Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tư tưởng hồ chí minh về xây dựng nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân và...

Tài liệu Tư tưởng hồ chí minh về xây dựng nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân và vận dụng trong công cuộc đổi mới hiện nay

.DOC
19
414
100

Mô tả:

Lời mở đầu Khát vọng cháy bỏng trong cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh là giành độc lập cho dân tộc, đem lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Người đã từng nói : "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành". Khát vọng và lý tưởng ấy đã thôi thúc, quán xuyến mọi suy nghĩ, hành động trong suốt cuộc đời cách mạng của Người. Mặc dù Người đã đi xa nhưng những tư tưởng của Người vẫn còn mãi mãi và thực tế đã trở thành tài sản tinh thần quý báu của Đảng và của cả dân tộc. Vận dụng tư tưởng của Người, Đảng ta đã và đang xây dựng một nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân, nhằm đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Để hiểu hơn tư tưởng của Người và sự vận dụng những tư tưởng ấy của Đảng trong xây dựng nhà nước, nhóm 3 đã nghiên cứu đề tài : “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân và vận dụng trong công cuộc đổi mới hiện nay”. Đề tài bao gồm 3 nội dung chính : I. Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân 1. Nhà nước của dân 2. Nhà nước do dân 3. Nhà nước vì dân III. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân trong công cuộc đổi mới hiện nay 1. Những vấn đề thực tiễn 2. Vận dụng trong công cuộc đổi mới hiện nay 1 I. Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ : Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ nói chung và về quyền làm chủ của nhân dân nói riêng là kết quả của sự nhận thức sâu sắc về vai trò của nhân dân trong lịch sử, là kết quả của sự kết hợp giữa tư tưởng nhân dân truyền thống ở phương Đông và quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng trong học thuyết Mác Lênin. Kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, giữa lý luận và thực tiễn – Hồ Chí Minh đã nâng tư tưởng dân chủ lên một tầm cao mới vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nhân văn sâu sắc. Hồ Chí Minh quan niệm dân chủ có nghĩa là "dân là chủ". Khi xác định như thế, có lúc Hồ Chí Minh đem quan niệm "dân chủ" đối lập với quan niệm "quan chủ ". Đây là khái niệm được Hồ Chí Minh diễn đạt ngắn gọn, rõ, đi thẳng vào bản chất của khái niệm trong cấu tạo quyền lực của xã hội. Qua đó Hồ Chí Minh còn cho rằng "Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước do nhân dân làm chủ". "Chế độ ta là chế độ dân chủ .Tức là nhân dân làm chủ" "Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ". Khi Hồ Chí Minh biểu đạt như thế chúng ta có thể hiểu rằng, dân là chủ, nghĩa là đề cập vị thế của dân ; còn dân làm chủ, nghĩa là đề cập năng lực trách nhiệm của dân.Hai điều này thể hiện vai trò ,vị trí, quyền và trách nhiệm của dân trong xã hội. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân là người giữ vai trò quyết định trên tất cả các lĩnh vực: từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội, từ những chuyện nhỏ có liên quan đến lợi ích của mỗi cá nhân đến những chuyện lớn như lựa chọn thể chế, lựa chọn người đứng đầu Nhà nước. Người dân có quyền làm chủ bản thân, nghĩa là có quyền được bảo vệ về thân thể, được tự do đi lại, tự do hành nghề, tự do ngôn luận, tự do học tập… trong khuôn khổ luật pháp cho phép. Vì sao dân có quyền hạn to lớn như vậy? Người giải thích: dân là gốc của nước. Dân là người đã không tiếc máu xương để xây dựng và bảo vệ đất nước. Nước không có dân thì không thành nước. Nước do dân xây dựng nên, do dân đem xương máu ra bảo vệ, do vậy dân là chủ của nước. Nhân dân đã cung cấp cho Đảng những người con ưu tú nhất. Lực lượng của Đảng có lớn mạnh được hay không là do dân. Nhân dân là người xây dựng, đồng thời cũng là người bảo vệ Đảng, bảo vệ cán bộ của Đảng. Dân như nước, cán bộ như cá. Cá không thể sinh tồn và phát triển được nếu như không có nước. Nhân dân là lực lượng biến chủ trương, đường lối của Đảng thành hiện thực. Do vậy, nếu không có dân, sự tồn tại của Đảng cũng chẳng có ý nghĩa gì. Đối với Chính phủ và các tổ chức quần chúng cũng vậy. Tóm lại, nhân dân là lực lượng dựng xây đất nước, là lực lượng hợp thành, nuôi dưỡng, bảo vệ các tổ chức chính trị, do vậy nhân dân có quyền làm chủ đất nước, làm chủ chế độ, làm chủ tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. 2 Làm thế nào để dân thực hiện được quyền làm chủ của mình? Đây là vấn đề được Hồ Chí Minh hết sức quan tâm. Theo Hồ Chí Minh, từ xưa đến nay, nhân dân bao giờ cũng là lực lượng chính trong tất cả các xã hội, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhưng trước Cách mạng Tháng Mười Nga, trước học thuyết Mác - Lênin, chưa có cuộc cách mạng nào giải phóng triệt để cho nhân dân, chưa có học thuyết nào đánh giá đúng đắn về nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, người dân chỉ thực sự trở thành người làm chủ khi họ được giáo dục, khi họ nhận thức được rõ ràng đâu là quyền lợi họ được hưởng, đâu là nghĩa vụ họ phải thực hiện. Để thực hiện được điều này, một mặt, bản thân người dân phải có ý chí vươn lên, mặt khác, các tổ chức đoàn thể phải giúp đỡ họ, động viên khuyến khích họ. "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu" và nếu nhân dân không được giáo dục để thoát khỏi nạn dốt thì mãi mãi họ không thể thực hiện được vai trò làm chủ. Người dân chỉ có thể thực hiện được quyền làm chủ khi có một cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của họ. Đảng phải lãnh đạo xây dựng được một Nhà nước của dân, do dân, vì dân; với hệ thống luật pháp, lấy việc bảo vệ quyền lợi của dân làm mục tiêu hàng đầu, xây dựng được đội ngũ cán bộ, đảng viên xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. II. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân : Hồ Chí Minh có quan điểm nhất quán về xây dựng một Nhà nước mới ở Việt Nam là một Nhà nước do nhân dân lao động làm chủ. Đây là quan điểm cơ bản nhất của Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Người sáng lập. Quan điểm đó xuyên suốt, có tính chi phối toàn bộ quá trình hình thành và phát triển của Nhà nước cách mạng ở Việt Nam. Hiểu một cách tổng quát nhất quan điểm “xây dựng nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân”, chúng ta thấy trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh có những nội dung sau đây : 1. Nhà nước của dân Quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh là xác lập mọi quyền lực trong tay Nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Quan điểm này của Hồ Chí Minh được thể hiện trong các hiến pháp do Người lãnh đạo soạn thảo : Hiến pháp năm 1946 và hiến pháp 1959. 3 Hiến pháp 1946 nêu rõ : - Mọi công việc quốc gia do dân phán quyết : Tất cả quyền bính trong nước đều là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo; những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra toàn dân phúc quyết. Nhân dân có quyền làm chủ về kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội, bầu ra Quốc hội – cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất thể hiện quyền tối cao của nhân dân. Nhân dân có quyền kiểm soát nhà nước, cử tri bầu ra các đại biểu, ủy quyền cho các đại biểu đó bàn và quyết định những vấn đề quốc kế dân sinh. Đây thuộc về chế độ dân chủ đại diện bên cạnh chế độ dân chủ trực tiếp. Chủ tịch Hồ Chí Minh, người công dân số 1, đại biểu đầu tiên của Quốc hội Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. - Nhân dân có quyền kiểm tra, giám sát nhà nước : Phải bảo đảm quyền kiểm soát của nhân dân đối với đại biểu được bầu ra... Tất cả các cơ quan Nhà nước phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, 4 lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân" Như vậy, bộ máy nhà nước phải do dân cử ra, tổ chức nên; hoạt động của Nhà nước phải lấy mục tiêu là phục vụ nhân dân, vì lợi ích của nhân dân. "Nhà nước xã hội chủ nghĩa và dân chủ nhân dân chỉ lo làm lợi cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động, ngày càng tiến bộ về vật chất và tinh thần, làm cho trong xã hội không có người bóc lột người''. Nhà nước được tổ chức trên cơ sở pháp luật; pháp luật cũng là nền tảng chủ yếu của mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân, bảo vệ sự an toàn về tính mạng, tài sản, danh dự và nhân phẩm cho con người. Những quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội được điều chỉnh bằng pháp luật và trên cơ sở tôn trọng uy quyền của pháp luật; là hình thức tổ chức quyền lực của nhân dân, do nhân dân lập nên và được kiểm tra, giám sát bởi nhân dân. - Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu quốc hội, hội đồng nhân dân : Quyền làm chủ của nhân dân thể hiện ở chỗ nhân dân có quyền bãi miễn những đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nào nếu những đại biểu đó tỏ ra không tín nhiệm với sự tín nhiệm của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, muôn đảm bảo được tính chất nhân dân của Nhà nước, phải xác định được và thực hiện được trách nhiệm của cử tri và đại biểu do cử tri bầu ra. Cử tri và đại biểu cử tri bầu ra phải có mối quan hệ chặt chẽ với nhau do bản chất của cơ chế này quy định. Và, khi không hoàn thành nhiệm vụ với tư cách là người đại biểu của cử tri thì cử tri có quyền bãi miễn tư cách đại biểu. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Nhân dân là chủ, Chính phủ là đầy tớ của nhân dân. Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ. Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân". Và cao hơn nữa là "Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ". Những tư tưởng đó của Hồ Chí Minh thật trong sáng, rõ ràng, thể hiện sâu sắc bản chất dân chủ của bộ máy nhà nước mà Người nỗ lực xây dựng. "Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do nhân dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân" Nhà nước phải có trách nhiệm tạo cho nhân dân thực thi quyền làm chủ của mình. Bằng thiết chế dân chủ, Nhà nước phải có trách nhiệm bảo đảm quyền làm chủ của dân, để nhân dân cho nhân dân thực thi quyền làm chủ của mình trong hệ 5 thống quyền lực của xã hội. Quyền lực của nhân dân được đặt ở vị trí tối thượng. Điều này có ý nghĩa thực tế nhắc nhở những người lãnh đạo, những đại biểu của nhân dân làm đúng chức trách vị thế của mình, không phải là đứng trên nhân dân, coi khinh nhân dân, “cậy thế” với dân, “quên rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho dân”. Một nhà nước như thế là một nhà nước tiến bộ trong bước đường phát triển của nhân loại. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh khai sinh ngày 2-9-1945 chính là Nhà nước tiến bộ chưa từng có trong hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam bởi vì đó là Nhà nước của dân, nhân dân có vai trò quyết định mọi công việc của đất nước. 2. Nhà nước do dân Nhà nước do dân lập nên, do dân ủng hộ, dân làm chủ. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh nhiệm vụ của những người cách mạng là phải làm cho dân hiểu, làm cho dân giác ngộ để nâng cao được trách nhiệm làm chủ, nâng cao được ý thức trách nhiệm chăm lo xây dựng Nhà nước của mình. Hồ Chí Minh khẳng định: Việc nước là việc chung, mỗi người đều phải có trách nhiệm “ghé vai gánh vác một phần”. Quyền lợi, quyền hạn bao giờ cũng đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước Việt Nam mới, nhân dân có đủ điều kiện, cả về pháp luật và thực tế, để tham gia quản lý nhà nước. Người nêu rõ quyền của dân, Nhà nước do dân tạo ra và nhân dân tham gia quản lý là ở chỗ: Toàn bộ công dân bầu ra Quốc hội - cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước, cơ quan duy nhất có quyền lập pháp. Chủ tịch Hồ Chí Minh trong một kỳ họp Quốc hội Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (1946) vốn là một Quốc hội lập hiến. Song do hoàn cảnh cách mạng và kháng chiến nên Hiến pháp năm 1946 chưa 6 được ban hành. Quốc hội đã giao cho Chính phủ và Ban Thường trực Quốc hội căn cứ vào các nguyên tắc đã định của Hiến pháp để thực thi việc lập pháp. Với tư cách là cơ quan quyền lực cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Quốc hội đã giải quyết mọi vấn đề của toàn quốc, lập hiến và lập pháp, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài. Quốc hội bầu ra Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và hội đồng chính phủ (nay gọi là Chính phủ). Hình trái: Nguyễn Văn Tố - Trưởng ban Thường trực Quốc hội khoá I (02/3/1946 - 8/11/1946) Hình giữa: Bùi Bằng Ðoàn - Trưởng ban Thường trực Quốc hội khoá I (09/11/1946 - 19/9/1955) Hình phải: Tôn Ðức Thắng - Trưởng ban Thường trực Quốc hội khoá I (20/09/1955 - 8/5/1960) Quốc hội bầu Hội đồng Dân tộc gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch và các uỷ viên. Hội đồng Dân tộc nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội những vấn đề về dân tộc; thực hiện quyền giám sát việc thi hành chính sách Dân tộc, các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng có đồng bào dân tộc thiểu số. Trước khi ban hành các quyết định về chính sách dân tộc, Chính phủ phải tham khảo ý kiến của Hội đồng Dân tộc. Chủ tịch Hội đồng Dân tộc được tham dự các phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, được mời tham dự các phiên họp của Chính phủ bàn việc thực hiện chính sách dân tộc. Hội đồng chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của cả Nhà nước, thực hiện các nghị quyết của Quốc hội và chấp hành pháp luật. Theo hiến pháp 1946 : Cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc là Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà. Quyền hạn của Chính phủ: 7 a) Thi hành các đạo luật và quyết nghị của Nghị viện. b) Đề nghị những dự án luật ra trước Nghị viện. c) Đề nghị những dự án sắc luật ra trước Ban thường vụ, trong lúc Nghị viện không họp mà gặp trường hợp đặc biệt. d) Bãi bỏ những mệnh lệnh và nghị quyết của cơ quan cấp dưới, nếu cần. đ) Bổ nhiệm hoặc cách chức các nhân viên trong các cơ quan hành chính hoặc chuyên môn. e) Thi hành luật động viên và mọi phương sách cần thiết để giữ gìn đất nước. g) Lập dự án ngân sách hàng năm. Mọi công việc của bộ máy nhà nước trong việc quản lý xã hội đều thực hiện ý chí của nhân dân (thông qua quốc hội do dân bầu ra). Ðại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, không chỉ đại diện cho nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình mà còn đại diện cho nhân dân cả nước. Ðại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri; thu thập và phản ánh trung thực ý kiến và nguyện vọng của cử tri với Quốc hội và các cơ quan Nhà nước hữu quan; thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của Quốc hội; trả lời những yêu cầu và kiến nghị của cử tri; xem xét, đôn đốc, theo dõi việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và hướng dẫn, giúp đỡ công dân thực hiện các quyền đó. Ðại biểu Quốc hội phổ biến và vận động nhân dân thực hiện Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội. Ðại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.. Nhà nước do dân tức là mọi công việc xây dựng đất nước là trách nhiệm của quần chúng nhân dân. Do đó, phải phát huy vai trò của mặt trận, các đoàn thể trong công tác quản lý Nhà nước và xã hội, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề nhân dân thảo luận, phát huy sáng kiến và tìm cách giải quyết các vấn đề của đất nước. Người nói: “Dân như nước, mình như cá”, “lực lượng nhiều là ở dân hết”, “công việc đổi mới, xây dựng đất nước là trách nhiệm của dân”. Do vậy, Nhà nước muốn điều hành, quản lý xã hội có hiệu lực, hiệu quả, nhất định phải dựa vào dân, dựa vào sáng kiến và trí tuệ của dân. “Đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân...Chính phủ chỉ giúp kế hoạch cổ động.” Nhà nước do dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh là dân tự làm, tự lo việc, thông qua các mối quan hệ trong xã hội, qua các đoàn thể, chứ không phải Nhà nước bao cấp, lo thay dân, làm cho dân thụ động, ỷ lại, chờ đợi. Người cho rằng: “Làm việc gì cũng phải có quần chúng tham gia bàn bạc, khó đến mấy cũng trở nên dễ dàng và làm được tốt... 8 Dễ mười lần không dân cũng chịu Khó trăm lần dân liệu cũng xong”. Chính vì vậy, Nhà nước do dân xây dựng và làm chủ, đặt dưới sự kiểm tra và kiểm soát của nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh còn là Nhà nước tin dân, mọi lực lượng đều ở nơi dân, do dân nắm mọi quyền hành. Nhà nước tin dân, dân tin ở sự lãnh đạo của Nhà nước thì việc gì cũng làm được. 3. Nhà nước vì dân Nhà nước vì dân là một nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân dân làm mục tiêu, tất cả đều vì lợi ích của nhân dân, ngoài ra không có bất kỳ một lợi ích nào khác. Đó là một nhà nước trong sạch, không có bất kỳ một đặc quyền, đặc lợi nào. Trên tinh thần đó, Hồ Chí Minh nhấn mạnh : mọi đường lối, chính sách đều chỉ nhằm đưa lại quyền lợi cho dân; việc gì có lợi cho dân dù nhỏ cũng phải cố gắng làm, việc gì có hại cho dân dù nhỏ cũng cố gắng tránh. Dân là gốc của nước. Hồ Chí Minh luôn tâm niệm : “Phải làm cho dân có ăn, phải làm cho dân có mặc, phải làm cho dân có chỗ ở, phải làm cho dân được học hành”. Bác Hồ dặn dò về chăm lo nhà ở cho người dân Một nhà nước vì dân, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, là từ Chủ tịch nước đến công chức bình thường đều phải làm công bộc, làm đày tớ cho nhân dân chứ không phải “làm quan cách mạng” để “đè đầu cưỡi cổ nhân dân”. 9 Đối với chức vụ Chủ tịch nước của mình, Hồ Chí Minh cũng quan niệm là do dân ủy thác cho và như vậy phải phục vụ nhân dân, tức là làm đầy tớ cho nhân dân. Cán bộ Nhà nước phải là đầy tớ của dân, đồng thời là người lãnh đạo hướng dẫn nhân dân. Đầy tớ thì phải trung thành, tận tụy, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ. Người lãnh đạo phải trí tuệ hơn người, minh mẫn, sáng suốt, nhìn xa, trông rộng, gần gũi nhân dân, trọng dụng hiền tài. Như vậy, “Người thay mặt dân phải đủ cả đức và tài, vừa hiền lại vừa minh”. Người viết: "Chế độ ta là chế độ dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ. Đảng ta là Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả các cán bộ từ trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ ở cấp nào và ngành nào - đều phải là người đầy tớ trung thành của nhân dân". Quyền lực nhà nước có cội nguồn từ nhân dân, xuất phát từ nhân dân, nhân dân tạo lập nên bộ máy nhà nước và uỷ quyền cho nhà nước thay mình thực hiện quyền lực. Nhưng để nhân dân giao quyền mà không mất quyền, các cơ quan nhà nước được giao quyền mà không tiếm quyền dân và phải thực hiện tốt nhiệm vụ phục vụ nhân dân, phát huy quyền dân chủ của nhân dân. Ngay từ đầu tư tưởng độc đáo, sáng tạo rất Hồ Chí Minh về một Chính phủ toàn dân, liêm khiết, biết làm việc đã được xác định: "Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ của toàn dân đoàn kết và tập hợp nhân tài không đảng phái... một Chính phủ liêm khiết... biết làm việc, có gan góc, quyết tâm đi vào mục đích trong thì kiến thiết, ngoài thì tranh thủ độc lập và thống nhất nước nhà" .Một Chính phủ coi trọng tính hiệu quả và thiết thực: "Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi". Điều đó xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta là... các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. . Trong việc giữ vững tính nghiêm minh và hiệu lực của pháp luật, cán bộ làm công tác tư pháp có vai trò quan trọng. Họ chính là người trực tiếp thực thi luật pháp, đại diện cụ thể cho "cán cân công lý". Vì thế, Hồ Chí Minh yêu cầu ở họ phải có phẩm chất đạo đức cần thiết: Trong công tác xử án phải công bằng, liêm khiết, trong sạch như thế cũng chưa đủ vì không thể chỉ hạn chế hoạt động của mình trong khung tòa án mà còn phải gần dân, giúp dân, học dân, hiểu dân để giúp mình thêm liêm khiết, thêm công bằng, trong sạch. Đối với những người lợi dụng chức vụ, quyền hạn vi phạm pháp luật hoặc xử lý không đúng, không nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật, Hồ Chí Minh chỉ rõ: 10 Có cán bộ, đảng viên lợi dụng quyền thế của Đảng và Nhà nước làm những việc trái với chính sách và pháp luật, xâm phạm đến lợi ích vật chất và quyền tự do dân chủ của nhân dân, nhưng cũng chưa bị xử lý kịp thời..., như vậy là kỷ luật chưa nghiêm. Người yêu cầu kiên quyết trừng trị những kẻ vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền lợi của công dân, làm cho nhân dân bất bình, oan ức. III. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước thể hiện quyền làm chủ của nhân dân trong công cuộc hiện nay 1. Những vấn đề thực tiễn : Trong những năm đầu của thời kỳ quá độ, với những ưu thế của mình, hệ thống chính trị ở nước ta đã có những đóng góp vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và xây dựng những tiền đề để thực hiện bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện mới, Đảng ta lại là người đề xuất, lãnh đạo thực hiện công cuộc đổi mới và đã đạt được những thành tựu đáng trân trọng : đưa đất nước vượt qua thử thách trước sự tan vỡ của hệ thống xã hội chủ nghĩa, giữ vững độc lập, đưa đất nước tiếp tục tiến lên. Những năm qua, trong tiến trình dân chủ hóa đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách dân chủ về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nhờ đó đã đạt được những thành tựu to lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm cơ bản, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đang được xây dựng, trải nghiệm và từng bước hoàn thiện của nước ta còn nhiều khuyết điểm do tổ chức, xây dựng một xã hội hoàn toàn mới trong điều kiện một đất nước có điểm xuất phát thấp, nền kinh tế lạc hậu. Thực trạng đó đang đặt ra nhiều nhiệm vụ phải giải quyết với nhiều vấn đề mới nảy sinh trong quá trình phát triển của nền dân chủ nước ta. - Về chính trị : Hệ thống chính trị mặc dù đã trải qua hơn 20 năm đổi mới nhưng còn nhiều những yếu kém và hạn chế. Trong hệ thống chính trị, việc tổ chức thực hiện nghị quyết, chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước chưa tốt, kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm. Tình trạng tùy tiện, thiếu ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm, không chấp hành nghị quyết, pháp luật, chính sách của Nhà nước, báo cáo không trung thực, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, làm cho một số nghị quyết của Đảng khó đi vào cuộc sống. Công tác chỉ đạo điều hành ở các cấp ngành còn nhiều bất cập, công tác kiểm tra, kiểm soát còn nhiều hạn chế. Nhiều cán bộ, công chức, đảng viên vi phạm pháp lệnh của Nhà nước và điều lệ Đảng. 11 Là trụ cột của hệ thống chính trị, Nhà nước ta đã tiến hành cải cách hành chính, tinh giản bộ máy nhưng còn chậm và thiếu kiên quyết. Bộ máy Nhà nước còn cồng kềnh với nhiều tầng, nấc trung gian và nhiều thủ tục hành chính phiền hà không chỉ làm giảm hiệu lực quản lý của Nhà nước mà còn làm cho tình trạng vi phạm dân chủ gia tăng, làm mất lòng tin của nhân dân. Quyền dân chủ của nhân dân còn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực. Tệ quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu, gây phiền hà cho nhân dân vẫn đang phổ biến và nghiêm trọng chưa đẩy lùi và ngăn chặn được. - Về kinh tế : Thông qua việc công nhân, tôn trọng sự đa dạng quyền sở hữu và sử dụng các tư liệu sản xuất, phát triển kinh tế nhiều thành phần với một cơ cấu kinh tế đảm bảo cho sự phát triển đồng đều giữa các ngành, vùng và thực hiện chế độ phân phối tư liệu sản xuất công bằng đã đảm bảo cơ hội cho sự phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế. Chế độ phân phối sản phẩm lao động theo đóng góp và lao động bước đầu đã phát huy vai trò làm chủ sản xuất của nhân dân ở tất cả các thành phần kinh tế. Mức tăng trưởng GDP hàng năm là 7% đã nói lên tác dụng của quá trình dân chủ hóa nền kinh tế đất nước. Tuy nhiên, nền kinh tế nước ta hiện nay cơ bản vẫn là sản xuất nhỏ, phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp. Dân chủ trong nền kinh tế còn nhiều vấn đề phải giải quyết ở tất cả các lĩnh vực. Cơ cấu kinh tế dịch chuyển chậm, cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, còn phân tán và lãng phí. Sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế chưa được coi trọng. Công tác quản lý nhà nước còn nhiều khuyết điểm làm nảy sinh nhiều tiêu cực. Mức sống của nhân dân, nhất là nông dân ở một số địa phương miền núi, vùng sâu vùng xa còn quá thấp. Chính sách tiền lương và phân phối trong xã hội còn bất hợp lý. Sự phân hóa giàu nghèo giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn, giữa các tầng lớp dân cư ngày càng tăng. Tình trạng mất dân chủ trong kinh tế, đặc biệt trong quản lý kinh tế, đã trực tiếp đẩy tới tình trạng khiếu kiện của nhân dân diễn ra kéo dài và phức tạp ở nhiều nơi. Cơ chế, chính sách không đồng bộ và chưa tạo ra động lực để phát triển. Một số cơ chế, chính sách còn thiếu, chưa nhất quán, chưa sát với cuộc sống, thiếu tính khả thi, nhiều cấp ngành chưa thay thế, sửa đổi những quy định về quản lý nhà nước không còn phù hợp, chưa bổ sung những cơ chế chính sách mới có tác dụng giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất, khai thác nhiều hơn nữa nguồn lực dồi dào trong các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp, các vùng và toàn xã hội. Có những chính sách đúng bị biến dạng qua nhiều tầng nấc hành chính quan liêu. Việc ban hành các văn bản pháp quy hướng dẫn còn chậm. - Về xã hội : xã hội mà chúng ta xây dựng còn không ít hiện tượng mất dân chủ, dân chủ hình thức. Bệnh quan liêu, gia trưởng còn nặng nề, trong khi đó khuynh hướng dân chủ cực đoan, dân chủ không đi đôi với kỷ cương, pháp luật lại đang xuất hiện dưới nhiều hình thức. 12 Tư tưởng tiểu tư sản lan tỏa trong đời sống tinh thần, nó thâm nhập vào giai cấp công nhân, vào chính quyền, làm phát triển khuynh hướng tự phát, vô chính phủ, cục bộ địa phương. Hoàn cảnh đó tạo ra và làm xuất hiện nhiều biểu hiện sai trái với dân chủ xã hội chủ nghĩa. Phát triển quyền làm chủ và sinh hoạt chính trị của nhân dân, Đảng và Nhà nước ta đã cho ban hành Quy chế dân chủ cơ sở, ra một số quy định về tiếp dân, Quy định về công khai tài chính trên một số lĩnh vực, Quy chế làm việc của một số cơ quan Nhà nước và ra Hướng dẫn về hòa giải ở cơ sở. Tuy nhiên, một số lượng không nhỏ nhân dân còn thiếu hiểu biết về quyền của mình, do đó dẫn tới hiện tượng thờ ơ, không quan tâm. Và đó là một nguyên nhân của tình trạng vi phạm pháp luật, vi phạm các quy tắc xã hội, thậm chí gây ra các hiện tượng mất ổn định ở một số địa phương. Mặt khác, những hiện tượng lợi dụng dân chủ để chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đã xuất hiện ngày một quyết liệt, trắng trợn hơn và đã lôi kéo được một bộ phận nhân dân thiếu hiểu biết làm mất trất tự xã hội. Tình hình trên cho thấy, trong quá trình phát triển của thời kỳ quá độ, thực trạng dân chủ ở nước ta là hết sức phức tạp, trong đó đang diễn ra cuộc tranh đấu quyết liệt giữa dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Sự thắng lợi của dân chủ xã hội chủ nghĩa phụ thuộc vào quá trình dân chủ hóa xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. 2. Vận dụng trong công cuộc đổi mới hiện nay. a. Nâng cao ý thức dân chủ xã hội chủ nghĩa : Trong thời gian qua, ở nước ta, bên cạnh những thành tựu của quá trình dân chủ hóa còn tồn tại và nảy sinh nhiều vấn đề cần phải tiếp tục giải quyết. Có nhiều nguyên nhân, một trong những nguyên nhân chính là công tác tuyên truyền giáo dục ý thức dân chủ xã hội chủ nghĩa cho nhân dân còn nhiều hạn chế. Vì vậy, tăng cường tuyên truyền giáo dục ý thức dân chủ xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa rất quan trọng trong tiến trình dân chủ hóa ở nước ta. Để đạt kết quả tốt trong thực hiện công tác này, cần nắm vững các vấn đề cơ bản sau : - Về nhận thức : Trước hết, nhận thức đúng về mục đích của công tác tuyên truyền ý thức dân chủ cho nhân dân. Mục đích của tuyên truyền, giáo dục ý thức dân chủ là hình thành ở mỗi người dân sự hiểu biết đúng về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, từ đó đi 13 đến hình thành ý thức tự giác, thực hiện nghiêm chỉnh đầy đủ quyền làm chủ của mình góp phần thúc đẩy việc thực hiện dân chủ cộng đồng, trong xã hội. Mục đích này phải luôn luôn quán triệt trong quá trình tuyên truyền, giáo dục … nhằm tránh tình trạng “đánh trống bỏ dùi” hoặc qua loa, đại khái, không cần biết đến hiệu quả thực tế. Thứ hai, nhận thức đúng về tầm quan trọng của việc tuyên truyền giáo dục ý thức dân chủ xã hội chủ nghĩa. Sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước mà toàn Đảng, toàn dân tộc ta đang tiến hành – cần tập trung các nguồn lực, trong đó quan trọng nhất là nguồn lực con người. Việc mở rộng, hoàn thiện và phát triển các quyền dân chủ của người dân là điều kiện để tập hợp sức mạnh vật chất và trí tuệ sáng tạo của nhân dân. Do vậy, việc tuyên truyền giáo dục ý thức dân chủ, có ý nghĩa lớn trong sự tập hợp và phát huy trí tuệ của nhân dân quy tụ thành sức mạnh tổng hợp đẩy nhanh công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội. Thứ ba, phải nhận thức đúng về đối tượng của việc tuyên truyền giáo dục ý thức dân chủ. Nước ta là một nước đa dân tộc và trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội lại tồn tại nhiều giai tầng khác nhau, tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau. Về mặt nhận thức, nhân dân ta đã là người chủ và làm chủ đất nước, làm chủ bản thân. Nhưng trong thực tế không phải người dân nào cũng có điều kiện hiểu đúng và thực hiện đúng, đủ những quyền làm chủ. Do đó, phải có sự phân biệt đối tượng và có nhiều cấp độ trong tuyên truyền, giáo dục… Chỉ có như vậy, công tác tuyên truyền ý thức dân chủ mới làm cho nhân dân “biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”. Cần phải nhấn mạnh tới bộ phận cán bộ, đảng viên có chức có quyền là đối tượng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tuyên truyền, giáo dục ý thức dân chủ XHCN. Cán bộ phải có trách nhiệm gần dân, lãnh đạo, giải thích cho dân hiểu và làm theo đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, vừa phải báo cáo với Đảng, Nhà nước tình hình đời sống, tâm tư, nguyện vọng của dân. Trong công tác tuyên truyền, cán bộ lãnh đạo là tấm gương thực hành dân chủ. - Về nội dung Đảm bảo truyền đạt những kiến thức về dân chủ ở tất cả các lĩnh vực : kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội chứ không chỉ riêng một lĩnh vực nào. Dân chủ sẽ chỉ hình thức nếu chỉ dừng lại trên lời nói, văn bản – giấy tờ. Mỗi người phải nhận biết và sử dụng quyền làm chủ theo quy định Hiến pháp. Để đảm bảo quyền dân chủ của mọi người, mỗi người phải làm tròn nghĩa vụ công dân của mình. Mỗi cá nhân không chỉ vì lợi ích riêng mà xâm phạm đến lợi ích chung của tập thể, cộng đồng, biết hưởng quyền dân chủ phải đi đôi với thực hiện nghĩa vụ bảo vệ quyền dân chủ. 14 - Về phương pháp, phương tiện Đi đôi với nhận thức tầm quan trọng, xác định đúng đắn đối tượng, nội dung cơ bản phải có phương pháp, phương tiện hợp lý để công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức dân chủ đạt kết quả tốt. Thứ nhất, phải đảm bảo quan điểm thực tiễn, tính thiết thực trong công tác tuyên truyền giáo dục. Trong nhân dân có nhiều tầng lớp, nhiều lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp và mức độ nhận thức khác nhau. Vì vậy, phải căn cứ vào tình hình cụ thể để có biện pháp tác động cho phù hợp với từng đối tượng. Đồng thời, tuyên truyền giáo dục phải bằng những vấn đề thực tiễn cuộc sống dễ hiểu, dễ nhớ, tránh máy móc, khô khan, khó thuyết phục. Thứ hai, trong tuyên truyền giáo dục ý thức dân chủ XHCN phải thấy được vai trò đặc biệt quan trọng của việc nêu gương, định hướng ở người cán bộ. Hồ Chí Minh đã nói : “một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài văn tuyên truyền”. Thứ ba,phải bảo đảm kiên trì, thường xuyên trong tuyên truyền giáo dục. Hồ Chí Minh nói : “Phải biết nhẫn nại. Nói với người nghe một lần người ta không hiểu thì nói đến hai lần, ba lần…Về đức tính này, phải học theo những người đi truyền giáo”. Thứ tư, phải phát huy tốt vai trò của mọi công dân, của các tổ chức chính trị, xã hội, các tổ chức đoàn thể quần chúng cùng tham gia công tác tuyên truyền giáo dục. Thứ năm, phải kết hợp sử dụng các phương thức, phương tiện sao cho phù hợp với từng đối tượng, từng khu vực nhằm đạt hiệu quả tối ưu trong tuyên truyền giáo dục. - Về cơ sở kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội Tuyên truyền giáo dục ý thức dân chủ phải dựa trên cơ sở của những điều kiện về kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội Về kinh tế : thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, thực hiện công bằng và bình đẳng trong xây dựng và phát triển kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất đi đôi với phát triển dân chủ. Về chính trị : Thể chế chính trị dân chủ, ổn định và được đảm bảo vững chắc là cơ sở để thực hiện dân chủ trong các lĩnh vực khác của xã hội. Vì vậy phải giữ gìn sự trong sạch, hiệu quả của bộ máy chính quyền các cấp, tránh tình trạng lợi dụng sự ủy quyền của dân vi phạm quyền làm chủ của dân, kiên quyết chống tham ô, lãng phí. Mặt khác, phải có sự đồng bộ trong xây dựng chủ trương, chính sách, 15 phải xác lập một hệ thống chính trị trong cơ chế tổng thể : Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân lao động làm chủ, không nên chỉ nhấn mạnh một mặt nào. Về văn hóa, xã hội : Một nền văn hóa tiên tiến trên cơ sở kế thừa, phát huy những truyền thống quý báu của dân tộc – kết hợp với việc tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, một trình độ dân trí cao sẽ là điều kiện thuận lợi để tuyên truyền, giáo dục ý thức dân chủ đạt hiệu quả cao. Khi ý thức dân chủ trở thành nếp nghĩ, thói quen ứng xử hàng ngày là dân chủ đã phát triển thành văn hóa dân chủ. Khi đó, công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức dân chủ thành công. b. Xây dựng hệ thống chính trị  Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cần quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng nhà nước trên những vấn đề cơ bản sau đây : 1. Xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, lấy liên minh công nông với trí thức làm nền tảng cho Đảng Cộng sản lãnh đạo. 2. Cải cách tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, gắn liền với xây dựng chỉnh đốn Đảng, đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. 3. Tiến hành đồng thời các nhiệm vụ cải cách thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch có đủ năng lực. 4. Nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. 5. Kiên quyết đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng trong bộ máy nhà nước. Để thực hiện những nhiệm vụ hiện thời, cần tập trung vào những vấn đề cải cách nền hành chính Nhà nước, tập trung vào 3 vấn đề trọng yếu là : - Một là, cải cách thể chế : thực hiện cải cách cơ bản các thủ tục hành chính cả về thể chế lẫn tổ chức thực hiện; loại bỏ những khâu bất hợp lí, phiền hà; ngăn chặn tệ cửa quyền, tham nhũng và hối lộ. - Hai là, cải cách tổ chức bộ máy : tiếp tục thực hiện chấn chỉnh cơ cấu tổ chức bộ máy, biên chế, quy chế hoạt động làm cho bộ máy tinh gọn, đảm bảo sự điều hành tập trung, thống nhất, có hiệu lực từ Chính phủ đến chính quyền địa phương, cơ sở, đồng thời phát huy tính tự chủ, năng động của địa phương, cơ sở. 16 - Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức : Nhà nước chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng chính trị, nghiệp vụ, giáo dục đạo đức cho cán bộ chính quyền các cấp. Xây dựng phong cách và phương thức công tác cán bộ, công chức phù hợp với đạo đức cách mạng. Cán bộ, công chức phải có thái độ chân thành, tôn trọng dân, hướng dẫn và giúp đỡ nhân dân, không thành kiến, phân biệt đối xử khi làm việc với dân. Cùng với việc nâng cao chất lượng cán bộ, công chức phải kết hợp việc định kỳ kiểm tra, đánh giá chất lượng cán bộ, công chức, kịp thời thay thế những cán bộ công chức yếu kém, làm trong sạch bộ máy Nhà nước. Cần tăng cường và tạo điều kiện cho nhân dân thực hiện vai trò làm chủ, kiểm tra, giám sát đối với cán bộ, công chức.  Chống tham nhũng, quan liêu Đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu phải giải quyết từ gốc, loại trừ các nguyên nhân gây ra tham nhũng. Phải xử lý nghiêm minh các vụ tham nhũng và phải tiến hành thường xuyên, liên tục, bền bỉ. Trước hết, phải tiếp tục kiện toàn bộ máy nhà nước, đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường quản lý nhà nước, không để sơ hở cho kẻ xấu lợi dụng. Tiếp tục xóa bỏ các thủ tục hành chính phiền hà, nhất là những khâu, những lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng, sách nhiễu. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát. Cải tiến chế độ tiền lương, bảo đảm công chức có thể sống bằng thu nhập từ tiền lương. Cùng với xây dựng phải kiên quyết xử lý, xử lý nghiêm, kịp thời các vụ tham nhũng ở khắp mọi nơi, mọi cấp, đối với mọi cương vị. Tăng cường giáo dục chính trị và phẩm chất, đạo đức cho cán bộ, đảng viên. Quản lý và kiểm tra chặt chẽ đảng viên, công chức ở nơi công tác và cư trú để mỗi người, ở bất cứ cương vị nào, đều phải thường xuyên tu dưỡng rèn luyện đạo đức, giữ vững phẩm chất. Công tác chống tham nhũng là công việc khó khăn và phức tạp, phải lựa chọn những người trong sạch, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có kinh nghiệm chuyên môn tham gia.  Nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị cơ sở - Xác định rõ chức năng nhiệm vụ của từng tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở. Xây dựng quy chế phối hợp giữa các tổ chức dưới sự lãnh đạo của đảng bộ, chi bộ cơ sở. - Thực hành dân chủ trong nội bộ các tổ chức của hệ thống chính trị theo nguyên tắc tập trung dân chủ và phát huy quyền làm chủ nhân dân trên cơ sở thực hiện quyền dân chủ trực tiếp, phát huy quyền dân chủ đại diện, quy định cụ thể việc thực hiện quyền của dân giám sát tổ chức và cán bộ cơ sở và thay thế người 17 không đủ tín nhiệm. Phát huy dân chủ đi liền với củng cố, nâng cao kỷ luật, kỷ cương theo pháp luật. - Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.  Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng Phải xác định sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị là thông qua tổ chức chứ không phải cá nhân; Đảng lãnh đạo bằng quyết định tập thể và bằng cách theo dõi, cho ý kiến chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện; phát triển các điển hình và chỉnh đốn các sai lệch. Đảng lãnh đạo bằng cách phát huy mạnh mẽ vai trò và hiệu lực của Nhà nước chứ không làm thay, điều hành thay Nhà nước. Các tổ chức Đảng trong cơ quan Nhà nước và đoàn thể phải có nhiệm vụ quán triệt đường lối chính sách của Đảng trong hoạt động của các cơ quan, đoàn thể. Gắn bó với thực tiễn, phải thường xuyên đi sát cơ sở, lắng nghe ý kiến, trả lời chất vấn của đảng viên và nhân dân, nhanh chóng phát hiện khuyết điểm để kịp thời sửa chữa. Cần tăng cường công tác kiểm tra của Đảng. Cải cách tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị phải gắn với công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên trong hệ thống chính trị.  Đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân là thành tố của thể chế dân chủ XHCN, có vai trò rất quan trọng trong xây dựng hệ thống chính trị, phát huy dân chủ, nâng cao trách nhiệm công dân của mỗi hội viên, đoàn viên, bênh vực quyền lợi của dân, góp phần giữ kỷ cương phép nước, thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng trong Mặt trận, đồng thời tìm ra nhiều hình thức mới, linh hoạt tập hợp quần chúng và tổ chức sinh hoạt với nội dung phù hợp. Phải khắc phục tình trạng hành chính hóa, phô trương hình thức, tình trạng quan liêu, xa dân của Mặt trận. Phải mở rộng và đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân tham gia các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp, văn hóa, hữu nghị, nhân đạo. Trong điều kiện cho phép, các tổ chức này có thể tham gia Mặt trận. 18 Kết luận Đảng Cộng sản Việt Nam, từ Đại hội IX, đã nhấn mạnh mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, là mục tiêu chung, là điểm tương đồng để đoàn kết toàn dân thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước là sự vận dụng và phát triển tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh trong điều kiện mới. Cuộc thử thách của quá trình hiện thực hóa những tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh đã, đang và sẽ còn tiếp tục vì sự xuất hiện của những yếu tố mới trong quá trình tiến hóa của nhân loại. Nhưng giải phóng con người, tinh thần của con người cùng với sự phát triển toàn diện con người là mục tiêu của dân chủ Hồ Chí Minh, mục tiêu đó phù hợp với sự tiến hóa của loài người, nên dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh là hiện thực và là của tương lai. Bởi vậy, di sản tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh và những thành tựu dân chủ do Người để lại mà ngày nay chúng ta đang thừa kế là nền tảng tinh thần và vật chất vô giá cho dân tộc ta và Đảng ta vững bước tiến vào thiên niên kỷ mới. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (Dành cho sinh viên đại học, cao đẳng khối không chuyên ngành Mác – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh) – Bộ Giáo cụ và Đào tạo. 2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ - TS Phạm Hồng Chương. 3. Mạng internet. 4. Tài liệu khác… 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng