạng thái hiện nay của các tôn giáo phương Đông, chỉ ra các xu hướng đổi mới, thích nghi của nó với nhu cầu hiện nay. Có thể nói, nguồn tư liệu nghiên cứu về lĩnh vực này còn hạn chế và khá chung chung, chưa đem lại một cái nhìn tổng quát về con đường thực hiện“đạo làm người” của tín đồ Công giáo Việt Nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn có mục đích là làm rõ tư tưởng “đạo làm người” trong Bài giảng trên núi của Kitô Giêsu. Để đạt tới mục đích này, luận văn sẽ giải quyết các nhiệm vụ sau đây: Thứ nhất, trình bày các điều kiện kinh tế - xã hội, chính trị và văn hóa cho sự ra đời tư tưởng “đạo làm người” trong Bài giảng trên núi của Kitô Giêsu. Thứ hai, phân tích các nội dung cơ bản của tư tưởng “đạo làm người” trong Bài giảng trên núi của Kitô Giêsu. Thứ ba, đánh giá khái quát về tư tưởng “đạo làm người” trong Bài giảng trên núi của Kitô Giêsu. 11 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tư tưởng “đạo làm người” trong Bài giảng trên núi của Kitô Giêsu qua các tác phẩm kinh điển của đạo Kitô. Phạm vi nghiên cứu: giới hạn nghiên cứu chủ yếu qua bản Kinh Thánh Tân Ước do Hội đồng Giám mục Việt Nam biên dịch, xuất bản và ấn hành năm 2014. Ngoài ra, luận văn sẽ tham khảo các bản dịch Kinh Thánh của linh mục Nguyễn Thế Thuấn, Tòa tổng Giám mục Sài Gòn, xuất bản năm 1975; của Hồng y Trịnh Văn Căn, Tòa Tổng Giám mục Hà Nội xuất bản năm 1985; của Nhóm phiên dịch “Các giờ kinh phụng vụ” do Nxb TP. Hồ Chí Minh ấn hành năm 1998. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận: luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác –lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt nam về tôn giáo. Phương pháp luận nghiên cứu của luận văn là phương pháp biện chứng duy vật, ngoài ra luận văn sẽ sử dụng phương pháp như phân tích, tổng hợp, lịch sử, khái quát, so sánh, văn bản học, nhân học văn hóa, v.v. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần nhận thức sâu sắc hơn tư tưởng đạo đức của Kitô giáo. Ý nghĩa thực tiễn: những luận điểm được trình bày trong luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu giảng dạy và nghiên cứu nội dung đạo đức học Kitô giáo, làm cơ sở lý luận để hoạch định chính sách phát huy những giá trị nhân văn Kitô giáo trong việc tổ chức và định hướng giá trị cho đời sống đạo của Kitô hữu ở nước ta hiện nay. 12 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 2 chương, cụ thể như sau: Chương 1: Sự ra đời bài giảng trên núi của Kitô Giêsu. Chương 2: Tư tưởng “đạo làm người” và “con đường đạt đạo” trong bài giảng trên núi của Kitô Giêsu. 13 Chương 1 SỰ RA ĐỜI BÀI GIẢNG TRÊN NÚI CỦA CHÚA KITÔ 1.1. Các điều kiện kinh tế - xã hội, chính trị và văn hóa, các tiền đề lý luận cho sự ra đời tư tưởng “đạo làm người” trong Bài giảng trên núi của Chúa Kitô Theo Phúc âm Matthêu, Bài giảng trên núi là bài thuyết giáo được Chúa Giêsu giảng cho các môn đệ và đám đông lớn trên một ngọn núi vào khoảng năm 30 Công nguyên (Mt5, 1;7, 28). Nơi diễn ra bài giảng được cho là một ngọn núi ở bờ bắc của biển Galilee, gần Capernaum mà ngày nay gọi là núi Bát Phúc. Bài giảng ra đời cùng với sự ra đời của Kitô giáo phản ánh tồn tại xã hội của vùng Palestine thuộc đế chế LaMã từ đầu Công nguyên. Hay nói cách khác, sự ra đời Bài giảng trên núi của Kitô Giêsu luôn gắn liền với những điều kiện về kinh tế – xã hội, chính trị và văn hóa, có tiền đề lý luận của mình và phản ánh đời sống xã hội đương thời. 1.1.1. Các điều kiện kinh tế - xã hội, chính trị và văn hóa cho sự ra đời tư tưởng “đạo làm người” trong Bài giảng trên núi của Chúa Kitô Đạo Kitô xuất phát từ tư tưởng “đối thần – đối nhân” (“đạo”, hai giá trị cốt lõi là “kính Chúa – yêu người” của Cựu Ước). Song trong điều kiện lịch sử mới, Chúa Kitô đã tiếp tục phát triển tư tưởng ấy bằng cách nêu bật những nhân đức mà con người cần phải có để đạt tới “đạo” ấy. Tám mối phúc thật được Ngài trình bày trong Bài giảng trên núi bao chứa toàn bộ tinh thần của học thuyết Kitô và qua đó cũng chính là sự kết tinh tinh thần của thời đại lịch sử tương ứng. Như vậy, nói tới các điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội và văn hóa cho sự ra đời của tư tưởng “đạo làm người” trong Bài giảng trên núi của Kitô Giêsu cũng đồng nghĩa với việc nói tới các điều kiện kinh tế, chính trị xã hội và văn hóa cho sự ra đời của đạo Kitô. 14 Về điều kiện kinh tế - xã hội: Bài giảng trên núi của Chúa Giêsu ra đời vào đầu Công nguyên ở vùng đất Palestine, thuộc địa của đế chế La Mã. Thế nhưng, không thể không nhắc đến những biến cố lịch sử của dân Israel từ khoảng 600 năm trước Công nguyên như một tiến trình lịch sử cho quá trình ra đời và phát triển của Kitô giáo, cũng như sự ra đời bài giảng. Đầu công nguyên, Đế chế La Mã được xem là thời kỳ cực thịnh; cai trị cả một vùng lãnh thổ khổng lồ về tài nguyên, thiên nhiên và con người. Nền kinh tế lúc bấy giờ của đế chế La Mã khá đa dạng: nông nghiệp, ngư nghiệp, thủ công nghiệp, dịch vụ, ngoại thương, ngân hàng và đặc biệt là buôn bán nô lệ. Kinh tế nông nghiệp chủ yếu là trồng lúa mì, ép rượu nho, ép dầu ô liu. Hàng hóa nông nghiệp ngoài cung cấp cho nhu cầu trong nước họ còn dùng để trao đổi với các quốc gia khác như Ấn Độ, Ba Tư v.v… Lúc bấy giờ, các ngành thủ công nghiệp khá phát triển như nghề dệt vải, làm bồn chứa, đóng ghe, thuyền v.v... Kỹ nghệ và chế tạo đồ dùng với mức hoạt động khá nhỏ, các công việc khai mỏ và khai thác đá xây dựng khá nhộn nhịp. Tuy nhiên, trong lĩnh vực sản xuất gạch xây dựng cũng có những xí nghiệp lên đến hàng trăm người. Một số nhà viết sử mô tả sự phát triển kinh tế ở thời kỳ đầu của La Mã đã thúc đẩy nghành kỹ nghệ và nghệ thuật phát triển, đặc biệt ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền kinh tế thời Phục Hưng và về sau này của Châu Âu. Mặc dù nền kinh tế của đế chế khá phát triển, nhưng do phải nuôi bộ máy chính quyền khá lớn, đặc biệt là phải nuôi đội quân hùng mạnh bậc nhất thế giới lúc bấy giờ, phải phục vụ cho các cuộc viễn chinh và bảo vệ đế chế trước các thế lực khác xâm hại liên tục, nên người dân phải nộp thuế rất nặng, dẫn đến cuộc sống kinh tế người dân lao động vẫn cùng khổ. Lúc này giai cấp trong xã hội được chia làm ba hạng người rất rõ rệt: người có quyền công dân Rôma, người tự do nhưng không có quyền công dân Rôma và nô lệ. Những người có quyền công dân Rôma sẽ có rất nhiều lợi thế, 15 như được miễn một số loại thuế, không bị đánh đòn trước toà, có thể kháng án lên hoàng đế. Những người dân tự do nhưng không có quyền công dân Rôma được coi là dân thường. Họ phải tuân thủ pháp luật và không có đặc quyền gì. Phần lớn dân số là những người nô lệ. Thời kỳ này, chế độ chiếm hữu nô lệ đã phát triển mạnh. Nó được thể hiện bằng nhiều cuộc đấu tranh giữa nô lệ với chủ nô nhằm chống lại sự bóc lột tàn bạo của chủ nô. Các cuộc đấu tranh giành quyền lực giữa các quốc gia nổ ra triền miên để tranh giành đất đai và nô lệ. Vào những thập niên đầu Công nguyên, đế chế La Mã đã chuyển từ chế độ thị tộc sang chế độ xã hội có giai cấp. La Mã là một đế chế chiếm hữu nô lệ và là nhà nước có quân đội hùng mạnh nhất thế giới khi đó. Nhà nước chiếm hữu nô lệ hùng mạnh nhất cũng có nghĩa là nhà nước có nhiều nô lệ nhất, và chế độ nô lệ ở đây cũng khắc nghiệt nhất. Nô lệ là tầng lớp tận cùng của xã hội, bị coi như những súc vật biết nói. Người ta có thể mua bán nô lệ như mua bán súc vật. Tầng lớp nô lệ bị áp bức dã man, bị bóc lột tàn khốc. Đây là nguyên nhân khiến họ liên kết để đấu tranh chống lại tầng lớp chủ nô. Trong những cuộc nổi dậy của nô lệ thì khởi nghĩa do Spactacus lãnh đạo vào những năm73-71 Tr.Cn đã gây được tiếng vang rất lớn. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, cuộc khởi nghĩa này cũng bị dìm trong biển máu. Kết cục là anh hùng nô lệ Spartacus bị hành hình. Cuộc khởi nghĩa không thành nên mâu thuẫn giữa chủ nô và nô lệ, giữa giới quý tộc với giới bình dân càng gay gắt hơn. Những người nghèo khổ càng ngày càng cùng khổ hơn. Niềm hy vọng được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột của họ đã hoàn toàn bị dập tắt. Có một thực tế rằng, khi con người tỏ ra bất lực trước đời sống hiện thực, trước các lực lượng thống trị vật chất, thì con người chỉ biết dựa vào đời sống tinh thần, đặc biệt là tôn giáo. Và sự ra đời Bài giảng trên núi là sự bảo 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan