Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tư tưởng hồ chí minh về vai trò của dân chủ với việc thực hiện quy chế dân chủ c...

Tài liệu Tư tưởng hồ chí minh về vai trò của dân chủ với việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở trên địa bàn huyện thạch hà, tỉnh hà tĩnh

.PDF
116
723
58

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------ TRẦN THỊ THÚY HƯỜNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ CỦA DÂN CHỦ VỚI VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THẠCH HÀ, TỈNH HÀ TĨNH LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC Hà Nội - 2014 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------ TRẦN THỊ THÚY HƯỜNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ CỦA DÂN CHỦ VỚI VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THẠCH HÀ, TỈNH HÀ TĨNH LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Chính trị học Mã số: 60 31 02 01 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lại Quốc Khánh Hà Nội - 2014 LỜI CAM ĐOAN Luận văn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của dân chủ với việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở trên địa bàn huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh” là công trình khoa học của riêng tôi. Các nội dung, số liệu được nêu trong Luận văn có nguồn gốc rõ ràng, đảm bảo độ tin cậy, chính xác. Tôi xin chịu trách nhiệm về cam kết của mình. Tác giả Trần Thị Thúy Hường DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT CNXH: Chủ nghĩa xã hội HĐND: Hội đồng nhân dân MTTQ: Mặt trận Tổ quốc QCDC: Quy chế dân chủ TNHH: Trách nhiệm hữu hạng UBND: Ủy ban nhân dân XHCN: Xã hội chủ nghĩa MỤC LỤC MỞ ĐẦU.............................................................................................................. 1 1. Tính cấp thiết của đề tài.................................................................................... 1 2. Tình hình nghiên cứu........................................................................................ 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................... 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..................................................................... 4 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu........................................................ 5 6. Đóng góp của luận văn...................................................................................... 5 7. Bố cục của luận văn.......................................................................................... 6 Chƣơng 1: TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ CỦA DÂN CHỦ.. 7 1.1. Một số vấn đề lý luận chung về dân chủ và quy chế dân dân chủ ở cơ sở......... 7 1.1.1. Khái niệm dân chủ và bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa.................... 7 1.1.2. Nội dung và tầm quan trọng của việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở..... 11 1.2. Cơ sở hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về vai trò dân chủ................... 18 1.2.1. Truyền thống dân tộc và tác động của hoàn cảnh lịch sử xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX..................................................................................................... 18 1.2.2. Những ảnh hưởng của văn hóa phương Đông và phương Tây đối với sự hình thành tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh........................................................... 20 1.2.3. Chủ nghĩa Mác - Lênin và cách mạng Tháng Mười Nga tạo nên bước ngoặt trong sự hình thành tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh................................... 24 1.2.4. Phẩm chất, trí tuệ, nhân cách Hồ Chí Minh cùng những giá trị được đúc rút từ chính thực tiễn hoạt động cách mạng của Người........................................ 25 1.3. Nội dung tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về vai trò của dân chủ.......................... 28 1.3.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ.................................................... 28 1.3.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trò của dân chủ đối với sự nghiệp cách mạng và đối với bản thân sự phát triển của nhân dân nói chung.................. 31 1.3.3. Qua niệm của Hồ Chí Minh về vai trò của dân chủ đối với một số lĩnh vực cụ thể trong xã hội.......................................................................................... 35 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THẠCH HÀ, TỈNH HÀ TĨNH THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH........... 48 2.1. Quá trình xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh từ năm 1998.................................................... 48 2.1.1. Vị trí địa lý, tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh......................................................................................... 48 2.1.2. Nội dung, cách thức triển khai thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở của huyện Thạch Hà.................................................................................................... 53 2.1.3. Thành tựu và hạn chế trong việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở của huyện Thạch Hà.................................................................................................... 57 2.1.4. Những vấn đề đặt ra trong việc thực hiện QCDC ở huyện Thạch Hà......... 78 2.2. Vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về vai trò của dân chủ nâng cao hiệu quả thực hiện quy chế dân chủ cơ sở trên địa bàn huyện Thạch Hà..... 80 2.2.1. Phương hướng chung.................................................................................. 80 2.2.2. Một số giải pháp chủ yếu............................................................................ 81 KẾT LUẬN.......................................................................................................... 97 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................... 99 PHỤ LỤC MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Dân chủ là một hiện tượng lịch sử - xã hội gắn liền với sự tồn tại và phát triển của đời sống con người. Đó vừa là giá trị xã hội mà loài người đạt được trong tiến trình đấu tranh để tự giải phóng mình, từng bước vươn tới tự do, vừa là hình thức và tính chất tổ chức của thể chế nhà nước. Đối với Việt Nam, dân chủ không chỉ là bản chất, mà còn là mục tiêu và động lực của công cuộc đổi mới ở nước ta theo định hướng XHCN. Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại, nhà tư tưởng, nhà mác-xít sáng tạo lớn của cách mạng Việt Nam. Suốt cuộc đời mình, Người đấu tranh cho nhân dân Việt Nam có được cuộc sống độc lập, tự do, dân chủ và giàu mạnh, bởi theo Người dân chủ là quý báu nhất của nhân dân. Hồ Chí Minh không những đã để lại những kiến giải sâu sắc về dân chủ và vai trò của dân chủ mà Người còn trực tiếp nêu gương về lối ứng xử dân chủ đối với con người trong mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống. Xác định đúng đắn tầm quan trọng của dân chủ, trong quá trình Đổi mới và hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước ta đã hết sức quan tâm đến vấn đề này và đã có nhiều chủ trương, chính sách, quy chế để phát huy dân chủ trong đời sống xã hội, chẳng hạn như: Chỉ thị 30- CT/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; Chỉ thị 22/1998/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thực hiện QCDC ở xã; Nghị định số 79/2003/NĐ-CP của Chính phủ ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở xã, Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn,... Đây là một bước tiến lớn trong việc củng cố kiện toàn tổ chức đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân ở cơ sở, không chỉ là giải pháp để hạn chế sự tha hóa quyền lực, chống lại tệ quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước mà còn phản ánh tâm tư, nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân, đáp ứng nhu cầu và phù hợp với xu thế phát triển của đất nước theo định hướng XHCN; khơi dậy mọi tiềm năng và trí tuệ của toàn thể nhân dân trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Sau nhiều năm triển khai thực hiện QCDC trên địa bàn huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, mọi mặt đời sống chính trị, xã hội của huyện đã có những bước phát triển quan 1 trọng. Trình độ dân trí, dân sinh được nâng cao; quyền làm chủ của nhân dân được phát huy; nhân dân tham gia tích cực công tác quản lý xã hội,... Tuy nhiên, việc thực hiện QCDC ở cơ sở vẫn còn nhiều vấn đề đáng quan tâm: ở một số địa bàn, việc xây dựng và thực hiện QCDC chưa đạt yêu cầu, quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm; một số cán bộ còn thiếu trách nhiệm trong việc triển khai thực hiện, công tác tuyên truyền chưa đổi mới và có hiệu quả dẫn tới việc nhiều người dân chưa nhận thức đầy đủ quyền làm chủ của mình. Quyền được biết, được bàn, được kiểm tra, thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ của địa phương, nhất là huy động nguồn lực đóng góp xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, tham gia đền bù, giải phóng mặt bằng, thực hiện chế độ, chính sách ở một số nơi chưa thực hiện được đầy đủ và nhanh chóng. Nhiều người dân chưa được cung cấp thông tin về công tác quản lý đất đai, tài nguyên, khoáng sản, ngân sách,... Tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí của công, sách nhiễu chưa được ngăn chặn triệt để, tình trạng phân hóa giàu nghèo có xu hướng gia tăng,... Trước tình hình đó, để chủ động phát huy những ưu điểm, hạn chế và khắc phục những khuyết điểm trong quá trình thực hiện QCDC cơ sở và trên địa bàn huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, sớm đưa huyện trở thành huyện có công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại - dịch vụ phát triển, xứng tầm với truyền thống lịch sử quê hương theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần XXVIII, nhiệm kỳ 2010 - 2015, bên cạnh việc chú trọng tổng kết thực tiễn, cần phải đi sâu nghiên cứu lý luận, đặc biệt là nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò dân chủ. Đây là một nhiệm vụ có ý nghĩa to lớn, vừa cấp bách, vừa có tính chiến lược lâu dài. Với mong muốn góp phần thực hiện nhiệm vụ trên, tác giả lựa chọn vấn đề: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của dân chủ với việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở trên địa bàn huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh” làm đề tài nghiên cứu tốt nghiệp Cao học chuyên ngành Chính trị học. 2. Tình hình nghiên cứu Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ đề tài có tính cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Chính vì thế, đã có nhiều cơ quan, tổ chức và nhiều nhà khoa học quan tâm thực hiện và đã có nhiều công trình nghiên cứu đạt được những thành quả đáng kể. Bên cạnh đó, từ khi có chỉ thị 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII), ngày 18/2/1998, 2 về xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở, nhiều nhà khoa học và hoạt động thực tiễn đã có những công trình nghiên cứu vấn đề dân chủ cơ sở, trong đó đã gắn nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh với về vấn đề thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Cụ thể như: - Những nghiên cứu về tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh có: Dân chủ - Di sản văn hóa Hồ Chí Minh (1997) của tác giả Nguyễn Khắc Mai, Nxb Sự thật, Hà Nội; Bác Hồ nói về dân chủ tập trung (1999), tác giả Đặng Đình Phú, Tạp chí Cộng sản, số 8/1999; Phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh (2009) của Phạm Văn Bính (chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Phát huy các nguồn lực của dân làm lợi cho dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh (2012) của Phạm Ngọc Anh (chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,... - Những nghiên cứu về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở có: Tổng quan về dân chủ và cơ chế thực hiện dân chủ: quan điểm, lý luận và phương pháp nghiên cứu (1992), tác giả Hoàng Chí Bảo đăng trên Tạp chí Thông tin lý luận số 9/1992; Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn (2000) của Dương Xuân Ngọc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Tâm lý xã hội trong quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở (2004) của Trần Ngọc Khuê và Lê Kim Việt (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Dân chủ ở cơ sở và vấn đề thực hiện dân chủ ở nông thôn nước ta hiện nay (2007) của Nguyễn Thị Tâm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Dân chủ và dân chủ cơ sở ở nông thôn trong tiến trình đổi mới (2010) của Hoàng Chí Bảo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,... Ngoài ra còn có rất nhiều bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí khoa học, các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ về tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh và vấn đề dân chủ, thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở nước ta. Nhìn chung, các bài viết, các công trình nghiên cứu của các tác giả nêu trên đã tập trung làm rõ cơ sở lý luận, ý nghĩa thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và việc thực hiện QCDC ở cơ sở, đồng thời phân tích, lý giải yêu cầu, cách thức tổ chức, biện pháp,... để thực hiện tốt QCDC ở cơ sở một các khá sâu sắc. Song chưa có công trình nào đề cập một cách cụ thể đến tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của dân chủ với việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở trên một địa bàn cụ thể của tỉnh Hà Tĩnh như cách đặt vấn đề của luận văn. Tuy nhiên, những công trình này là những chỉ dẫn, gợi ý hết sức quý báu trong quá trình thực hiện luận văn. 3 Trên cơ sở tìm hiểu, nghiên cứu, kế thừa và phát triển các công trình của các nhà nghiên cứu đi trước, tôi thấy rằng có đủ cơ sở lý luận và thực tiễn để có thể nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò dân chủ, trên cơ sở đó đánh giá thực trạng và đề ra những phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở huyện Thạch Hà. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn trình bày những nội dung chủ yếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của dân chủ và vận dụng những tư tưởng đó vào việc nghiên cứu thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt mục đích trên, luận văn sẽ tập trung giải quyết những nhiệm vụ chủ yếu sau đây: - Hệ thống hóa nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò dân chủ. - Phân tích thực trạng quá trình xây dựng và thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn huyện Thạch Hà, những thành tựu, hạn chế từ đó nêu lên những vấn đề đặt ra. - Vận dụng tư tưởng về vai trò dân chủ của Hồ Chí Minh đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quy chế dân chủ cơ sở trên địa bàn huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh trong thời gian tới. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò dân chủ với việc thực hiện quy chế dân chủ ở huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của dân chủ thể hiện trong các bài nói bài viết của Người được tập hợp và công bố trong bộ Hồ Chí Minh toàn tập (15 tập) xuất bản lần thứ ba năm 2011. 4 Luận văn tập trung nghiên cứu việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã trên địa bàn huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh từ năm 1998 đến nay. Mốc thời điểm 1998 được lựa chọn vì đây là năm Chỉ thị 30-CT/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở được ban hành và triển khai thực hiện trên cả nước. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận - Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận chính trị học mác-xít về vai trò của dân chủ; các chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam và chính sách, pháp luật của Nhà nước về thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở. - Kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học trong và ngoài nước về các nội dung có liên quan đến đề tài. 5.2. Phương pháp nghiên cứu - Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp phân tích, tổng hợp, quy nạp, diễn dịch, hệ thống - cấu trúc, so sánh, thống kê, nghiên cứu văn bản,... trong nghiên cứu các vấn đề lý thuyết. - Luận văn sử dụng phương pháp điều tra xã hội học, kết hợp phân tích báo cáo tổng hợp của các cơ quan, ban ngành liên quan, các kết quả nghiên cứu khoa học có liên quan trong quá trình nghiên cứu đề tài. 6. Đóng góp của luận văn Về mặt lý luận: luận văn góp phần làm rõ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của dân chủ và giá trị của tư tưởng này, lấy đó làm cơ sở để nhận diện và giải quyết một số vấn đề đặt ra trong việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh hiện nay, nhằm thực hiện tốt hơn công tác này trong thời gian tới. Về mặt thực tiễn: luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy, tập huấn, tài liệu tham khảo để các cấp ủy đảng, chính quyền triển khai thực hiện hiệu quả hơn Quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. 5 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, luận văn được chia làm hai chương, năm tiết. 6 Chƣơng 1 TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VAI TRÒ CỦA DÂN CHỦ 1.1. Một số vấn đề lý luận chung về dân chủ và quy chế dân dân chủ ở cơ sở 1.1.1. Khái niệm dân chủ và bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa - Khái niệm dân chủ Thuật ngữ dân chủ ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VII - VI trước công nguyên. Theo nhà triết học Hy Lạp cổ đại Aristote (384 - 322 Tr.CN) thì Solon (khoảng 638 - 559 Tr.CN) là người đầu tiên đặt nền tảng cho nguyên lý dân chủ. Hiểu theo từ nguyên, dân chủ, trong tiếng Hy Lạp cổ, là Demokratos. Đó là một từ ghép bao gồm hai thành tố: Demos (dân) và kratos (cai trị). Như vậy theo nghĩa gốc của thuật ngữ, dân chủ là quyền làm chủ của nhân dân. Đến thế kỷ XVIII, người Anh đã dựa vào ngôn ngữ Hy Lạp cổ để đưa ra thuật ngữ “democracy”, có nghĩa là “chính thể dân chủ”, một trong những hình thức chính quyền với đặc trưng là chính quyền nhà nước phải thừa nhận các quyền dân chủ, tự do và bình đẳng của công dân. Như vậy, dân chủ là hình thức tổ chức thiết chế xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực nhà nước, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Trong tiếng Việt, thuật ngữ dân chủ có ba hàm nghĩa: chỉ chế độ xã hội; chỉ quyền của người dân (tương đương nghĩa gốc) và chỉ một phương thức công tác, phong cách quản lý, lãnh đạo [75, tr.137]. Theo Đại Từ điển Tiếng Việt, dân chủ là có quyền tham gia, bàn bạc vào công việc chung, được tôn trọng quyền lợi của từng thành viên trong xã hội. Dân chủ là khái niệm để chỉ chế độ chính trị theo đó quyền làm chủ thuộc về nhân dân. Ban đầu, khái niệm dân chủ được xem xét về mặt chính trị và pháp luật, càng về sau càng mang ý nghĩa rộng hơn, thể hiện ở các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội như kinh tế, văn hoá, tư tưởng, mối quan hệ giữa con người, giữa cá nhân với cộng đồng, giữa công dân với nhà nước, giữa các nhà nước trên trường quốc tế,... Như vậy dân chủ là một khái niệm phức tạp và rộng lớn. Từ trước công nguyên, cách đây hàng ngàn năm, con người đã biết hợp lực với nhau để cùng sản xuất, chống thiên tai, thú dữ và tự tổ chức ra các hoạt động chung 7 mang tính xã hội, trong đó có việc cử ra người đứng đầu các cộng đồng để thực thi những quy định chung và phế bỏ những người đó nếu họ không thực hiện theo ý nguyện, lợi ích chung của cộng đồng. Khi lực lượng sản xuất phát triển, năng suất lao động tăng lên, sản phẩm làm ra dư thừa, xuất hiện chế độ tư hữu, xã hội phân chia giai cấp và mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt. Một hình thức tổ chức xã hội mới ra đời - đó là nhà nước dân chủ chủ nô thống trị đại đa số người lao động là giai cấp nô lệ. Khi đó nhà nước chủ nô mới chính thức sử dụng danh từ dân chủ. Nhưng dân ở đây chỉ là dân theo quy định của pháp luật do giai cấp chủ nô quy định bao gồm giai cấp chủ nô, tăng lữ, thương gia, một số trí thức và người tự do. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, dân chủ mang tính giai cấp. Chế độ dân chủ gắn với một chế độ xã hội cụ thể và một giai cấp cầm quyền nhất định, đó là chủ nô. Như vậy, với sự xuất hiện của nhà nước, quyền lực cộng đồng xã hội chuyển hoá thành quyền lực nhà nước. Dân chủ mang bản chất giai cấp và trở thành mục tiêu đấu tranh, giành, giữ và phát triển của nhân loại. Lịch sử của dân chủ cũng cho thấy các giai cấp thống trị khác nhau hiện thực hoá chế độ dân chủ theo lập trường và lợi ích của mình. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, chế độ phong kiến ra đời thay thế chế độ chiếm hữu nô lệ. Quyền lực xã hội bị thâu tóm vào tay nhà Vua, quyền thực hiện quyền dân chủ của nhân dân lao động bị thu hẹp. Khi quan hệ sản xuất phong kiến dần bị xóa bỏ, giai cấp tư sản ra đời, nền dân chủ tư sản xuất hiện với nhiều mặt tiến bộ so với các chế độ dân chủ trước với những thành tựu to lớn chủ yếu do nhân dân sáng tạo ra. Mặc dù chế độ đó mang tên chế độ dân chủ, nhà nước dân chủ nhưng về thực chất vẫn không phải là nhà nước thực hiện quyền lực thực sự của nhân dân, phạm vi dân chủ của nó chỉ bó hẹp trong một bộ phận là giai cấp tư sản. Khái niệm tự do, dân chủ, bình đẳng bị che lấp bởi quan hệ bóc lột. Chỉ đến khi Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) thắng lợi, một thời đại mới mở ra. Khi đó giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động đánh đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giành lấy chính quyền, thiết lập nền dân chủ XHCN, quyền làm chủ của nhân dân mới trở thành thực chất và lập ra Nhà nước dân chủ XHCN, thiết lập nền dân chủ XHCN để thực hiện quyền lực của nhân dân. 8 - Bản chất của nền dân chủ XHCN thể hiện ở chỗ: + Bản chất chính trị: dưới sự lãnh đạo duy nhất của một đảng của giai cấp công nhân, đảng Mác - Lênin mà trên mọi lĩnh vực xã hội đều thực hiện quyền lực của nhân dân, thể hiện qua các quyền dân chủ, làm chủ, quyền con người, thỏa mãn nhu cầu và các lợi ích của nhân dân. Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ: bản chất chính trị của nền dân chủ XHCN là ở sự lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân thông qua đảng của nó đối với toàn xã hội, nhưng không phải chỉ để thực hiện quyền lực và lợi ích riêng cho giai cấp công nhân mà chủ yếu là để thực hiện quyền lực và lợi ích của toàn thể nhân dân trong đó có giai cấp công nhân. Hồ Chí Minh cũng đã chỉ rõ nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ, dân làm chủ. Cán bộ là công bộc của dân. Bộ máy chính quyền đều do nhân dân lập ra: “ Nước ta là nước dân chủ Bao nhiêu lợi ích đều vì dân Bao nhiêu quyền hạn đều của dân Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” [43, tr.232] V.I.Lênin còn nhấn mạnh rằng: dân chủ XHCN là chế độ mà nhân dân ngày càng tham gia nhiều vào công việc nhà nước. Với ý nghĩa đó, Lênin diễn đạt một cách khái quát về bản chất và mục tiêu của dân chủ XHCN là nền dân chủ “gấp triệu lần dân chủ tư sản”. Do vậy, dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa có bản chất giai cấp công nhân vừa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc. + Bản chất kinh tế: nền dân chủ XHCN dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã hội đáp ứng sự phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất dựa trên cơ sở khoa học - công nghệ hiện đại nhằm thỏa mãn ngày càng cao những nhu cầu vật chất và tinh thần của toàn thể nhân dân lao động. Bản chất kinh tế chỉ được bộc lộ đầy đủ qua một quá trình ổn định chính trị, phát triển sản xuất và nâng cao đời sống của toàn xã hội, dưới sự lãnh đạo của đảng Mác Lênin và quản lý, hướng dẫn, giúp đỡ của nhà nước XHCN. 9 + Bản chất tư tưởng - văn hóa: Nền dân chủ XHCN lấy hệ tư tưởng Mác - Lênin, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân làm nền tảng chủ đạo, đối với mọi hình thái ý thức xã hội khác trong xã hội mới. Đồng thời, dân chủ XHCN kế thừa và phát huy những tinh hoa văn hóa truyền thống các dân tộc, tiếp thu những giá trị tư tưởng - văn hóa, văn minh tiến bộ của nhân loại. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể, trong đó có tư tưởng về dân chủ. Bản chất của Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân ngày càng được củng cố, đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Trong văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định cần “Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa”, cụ thể: - Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân; cán bộ, công chức phải hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân. - Nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân, năng lực làm chủ, tham gia quản lý xã hội của nhân dân. Có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện trên thực tế quyền làm chủ trực tiếp. - Thực hiện tốt hơn Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Phát huy dân chủ, đề cao trách nhiệm công dân, kỷ luật, kỷ cương xã hội; phê phán và nghiêm trị những hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, những hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội; chống tập trung quan liêu, khắc phục dân chủ hình thức. - Quan tâm hơn nữa việc chăm lo hạnh phúc và sự phát triển tự do, toàn diện của con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam ký kết. Có thể khẳng định rằng, việc mở rộng dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là mục tiêu, đồng thời là động lực bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng, của cộng cuộc đổi mới và đi lên xây dựng CNXH ở nước ta. 10 1.1.2. Nội dung và tầm quan trọng của việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở 1.1.2.1. Nội dung của quy chế dân chủ cơ sở Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn khẳng định, cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân thực hiện và vì cuộc sống hạnh phúc của nhân dân. Lúc sinh thời Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: Chế độ XHCN là chế độ do nhân dân làm chủ và “Thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn” [42, tr.325]. Vì vậy, vấn đề dân chủ và thực hiện dân chủ ở cơ sở được Đảng ta đặc biệt chú trọng. Cơ sở là địa bàn sinh sống, làm ăn của nhân dân, là nơi hàng ngày cán bộ đảng viên trực tiếp làm việc với dân và dân có quan hệ với đội ngũ cán bộ Đảng, chính quyền, đoàn thể. Cơ sở là nơi trực tiếp diễn ra hoạt động quản lý của nhà nước gắn với các hoạt động tự quản của cộng đồng dân cư. Thực hiện QCDC ở xã nhằm phát huy quyền làm chủ, sức sáng tạo của nhân dân ở xã, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, ổn định chính trị, tăng cường đoàn kết xây dựng Đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể ở xã trong sạch, vững mạnh, phát huy quyền làm chủ của nhân dân gắn liền với cơ chế: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Thực hiện dân chủ ở cơ sở phải trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật đi đôi với nghĩa vụ, kiên quyết xử lý những hành vi lợi dụng dân chủ vi phạm Hiến pháp, pháp luật, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích tập thể, quyền tự do dân chủ và lợi ích hợp pháp của công dân. Đối với nước ta là nước một nước nông ngiệp, hiện nay nông dân còn chiếm hơn 70% dân số trong xã hội, đa phần sống ở nông thôn. Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ XHCN. Trong công cuộc đổi mới, nông dân có những đóng góp to lớn cho sự phát triển kinh tế, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội,... Bởi vậy, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân lao động ở cơ sở trước hết phải hướng tới nông dân, nông nghiệp, nông thôn. Song, quá trình thực hiện dân chủ, đối với nhân dân đặc biệt là nông dân, vốn chưa quen với nhà nước pháp quyền và xã hội công dân. Cho nên làm thế nào để vừa kêu gọi, tập hợp, lôi cuốn, giáo dục nhân dân tham gia làm chủ, biết cách làm chủ, đồng thời củng cố và xây dựng cơ chế đảm bảo quyền làm chủ của họ là một yêu cầu cấp thiết hiện nay. 11 Đáp ứng yêu cầu đó, ngày 18/02/1998, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 30 - CT/TW về “Xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”. Trên cơ sở đó, ngày 11/5/1998, Chính phủ ra Nghị định số 29/1998/NĐ-CP về việc ban hành “Quy chế thực hiện dân chủ ở xã”. Cùng với chỉ thị số 22/1998 CT-TTg ngày 15/5/1998 “Về việc triển khai quy chế thực hiện dân chủ ở xã”, Chỉ thị số 24/CT-TTg ngày 19/6/1998 “Về việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng bản, thôn ấp, cụm dân cư”. Tiếp theo đó, ngày 8/9/1998 Chính phủ ban hành Nghị định số 71/1998/NĐCP về quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan cùng chỉ thị 38/1998/CT-TTg ngày 11/11/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc “Triển khai quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan” và đến ngày 13/2/1999 Chính phủ ban hành Nghị định số 07/1999/NĐ-CP về “Quy chế thực hiện dân chủ ở doanh nghiệp Nhà nước”. Ngày 28/3/2002, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 10-CT/TW “Về tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở” . Ngày 7/7/2003, Chính phủ thông qua Nghị định 79/2003/NĐ-CP về “Ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã” thay thế cho Nghị định số 29/1998/NĐ-CP. Để triển khai có hiệu lực, hiệu quả hoạt động dân chủ cấp xã, đồng thời nâng tính pháp lý của việc thực hiện QCDC lên một bước mới, ngày 20/4/2007 Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh 34PL/UBTVQH về “Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn thay thế cho Nghị định 79/2003-NĐ/CP”. Đây là những văn bản pháp lý, tạo điều kiện cho nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình, đồng thời là cơ sở để Nhà nước giám sát, bảo đảm quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân. Trong quá trình triển khai QCDC ở cơ sở, Bộ Chính trị (khóa VIII) đã chỉ đạo phải thực hiện tốt các yêu cầu sau. Một là, đặt việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở trong cơ chế tổng thể của hệ thống chính trị “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Coi trọng cả ba mặt này, không được nhấn mạnh hay hạ thấp mặt nào. Hai là, phát huy tốt chế độ dân chủ đại diện, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, HĐND và UBND các cấp; đồng thời thực hiện tốt chế độ dân chủ trực tiếp ở cấp cơ sở để nhân dân trực tiếp tham gia bàn bạc và quyết định những công việc quan trọng, thiết thực gắn liền với lợi ích của họ. 12 Ba là, phát huy dân chủ phải gắn liền với phát triển KTXH, nâng cao dân trí, tạo điều kiện mở rộng dân chủ có chất lượng và hiệu quả. Bốn là, nội dung của các quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở phải hợp Hiến, hợp pháp thể hiện tinh thần dân chủ đi đôi với trật tự, kỷ cương, quyền hạn, gắn liền với trách nhiệm, lợi ích đi đôi với nghĩa vụ, chống tham nhũng, quan liêu, mệnh lệnh, cửa quyền, đồng thời chống tình trạng vô chính phủ, lợi dụng dân chủ vi phạm pháp luật. Năm là, gắn quá trình xây dựng và hoàn thiện QCDC ở cơ sở với công tác cải cách hành chính, hoàn thiện hệ thống chính trị. Nghị định 79/2003/NĐ-CP của Chính Phủ về “quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sơ”, quy định rõ trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân, của chính quyền cơ sở trong quá trình thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là những vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống và lợi ích của nhân dân ở cơ sở, theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. QCDC ở cơ sở cũng quy định rõ những việc nào dân được biết, được tham gia ý kiến, bàn bạc, quyết định, giám sát, kiểm tra, đồng thời quy định việc xây dựng và hoàn thiện cơ chế, hình thức tổ chức nhằm đảm bảo cho nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp. Bên cạnh đó, QCDC ở cơ sở còn xác định trách nhiệm của chính quyền và các tổ chức tự quản trong việc giải đáp những thắc mắc, khiếu nại, tố cáo và những ý kiến đóng góp, phê bình của nhân dân. Có thể nói QCDC ở cơ sở chính là một bước tiến quan trọng cả về nhận thức, hành động và hiệu quả thực tế của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam. Tinh thần xuyên suốt của Chỉ thị 30 - CT/TW và Nghị định 79/2003/NĐ-CP về QCDC ở cơ sở là việc thể chế hóa quan điểm của Đảng về dân chủ và bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân với phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” tiếp tục được thể hiện trong 6 Chương và 28 Điều của Pháp lệnh số 34/PL-UBTVQH của ngày 20 tháng 4 năm 2007 Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Dân chủ chỉ thực chất khi nhân dân được biết, được bàn, được làm, được kiểm tra những nội dung gần gũi, thiết thực, ảnh hưởng trực tiếp tới quyền và lợi ích của mình. Bản chất của“Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” là những nội dung liên hoàn của trình tự công khai hóa và dân chủ hóa. Thực hiện đúng, đầy đủ các khâu này cũng chính để đảm bảo các quyền cơ bản của công dân đã được Hiến pháp và pháp luật quy định. 13 Điều 5, Pháp lệnh dân chủ cơ sở quy định về những nội dung công khai: bao gồm 11 nội dung. Công khai cho dân biết: Kế hoạch phát triển KTXH; kế hoạch triển khai các dự án, công trình trên địa bàn cấp xã; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức cấp xã; công tác quản lý và sử dụng các loại quỹ, khoản đầu tư; các khoản huy động của nhân dân; chủ trương, kế hoạch vay vốn phát triển sản xuất, xóa đói, giảm nghèo; phương thức và kết quả bình xét hộ nghèo, trợ cấp xã hội; chủ trương thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh đơn vị hành chính; kết quả thanh tra, kiểm tra, giải quyết các vụ việc tiêu cực; kết quả lấy phiếu tín nhiệm lãnh đạo HĐND, UBND cấp xã; nội dung, kết quả tiếp thu ý kiến của nhân dân; đối tượng, mức thu các loại phí, lệ phí và nghĩa vụ tài chính; các quy định về thủ tục hành chính, giải quyết các công việc liên quan đến nhân dân do chính quyền cấp xã trực tiếp thực hiện và những nội dung khác theo quy định của pháp luật, theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc chính quyền cấp xã thấy cần thiết. Các nội dung dân biết sẽ được công khai thông qua các hình thức như: niêm yết công khai tại trụ sở HĐND, UBND cấp xã; Công khai trên hệ thống truyền thanh của cấp xã; Công khai thông qua Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố để thông báo đến nhân dân. (Điều 6) Điều 10, quy định về những nội dung nhân dân bàn và quyết định trực tiếp, cụ thể là: Nhân dân bàn và quyết định trực tiếp về chủ trương và mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi công cộng trong phạm vi cấp xã, thôn, tổ dân phố do nhân dân đóng góp toàn bộ hoặc một phần kinh phí và các công việc khác trong nội bộ cộng đồng dân cư phù hợp với quy định của pháp luật. Nhân dân bàn và quyết định trực tiếp những nội dung quy định tại Điều 10 của Pháp lệnh này bằng một trong các hình thức quy định tại Điều 11: Tổ chức cuộc họp cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình theo địa bàn từng thôn, tổ dân phố và phát phiếu lấy ý kiến tới cử tri hoặc cử tri đại diện hộ gia đình. Điều 13, quy định về những nội dung nhân dân bàn, biểu quyết: Hương ước, quy ước của thôn, tổ dân phố; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố; bầu, bãi nhiệm thành viên Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan