Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tư tưởng hồ chí minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn với công tác lý ...

Tài liệu Tư tưởng hồ chí minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn với công tác lý luận ở nước ta hiện nay

.PDF
86
227
143

Mô tả:

MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1 2. Lịch sử nghiên cứu ........................................................................................ 2 3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................... 4 4. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của tác giả ................................. 4 5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 5 6. Kết cấu của luận văn ..................................................................................... 5 Chương 1: SỰ THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VỚI THỰC TIỄN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ CÔNG TÁC LÝ LUẬN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY ................................................................................... 6 1.1. Phạm trù lý luận và thực tiễn theo quan điểm Hồ Chí Minh ..................... 6 1.1.1. Phạm trù lý luận ...................................................................................... 6 1.1.2. Phạm trù thực tiễn ................................................................................... 7 1.2 Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn ........................................................................................................................... 9 1.2.1. Chủ nghĩa Mác - Lênin là ánh sáng soi đường, kim chỉ nam cho cách mạng nước ta ..................................................................................................... 9 1.2.2. Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa lý luận cách mạng và thực tiễn cách mạng ......................................................... 11 1.2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tiếp thu và vận dụng sáng tạo lý luận Mác Lênin, chống chủ nghĩa giáo điều ................................................................... 17 1.3. Công các lý luận ở nước ta hiện nay .......................................................... 21 1.3.1. Nội dung công tác lý luận .................................................................... 21 1.3.2. Vai trò của công tác lý luận ................................................................. 28 Chương 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ SỰ THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG CÔNG TÁC LÝ LUẬN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY ................................................................. 34 2.1. Tính tất yếu vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong công tác lý luận .......................................................... 34 2.1.1. Vận dụng tư tưởng thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nhằm khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều ...................................................... 34 2.1.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất lý luận và thực tiễn nhằm giải quyết những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam ................... 40 2.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn vào công tác lý luận ở nước ta thời gian qua ........................................... 48 2.2.1. Những kết quả đạt được ........................................................................ 48 2.2.2. Những vấn đề đặt ra trong công tác lý luận ở nước ta hiện nay .......... 50 2.3. Quan điểm vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong công tác lý luận ở nước ta hiện nay ................................... 54 2.3.1. Tầm quan trọng của lý luận đối với thực tiễn cách mạng ở nước ta hiện nay ................................................................................................................... 54 2.3.2. Những yêu cầu mới của cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận hiện nay........... 60 2.3.3. Những phương châm chỉ đạo công tác lý luận ở nước ta hiện nay .......... 66 KẾT LUẬN .................................................................................................... 80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 82 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Hồ Chí Minh không để lại cho chúng ta những tác phẩm lý luận thuần túy nhưng Người đã để lại cho chúng ta một hệ thống những quan điểm, lý luận khoa học sáng tạo, gắn chặt với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh và là một trong những yếu tố góp phần làm cho tư tưởng của Người có sức sống trường tồn và sức mạnh cải tạo vĩ đại. Cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã nhận xét: Bác Hồ là nhà lý luận kiệt xuất trong việc vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào nước ta… khai thác, hệ thống hoá, nghiên cứu nội dung và vận dụng di sản tinh thần phong phú của Bác Hồ vào công cuộc đổi mới đất nước ta hiện nay là nhiệm vụ hàng đầu của những người làm công tác nghiên cứu lý luận. Những tư tưởng của Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn có ý nghĩa hết sức to lớn đối với đất nước ta hiện nay, nhất là trong công tác tư tưởng, lý luận. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới với nhiều thách thức, nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng, mà trọng tâm là công tác lý luận đã trở thành vấn đề cấp thiết hơn bao giờ hết. Điều này bắt nguồn từ sự phát triển mạnh của xu hướng toàn cầu hóa kinh tế, tác động sâu rộng đến giao lưu hợp tác văn hóa, sự bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ. Cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo nhất là sự cạnh tranh gay gắt thị trường kinh tế, cũng như cuộc đấu tranh giải quyết những vấn đề toàn cầu: chạy đua vũ trang, cuộc chiến chống đói nghèo, bệnh tật và vấn đề nóng lên của trái đất… Thực tiễn đặt ra yêu cầu và đòi hỏi lý luận phải đổi mới và phát triển để tìm được câu trả lời cho những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn, cung cấp cơ sở lý 1 luận cho Đảng và Nhà nước hoạch định đường lối, chính sách phù hợp với sự phát triển của đất nước và cuộc sống của nhân dân. Đứng trước những yêu cầu bức thiết được đặt ra từ công cuộc đổi mới, tác giả chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn với công tác lý luận ở nước ta hiện nay” nhằm góp phần phục vụ công tác lãnh đạo của Đảng, góp phần trong việc truyền bá chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến quần chúng nhân dân, động viên và khích lệ nhân dân đấu tranh chống kẻ thù, ngoại xâm, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. 2. Lịch sử nghiên cứu Vấn đề thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nói chung, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng, luôn có sự quan tâm của nhiều nhà khoa học từ Trung ương đến cơ sở. Trong những năm gần đây, ở nước ta đã có nhiều công trình khoa học, các bài viết đăng trên các sách, báo, tạp chí bằng những cách tiếp cận khác nhau với nội dung phong phú, đa dạng. Nghiên cứu tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn đã có một số công trình tiêu biểu như: Luận văn hoàn chỉnh trình độ thạc sĩ Triết học “Tìm hiểu tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, chống chủ nghĩa giáo điều trong quá trình cách mạng Việt Nam”, của Đào Hữu Hải, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 1995; "Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong tư tưởng Hồ Chí Minh", của Hoàng Chí Bảo, Tạp chí Khoa học xã hội, số 1(59), năm 2003; "Tư tưởng Hồ Chí Minh về thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nhằm khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều", của Trần Văn Phòng, Tạp chí Khoa học xã hội, số 05 (93), năm 2006; Tư tưởng Triết học Hồ Chí Minh, của GS.TS Lê Hữu Nghĩa, Nxb Lao động, năm 2000; Tư 2 tưởng biện chứng Hồ Chí Minh, của TS Nguyễn Đức Đạt, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2007... Qua các công trình nghiên cứu có được, tác giả luận án sơ bộ nhận thấy những công trình trên nêu bật những nội dung sau: Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ khăng khít. Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của lý luận; lý luận định hướng và tổ chức thực tiễn; lý luận giúp khắc phục bệnh kinh nghiệm trong hoạt động thực tiễn. Đồng thời cũng chỉ rõ tính thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong quá trình đổi mới của Đảng. Về công tác tư tưởng, lý luận có một số các bài viết xuất bản thành sách và in trên tạp chí như: “Về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay”, của Nguyễn Đức Bình, Tạp chí Cộng sản, số 829, tháng 11 năm 2011; “Một số vấn đề về công tác lý luận, tư tưởng và tổ chức của Đảng trong thời kỳ đổi mới”, của tác giả Tô Huy Rứa, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2012; “Nâng cao chất lượng công tác tư tưởng, lý luận hiện nay”, cuả Lê Xuân Lựu, Tạp chí Cộng sản, số 23, tháng 8 năm 2003..... Đảng ta cũng đưa ra các nghị quyết riêng về công tác tư tưởng, lý luận như: Nghị quyết 01 - NQ/TW ngày 28 tháng 3 năm 1992 của Bộ Chính trị khóa VII "Về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay"; Nghị quyết 16 NQ/TW ngày 18 tháng 3 năm 2002 của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX (Hội nghị Trung ương 5) "Về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới"; Nghị quyết 16 - NQ/TW ngày 1 tháng 8 năm 2007 của Ban Chấp hành Trung ương khóa X (Hội nghị Trung ương 5) “Về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới”. Nhìn chung, các tài liệu, bài viết, văn kiện đều đã nêu rõ nội dung tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn; đã chỉ ra thực trạng, nhiệm vụ của công tác tư tưởng, lý luận ở nước ta hiện nay. 3 Song chưa có tài liệu nào nghiên cứu sâu về tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, gắn tư tưởng biện chứng đó nhằm định hướng phát triển công tác lý luận ở nước ta hiện nay. 3. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, luận văn chỉ ra sự vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn theo quan điểm của Hồ Chí Minh vào công tác lý luận, đáp ứng những yêu cầu đang đặt ra trong quá trình đổi mới ở nước ta. - Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn và sự vận dụng nguyên tắc trong công tác lý luận. Luận văn đi sâu vào nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn thông qua các quan điểm của Người và sự vận dụng nguyên tắc này trong công tác lý luận ở nước ta hiện nay. 4. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của tác giả Để đạt được mục đích nêu trên, đề tài cần phải làm rõ những luận điểm cơ bản sau: + Làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. + Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong công tác lý luận ở nước ta hiện nay. Những đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn của đề tài: + Về mặt lý luận:  Quan niệm của Hồ Chí Minh về thực tiễn và lý luận.  Nội dung nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn theo quan điểm của Hồ Chí Minh. 4  Vai trò của nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn trong công tác lý luận ở nước ta hiện nay. + Về mặt thực tiễn: Giúp người học phát triển tư duy biện chứng, có khả năng vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn để nhận thức con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. 5. Phương pháp nghiên cứu Để hoàn thành mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài vận dụng một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau: - Phương pháp nghiên cứu lý luận: Phương pháp này được sử dụng để tập hợp và thu lượm những vấn đề lý luận có liên quan đến nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thực tiễn của cách mạng Việt Nam và trong công tác lý luận hiện nay. - Phương pháp phân tích - tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng vào quá trình tìm hiểu các tư liệu có liên quan đến vấn đề thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thực tiễn của cách mạng Việt Nam và trong công tác lý luận hiện nay. - Phương pháp chuyên gia: Phương pháp này được sử dụng khi tranh thủ ý kiến và những nhận xét, đánh giá của các nhà nghiên cứu, những người am hiểu về tư tưởng triết học Hồ Chí Minh, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh và về công tác lý luận ở nước ta hiện nay. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung gồm 2 chương: Chương 1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận với thực tiễn và công tác lý luận ở nước ta hiện nay Chương 2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong công tác lý luận ở nước ta hiện nay 5 Chương 1 TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ SỰ THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VỚI THỰC TIỄN VÀ CÔNG TÁC LÝ LUẬN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 1.1. Phạm trù lý luận và thực tiễn theo quan điểm Hồ Chí Minh 1.1.1. Phạm trù lý luận Phạm trù lý luận được đề cập trong rất nhiều các bài viết, bài nói chuyện của Hồ Chí Minh. Khái niệm “lý luận” trong tư tưởng Hồ Chí Minh được hiểu là: “Đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc đấu tranh, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế. Đó là lý luận chân chính” [20, tr.292]; “lý luận do kinh nghiệm cách mạng các nước và trong nước ta, do kinh nghiệm từ trước và kinh nghiệm hiện nay gom góp phân tích và kết luận những kinh nghiệm đó thành lý luận” [17, tr.272]; “lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử” [19, tr.497]. Chúng ta nhận thấy rằng, trong quan niệm của Hồ Chí Minh về “lý luận” có chứa yếu tố thống nhất giữa lý luận với thực tiễn và thể hiện được mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và lý luận cũng như yếu tố kế thừa của lý luận. Cách quan niệm về lý luận như thế cho phép người ta nhìn lý luận trong trạng thái mở, trạng thái vận động của nó. Lý luận chân chính tự nó không chấp nhận sự xa rời thực tiễn, xa rời hiện thực. Việc Hồ Chí Minh đặt “lý luận” trong mối quan hệ chặt chẽ với “kinh nghiệm” cũng là một cách chỉ ra tính quy định của thực tế đối với nội dung của lý luận. Điều cần lưu ý là, tuy Người không quên nhắc nhở phải chống bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa, nhưng Người không hề coi thường kinh nghiệm. Với Hồ Chí Minh, kinh nghiệm là nguyên liệu để tạo nên lý luận, thậm chí là một yếu tố, một bộ phận của lý luận. 6 Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Hồ Chí Minh đã nêu một cách cụ thể hơn: “Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành lý luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế” [17, tr.233]. Và theo Hồ Chí Minh: “đó là lý luận chân chính” [17, tr.233]. Như vậy, lý luận là sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn mà thành, nhưng lý luận chân chính là lý luận phải được chứng minh với thực tế, tức là phải phù hợp với thực tế, phải được vận dụng vào thực tế. Trong các bài viết, bài nói chuyện, Hồ Chí Minh dùng nhiều cách diễn đạt khác nhau về lý luận, nhưng điều cơ bản mà chúng ta bắt gặp là Người muốn nhấn mạnh lý luận là “do kinh nghiệm từ trước và kinh nghiệm hiện nay gom góp, phân tích và kết luận những kinh nghiệm đó mà thành” [17, tr.272]. Nói khác đi lý luận là sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn mà thành. 1.1.2. Phạm trù thực tiễn Trong lý luận nhận thức của triết học duy vật biện chứng, “thực tiễn” được coi là những hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Nó gồm các dạng cơ bản là hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị - xã hội, hoạt động thực nghiệm khoa học. Thực tiễn được coi là mục đích, là cơ sở, là động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Vận dụng nguyên lý này vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh thường dùng các khái niệm “thực tế” hay “thực hành”… cùng với khái niệm “thực tiễn”. Theo Hồ Chí Minh: “Thực tế là các vấn đề mình phải giải quyết, là mâu thuẫn của sự vật. Chúng ta là những người cán bộ cách mạng, thực tế của chúng ta là những vấn đề mà cách mạng đề ra cho chúng ta giải quyết. Thực tế bao gồm rất rộng. Nó bao gồm kinh nghiệm công tác và tư tưởng của cá 7 nhân, chính sách và đường lối của Đảng, kinh nghiệm lịch sử của Đảng cho đến các vấn đề trong nước và trên thế giới” [19, tr.497]. Một điểm cần lưu ý là trong các bài viết, bài nói chuyện của mình, Hồ Chí Minh đã dùng hai khái niệm thực tiễn và thực tế với cùng một nội hàm như nhau. Cũng có thể xuất phát từ chỗ để cho mọi người dễ hiểu, dễ nhớ, dễ liên hệ nên Hồ Chí Minh thường dùng khái niệm thực tế nhiều hơn khái niệm thực tiễn. Chúng ta biết rằng phần lớn cán bộ, đảng viên của ta đều xuất thân từ nông dân, trình độ học vấn còn nhiều hạn chế, lại không quen với những lý thuyết sách vở cao xa cùng những khái niệm chuyên môn phức tạp khó hiểu. Việc dùng khái niệm thực tế chắc chắn sẽ dễ giải thích, dễ tuyên truyền, dễ hiểu hơn khái niệm thực tiễn - với tư cách là một phạm trù triết học. Hồ Chí Minh cho rằng, thực tế bao gồm rất rộng như thực tế cách mạng của nước ta, kinh nghiệm công tác tư tưởng của cá nhân, chính sách đường lối của Đảng, kinh nghiệm của Đảng, những vấn đề trong nước và trên thế giới hiện nay… Vì vậy, thực tế không đối lập với thực tiễn, nó chỉ rộng hơn thực tiễn mà thôi. Qua các bài viết, bài nói chuyện của Hồ Chí Minh chúng ta nhận thấy, khi đề cập tới sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn như một nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin thì bao giờ Hồ Chí Minh cũng dùng khái niệm thực tiễn, nhưng khi đề cập tới việc áp dụng lý luận vào thực tiễn, liên hệ lý luận với thực tiễn và khi giải thích nguyên tắc này thì Người thường dùng khái niệm thực tế thay cho thực tiễn. Cho nên, trong cùng một bài viết, bài nói chuyện, Hồ Chí Minh vẫn sử dụng cả hai khái niệm thực tế và thực tiễn. Xét về bản chất, hai khái niệm thực tế và thực tiễn tuy có nội dung khác nhau nhưng được Hồ Chí Minh sử dụng với nội hàm như nhau. Tuy vậy, hai khái niệm này không hoàn toàn đồng nhất với nhau và không thể thay thế cho nhau trong một số trường hợp. Vì vậy, Hồ Chí Minh không 8 bao giờ viết “thống nhất giữa lý luận và thực tế” mà viết “thống nhất giữa lý luận và thực tiễn”. Xuất phát từ chỗ hiểu thực tế rất rộng, bao gồm toàn bộ thực tiễn cách mạng của Đảng ta, cả kinh nghiệm đấu tranh cách mạng, đường lối, chính sách… Cho nên, Hồ Chí Minh luôn căn dặn cán bộ, đảng viên rằng khi liên hệ lý luận với thực tế cần tránh sự lệch lạc không hiểu rõ vấn đề, đòi hỏi phải giải quyết mọi vấn đề thực tế ngay một lúc, vì thực tế là cả một quá trình lâu dài của toàn Đảng, toàn dân. 1.2 Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn 1.2.1. Chủ nghĩa Mác - Lênin là ánh sáng soi đường, kim chỉ nam cho cách mạng nước ta Từ chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa xã hội, tìm thấy con đường cứu nước cho dân tộc. Người tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin và lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng cho cách mạng Việt Nam. Vậy điều gì đã làm cho Hồ Chí Minh tin vào chủ nghĩa Mác-Lênin? Người tin vào chủ nghĩa Mác-Lênin và Người tìm thấy ở chủ nghĩa MácLênin câu trả lời bức thiết nhất cho dân tộc Việt Nam là con đường giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho mỗi người. Trong bài Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin, Người đã nói: “Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác-Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ” [21, tr.128]. Trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tiếp xúc với nhiều tư tưởng, nhiều học thuyết, nhưng tất cả đều không đem lại lời giải đáp 9 cho cách mạng Việt Nam. Chỉ có chủ nghĩa Mác-Lênin là học thuyết cách mạng nhất, khoa học nhất, vạch đường cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở nước ta. Người đã khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác-Lênin” [33, tr.24]. Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin trên cơ sở thống nhất giữa lý luận cách mạng và thực tiễn cách mạng. Hơn nữa, lý luận cách mạng ấy lại được Người vận dụng sáng tạo trong hoạt động thực tiễn cách mạng của mình. Điều này thể hiện rất rõ ở chỗ, Người tích cực tham gia hoạt động trong các tổ chức cách mạng, tổ chức chính trị - xã hội nhằm đưa chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào cách mạng. Từ tham gia Đảng xã hội Pháp, Hồ Chí Minh đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế III và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, Hội liên hiệp thuộc địa, ra báo Người cùng khổ. Người đã viết nhiều bài nói về phong trào công nhân ở các nước thuộc địa và phụ thuộc cũng như tố cáo tội ác của bọn đế quốc thực dân đăng trên các báo: Nhân đạo, Đời sống công nhân, Người cùng khổ… xuất bản ở Pari. Người đã trực tiếp chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam… Đây là cả một quá trình phát triển từ nhận thức lý luận đến việc kết hợp sáng tạo lý luận Mác-Lênin vào thực tiễn phong trào cách mạng thế giới và thực tiễn cách mạng Việt Nam. Rõ ràng là Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin không chỉ từ nhận thức lý luận mà còn từ hoạt động thực tiễn cách mạng và không chỉ dừng lại đó, Người còn đưa lý luận đó vào thực tiễn cách mạng. Nhờ vậy mà Người sớm đến được với chủ nghĩa Mác-Lênin. Mùa thu năm 1920, không phải chỉ có một mình Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là người Việt Nam duy nhất được đọc Sơ thảo những Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, nhưng chỉ có Người là duy nhất tìm thấy con đường cách mạng 10 đúng đắn để giải phóng cho dân tộc ta và các dân tộc bị áp bức khác. Như vậy, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã đến và nhận thức được chủ nghĩa Mác-Lênin không phải trên cơ sở kinh nghiệm chủ nghĩa hay giáo điều sách vở mà trên cơ sở của sự thống nhất nhuần nhuyễn giữa lý luận cách mạng và hoạt động thực tiễn cách mạng của Người. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, biết vận dụng lý luận Mác-Lênin vào tình hình thực tế đất nước để từ đó đề ra đường lối, chính sách đúng đắn. Vì vậy, cách mạng Việt Nam đã giành được những thắng lợi to lớn trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội. Khẳng định vai trò to lớn của chủ nghĩa Mác-Lênin đối với phong trào cách mạng nước ta, Hồ Chí Minh viết: “Chủ nghĩa Mác-Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản” [21, tr.128]. 1.2.2. Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa lý luận cách mạng và thực tiễn cách mạng Hồ Chí Minh tiếp thu những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác Lênin để chỉ đạo phong trào cách mạng Việt Nam, Người nắm vững những nguyên lý triết học mácxít để làm cơ sở lý luận cho những phương pháp cách mạng đúng đắn. Người hiểu rất sâu sắc vai trò của lý luận đối với thực tiễn. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, Người luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải nắm vững lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin để chỉ đạo thực tiễn phong trào cách mạng. Người nhắc nhở lại lời dạy của Lênin là: “Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng” và “chỉ có một Đảng có lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có thể làm tròn được vai trò 11 chiến sĩ tiên phong” [19, tr.495]. Để cán bộ, đảng viên hiểu được con đường hình thành và vai trò lý luận đối với hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã nêu ra khái niệm lý luận về sự tổng kết, sự khái quát những kinh nghiệm thực tiễn của loài người đã diễn ra trong lịch sử, là hệ thống những tri thức của loài người về tự nhiên và xã hội, Người nói: “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ trong quá trình lịch sử” [19, tr.497]. Muốn có lý luận, con người phải dựa vào hoạt động thực tiễn, dựa vào thực tế trong lịch sử, dựa vào những kinh nghiệm đã đúc rút được trong quá trình hoạt động thực tiễn. Qua đó, con người đối chiếu, so sánh, phân tích, tổng hợp và khái quát thành lý luận. Trong bài Sửa đổi lối làm việc, Người viết: “Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành lý luận” [17, tr.233]. Lý luận phản ánh đúng đắn bản chất của các sự vật, hiện tượng, các quá trình trong tự nhiên và xã hội sẽ giúp chúng ta nắm được quy luật vận động của các sự vật và hiện tượng. Như vậy, Hồ Chí Minh không những làm rõ khái niệm triết học về lý luận, mà còn làm rõ nguồn gốc, con đường hình thành và vai trò của lý luận. Người cũng nói rõ, chính lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin là sự tổng kết kinh nghiệm của phong trào công nhân từ trước đến nay của tất cả các nước. Nó là: “Khoa học về các quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội, khoa học về cách mạng của quần chúng bị áp bức và bị bóc lột, khoa học về sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở tất cả các nước...” [19, tr.497]. Vì vậy, chủ nghĩa Mác-Lênin là ngọn đuốc soi đường, là nền tảng tư tưởng cho phong trào cách mạng của giai cấp vô sản các nước. Những nguyên lý phổ biến của lý luận Mác-Lênin xác định phương hướng và định ra 12 phương pháp hành động đúng đắn cho Đảng Cộng sản và phong trào công nhân ở nước ta thực hiện thành công cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng, lý luận Mác-Lênin là “kim chỉ nam”, nó “chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế” [17, tr.233]. Vì vậy, Người luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên muốn làm tốt thì phải nắm vững lý luận, vì “không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi” [17, tr.234]. Về mối quan hệ giữa kinh nghiệm và lý luận, Người cho rằng, kinh nghiệm là vốn quý. Trong hoạt động thực tiễn, con người cần phải rút kinh nghiệm, nắm được kinh nghiệm và cần có nhiều kinh nghiệm để chỉ đạo hành động. Con người không có kinh nghiệm, sẽ không có cơ sở, điều kiện để tổng kết, đúc rút lý luận. Nhưng, nếu chỉ dừng lại ở trình độ kinh nghiệm thì chưa đủ. Bởi vì, kinh nghiệm mới chỉ phản ánh từng mặt, từng bộ phận, chưa đi sâu vào bản chất và tìm ra quy luật vận động của các sự vật, hiện tượng. Kinh nghiệm chỉ có vai trò trong một phạm vi hẹp. Trong bài Sửa đổi lối làm việc, Hồ Chí Minh đã nói với cán bộ, đảng viên rằng: “... kinh nghiệm của họ tuy tốt, nhưng cũng chẳng qua là từng bộ phận mà thôi, chỉ thiên về một mặt mà thôi”. Vì vậy, đòi hỏi cán bộ, đảng viên không được dừng lại ở trình độ kinh nghiệm, tuyệt đối hoá kinh nghiệm dẫn đến coi thường lý luận, không học lý luận, lý luận kém. Muốn làm việc tốt, cán bộ cần phải nâng cao tri thức lý luận, nắm vững lý luận. Người nói: “Có những cán bộ, những đảng viên cũ, làm được việc, có kinh nghiệm. Cố nhiên, những anh em đó rất quý báu cho Đảng. Nhưng họ lại mắc phải cái bệnh khinh lý luận. Họ quên rằng: nếu họ đã có kinh nghiệm mà lại biết thêm lý luận thì công việc tốt hơn nhiều” [17, tr.234]. Như vậy, cần phải kết hợp hài hoà giữa việc tích lũy kinh nghiệm và lý luận. Vai trò của kinh nghiệm và lý luận được Người dùng hình tượng so 13 sánh như hai con mắt: “Có kinh nghiệm mà không có lý luận, cũng như một mắt sáng, một mắt mờ” [17, tr.234]. Hồ Chí Minh không những khẳng định vai trò của lý luận mà còn khẳng định vai trò của hoạt động thực tiễn. Người chỉ rõ lý luận ra đời trên cơ sở hoạt động thực tiễn xã hội. Chính hoạt động thực tiễn của con người là cơ sở, nguồn gốc để con người đúc rút thành kinh nghiệm và tổng kết, khái quát thành lý luận. Thực tiễn luôn vận động, biến đổi. Vì vậy, lý luận cũng phải được bổ sung, phát triển phù hợp với điều kiện mới, hoàn cảnh mới. Người chỉ rõ: “Lý luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động” [19, tr.496]. Lý luận ra đời hướng dẫn con người cải tạo lại hoàn cảnh, cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội khi lý luận đó được vận dụng vào thực tiễn hoạt động của quần chúng. Bởi vì, suy cho cùng thì lý luận không phải vì lý luận, mà lý luận vì mục đích cải tạo hiện thực, cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội. Thực tiễn là mục đích của nhận thức, của lý luận. Người nói: “Lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào thực tế là lý luận suông” [17, tr.234]. Chỉ có trên cơ sở vận dụng lý luận vào thực tiễn mới khẳng định được lý luận đúng hay sai, phù hợp hay không phù hợp với thực tiễn. Một học thuyết đúng khi nó thể hiện được sức mạnh của mình trong hoạt động thực tiễn xã hội, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Một chủ trương đúng, một chính sách đúng sẽ có vai trò định hướng cho hoạt động thực tiễn, mang lại hiệu quả thiết thực. Ngược lại, chủ trương và chính sách không đúng, không phù hợp với thực tiễn sẽ cản trở hoạt động thực tiễn, cản trở tiến bộ xã hội. Vì vậy, hoạt động thực tiễn có vai trò là cơ sở duy nhất, là tiêu chuẩn để kiểm tra lý luận đúng hay sai. Để làm rõ vấn đề này, Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trò của thực tiễn. Người khẳng định: lý luận sau khi ra đời “rồi lại 14 đem nó chứng minh với thực tế. Đó là lý luận chân chính” [17, tr.234]. Như vậy, tính đúng đắn của lý luận không phải được chứng minh bằng lý luận, mà phải dựa trên cơ sở hoạt động thực tiễn xã hội. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, Hồ Chí Minh luôn yêu cầu cán bộ, đảng viên vừa phải học tập và nắm vững lý luận để chỉ đạo hoạt động cách mạng đi đúng hướng, vừa phải đi sâu, đi sát hoàn cảnh, điều kiện thực tế khách quan. Điều kiện thực tế khách quan của mỗi quốc gia, dân tộc, mỗi vùng, mỗi địa phương, có những đặc điểm khác nhau. Vì vậy, nắm vững lý luận phải dựa trên cơ sở vận dụng phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của nước mình, địa phương mình. Cán bộ, đảng viên phải chống tư tưởng quan liêu, xa quần chúng, xa thực tế. Về mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, Hồ Chí Minh luôn đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Người luôn coi sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin, là phương châm hành động của những người mácxít. Muốn cách mạng thành công, đòi hỏi những người mácxít phải nắm vững nguyên tắc về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Cán bộ, đảng viên cần phải chống tư tưởng tuyệt đối hoá vai trò lý luận, hạ thấp, coi thường vai trò của thực tiễn dẫn đến xa rời thực tiễn cách mạng, ra rời quần chúng, giáo điều trong suy nghĩ và hành động. Mặt khác, phải chống tư tưởng coi thường lý luận, tuyệt đối hoá vai trò kinh nghiệm, dẫn đến lười học lý luận, yếu kém về lý luận, hành động mò mẫm, tự do, tuỳ tiện. Để thấy rõ tầm quan trọng về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Người khẳng định: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin” [19, tr.496]. Mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng cần phải thấy rõ nguyên tắc này và xem nó là phương châm hành động của mình. 15 Lý luận có vai trò định hướng, làm kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn. Nhưng, lý luận chỉ dừng lại ở lý luận, ở câu chữ, sách vở, không gắn với hoạt động thực tiễn xã hội thì không có vai trò cải tạo thế giới. Vì vậy, khi nhấn mạnh tầm quan trọng của lý luận phải gắn với thực tiễn. Người đã nói: “Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông” [19, 496]. Một trong những yêu cầu của người cán bộ cách mạng là chống tư tưởng “lý luận suông”, “lý luận xa rời thực tiễn, xa rời nhu cầu của quần chúng, xa rời thực tế khách quan. Bệnh “lý luận suông” là một khuynh hướng trong những cán bộ không nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn. Chúng ta học lý luận phải gắn với thực tế, học lý luận để áp dụng vào việc làm. Người nhấn mạnh: “biết lý luận mà không thực hành là lý luận suông” [18, tr.47]. Cán bộ, đảng viên cần phải có trình độ lý luận. Phong trào cách mạng phải có lý luận cách mạng soi đường. Người cho rằng: phải có lý luận thì mới hiểu được mọi việc trong xã hội, trong phong trào để “chủ trương cho đúng”, “làm cho đúng”. Người chủ trương: “Phải gắn liền lý luận với công tác thực tế” [18, tr.48]. Mọi chủ trương, chính sách của Đảng một mặt phải xuất phát từ tình hình cụ thể, mặt khác, lý luận còn phải có nhiệm vụ giải thích cho quần chúng hiểu để thực hiện các chủ trương, chính sách đó. Như thế, “lý luận mới khỏi tách rời thực tế”. Cán bộ, đảng viên phải nâng cao trình độ lý luận phải “gắn liền công tác lý luận với thực tiễn cách mạng”; phải “đi sát thực tế”, phải “liên hệ mật thiết với quần chúng”. Hồ Chí Minh không những thấy rõ lý luận phải gắn liền với thực tiễn, phù hợp với thực tiễn, chống lý luận suông, giáo điều chủ nghĩa, mà còn thấy 16 rõ thực tiễn đòi hỏi phải có nhu cầu hướng dẫn của lý luận. Người khẳng định: “Thực tế không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng” [19, tr.496]. Thực tiễn không có lý luận soi đường là thực tiễn thiếu định hướng. Hành động không có lý luận soi đường là hành động mò mẫm, tự do, tuỳ tiện, xa rời quy luật khách quan. Chính hoạt động thực tiễn xã hội là cơ sở, là mục đích của nhận thức, của lý luận. Lý luận hình thành lại là kim chỉ nam soi đường cho hoạt động thực tiễn. Đó là mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn. Trong hoạt động thực tiễn xã hội, chống tư tưởng coi thường lý luận, “coi khinh lý luận”, tuyệt đối hoá kinh nghiệm thực tiễn dẫn đến bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa. Tuyệt đối hoá vai trò lý luận hoặc tuyệt đối hoá vai trò thực tiễn đều là những khuynh hướng tư tưởng cực đoan sai lầm. Người đòi hỏi cán bộ cách mạng muốn làm việc tốt phải nắm vững sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, coi đó là nguyên tắc, là phương châm trong suy nghĩ và hành động của mình. 1.2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tiếp thu và vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin, chống chủ nghĩa giáo điều Để giải quyết tốt mọi nhiệm vụ của cách mạng đặt ra Đảng ta phải nắm vững nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Hồ Chí Minh thấy rõ cán bộ, đảng viên của Đảng cần được học tập lý luận, hiểu lý luận và biết vận dụng lý luận để giải quyết các công việc của cách mạng. Người đã đặt ra câu hỏi với cán bộ, đảng viên là vì sao phải học tập lý luận. Người cho rằng, một Đảng mạnh là một Đảng phải có lý luận tiền phong hướng dẫn. Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm kim chỉ nam cho hành động của mình, nên đã lãnh đạo cách mạng thu được những thắng lợi to lớn và căn bản. Nhưng mặt khác, vì trình độ lý luận thấp kém, cho nên, đứng 17 trước nhiệm vụ cách mạng ngày càng mới và phức tạp, trong việc lãnh đạo. Đảng ta không khỏi lúng túng, không tránh khỏi sai lầm khuyết điểm; “Đảng ta còn có nhiều nhược điểm mà một trong những nhược điểm lớn là trình độ lý luận còn thấp kém”. Vì vậy công tác tổ chức học tập lý luận, nâng cao trình độ lý luận cho cán bộ, đảng viên là công việc cần thiết và thường xuyên của Đảng. Đảng ta tổ chức học tập lý luận cho cán bộ, đảng viên là để “nâng cao trình độ lý luận của Đảng ta đặng giải quyết sự đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng và tình hình thực tế của Đảng ta, để Đảng ta có thể làm tốt hơn công tác của mình, hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ cách mạng vĩ đại của mình”. Muốn thế phải nâng cao trình độ lý luận chung của Đảng, phải tổ chức học tập lý luận trong Đảng, trước hết là trong những cán bộ cốt cán của Đảng. Cán bộ, đảng viên cần học tập, tiếp thu và vận dụng lý luận Mác Lênin như thế nào? Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh: “Lý luận phải liên hệ với thực tế”. Lý luận rất cần thiết, nhưng học tập, tiếp thu lý luận mà không liên hệ và vận dụng vào thực tiễn thì không có kết quả. Cán bộ, đảng viên học tập nâng cao trình độ lý luận là cốt để áp dụng vào thực tế. Khi học tập lý luận thì nhằm mục đích: “Học để vận dụng chứ không phải học lý luận vì lý luận”. Người làm cách mạng phải nắm vững lý luận cách mạng để hiểu rõ mọi hoàn cảnh khó khăn phức tạp, xác định rõ mâu thuẫn nảy sinh và phát triển để giải quyết đúng đắn các vấn đề cách mạng đặt ra. Cán bộ, đảng viên tiếp thu và nắm vững lý luận là nắm cái gì? Hồ Chí Minh chỉ rõ: Học tập chủ nghĩa Mác-Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi việc,... là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa MácLênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế ở nước ta. Tiếp thu 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất