Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tư tưởng hồ chí minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân và vận dụng vào công vi...

Tài liệu Tư tưởng hồ chí minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân và vận dụng vào công việc đổi mới nước ta hiện nay ( www.sites.google.com/site/thuvientailieuvip )

.PDF
141
470
135

Mô tả:

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Tư tưởng và quan điểm của Người về nhà nước của dân, do dân, vì dân vô cùng sâu sắc và là hạt nhân cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh. Nó chứa đựng những giá trị to lớn về cả phương diện lý luận và thực tiễn đối với cách mạng Việt Nam; là cẩm nang để thực hiện sự nghiệp đổi mới- với trọng tâm là xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và mở rộng quan hệ quốc tế đi tới thành công. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân không những có ý nghĩa lịch sử mà còn cung cấp cho chúng ta những kinh nghiệm quý báu để tiến hành cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức thực sự là công bộc của dân, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đấu tranh loại bỏ những thói hư, tật xấy trong bộ máy nhà nước, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ có hiệu quả các quyền và lợi ích của nhân dân, đảm bảo cho nhà nước luôn giữ được bản chất cách mạng, phục vụ đắc lực cho công cuộc đổi mới. Xây dựng nhà nước pháp quyền là xu hướng tất yếu khách quan, nhưng đối với chúng ta đây là nhiệm vụ hết sức mới mẻ. Trên thế giới cũng chưa có quốc gia, dân tộc nào khẳng định đã xây dựng thành công nhà nước pháp quyền, mà chỉ đạt được một số thành tựu nhất định. Mặt khác, không có một nhà nước pháp quyền với tư cách là khuôn mẫu chung cho tất cả các quốc gia, dân tộc. Do vậy, cùng với việc tiếp thu những giá trị có tính chất phổ biến về nhà nước pháp quyền mà nhân loại đã đạt được, chúng ta cần nghiên cứu, kế thừa và vận dụng những giá trị tư tưởng Hồ chí Minh về nhà nước và pháp luật để từng bước xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có những đặc trưng riêng, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội , truyền thống văn hoá và bản sắc dân tộc Việt Nam. Trong ý nghĩa đó, việc thực hiện đề tài: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân và vận dụng vào công việc đổi mới nước ta hiện nay, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với sự nghiệp đổi mới đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước pháp quyền và mở rộng quan hệ quốc tế ở nước ta hiện nay. 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài: Mục tiêu tổng quát của đề tài là nghiên cúư, tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân, từ đó vận dụng vào công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay. Để đạt được mục tiêu tổng quát nêu trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau đây: Một là, làm sáng tỏ sự hình thành và những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Hai là, làm sáng tỏ sự cần thiết phải vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân và việc vận dụng trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay. 3.Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu. Luận văn được thực hiện trên cơ sở các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và nhà nước ta về nhà nước của dân, do dân, vì dân. Những quan điểm chỉ đạo, kết luận của Đảng ta từ quá trình tổng kết lý luận và thực tiễn của 20 năm đổi mới đất nước. Tác giả của luận văn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau, bao gồm: phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp hệ thống, phương pháp quy nạp và diễn dịch, phương pháp so sánh và phương pháp xã hội học. 4. Kết cấu của luận văn. Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 2 chương. Chương 1: Quá trình hình thành và những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân. Chương 2: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân vào công cuộc đổi mới nước ta hiện nay. CHƯƠNG I. CƠ SỞ, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN 1. CƠ SỞ, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN 1.1. Cơ sở hình thành 1.1.1. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là quốc gia có ngàn năm văn hiến. Quá trình dựng nước và giữ nước đã hun đúc và phát triển ngày càng sâu sắc ý thức dân tộc về độc lập tự do. Tinh thần yêu nước, ý thức tự tôn dân tộc trở thành động lực, sức mạnh truyền thống, đạo lý làm người, niềm tự hào và là nhân tố hàng đầu trong hệ giá trị tinh thần Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước của dân tộc có đặc điểm nổi bật là Tinh thần độc lập, tự chủ được hình thành sớm và Tư tưởng gần dân, thân dân, nước gắn liền với nhà- làng- xã, nước gắn liền với dân đậm nét. Gữi làng- giữ nước cũng là dựng làng dựng nước. Dòng chủ lưu này là sợi chỉ đỏ xuyên suốt các thời kỳ lịch sử. Từ thế kỷ thứ II trước Công nguyên, Việt Nam bị các triều đại phong kiến phương Bắc thay nhau đô hộ, sự tồn vong của một dân tộc bị thử thách suốt hơn nghìn năm đã sản sinh ra tinh thần bất khuất, kiên cường, bền bỉ đấu tranh bảo tồn cuộc sống, giữ gìn và phát huy tinh hoa văn hoá, quyết giành lại độc lập cho dân tộc. Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử Việt Nam – kỷ nguyên phát triển quốc gia phong kiến độc lập, thời kỳ xây dựng và bảo vệ nền độc lập dân tộc. Dưới các triêu Ngô (939-965), Đinh (68- 979), Tiên Lê (980 - 1009) Nhà nước trung ương tập quyền được thiết lập. Tiếp đó, Việt Nam bước vào thời kỳ phục hưng và phát triển (với quốc hiệu Đại Việt) dưới thời Lý -Trần -Lê sơ được biết đến như một quốc gia thịnh vượng ở Châu Á. Thăng Long (nay là Hà Nội) cũng được chính thức công nhận là Kinh đô của Đại Việt với Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn vào năm 1010. “Nhờ có ý chí độc lập và lòng khát khao tự do hơn là nhờ quân đông sức mạnh, nước Nam đã thắng các đội xâm lược phong kiến đông mạnh trong lịch sử”. Song động lực của chủ nghĩa dân tộc vĩ đại đó không phải bất cứ lúc nào cũng có thể khơi dậy và phát động mạnh mẽ được. Bước sang đầu thế kỷ XIX, các nước tư bản phương Tây đã chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, càng ráo riết tìm kiếm thị trường, xâm chiếm thuộc địa. Trong hoàn cảnh này, trước mưu đồ đế quốc Pháp thôn tính nước ta, nhiều trí sĩ Việt Nam đã nhận thức được yêu cầu bảo vệ độc lập phải gắn liền với cải cách, đưa đất nước thoát khỏi tình trạnh trì trệ của phương Đông nhưng bị triều Nguyễn khước từ, đẩy đất nước vào tình trạng lạc hậu, bế tắc, từ đó Việt Nam đã trở thành một nửa thuộc địa nửa phong kiến gần 100 năm (1958- 1945) Trước cảnh nước mắt nhà tan đau thương của dân tộc, Nguyễn Ái Quốc nhận lấy trách nhiệm của lịch sử, ra đi tìm đường cứu nước. Sau này, Người viết:“Lúc đầu, chính chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”. Có thể nói rằng, chủ nghĩa yêu nước truyền thống dân tộc và sự bế tắc về tư tưởng, đường lối cứu nước của các phong trào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX đã thôi thúc Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân, cũng có nghĩa là thôi thúc Người ra đi tìm một mô hình Nhà nước, một mô hình xã hội mới cho sự phát triển của dân tộc Việt Nam, phù hợp với xu thế thời đại và có thể phúc đáp được lợi ích của cả dân tộc.Sự tìm kiếm ấy là bước khởi đầu cho quá tình hình thành và phát triển tư tưởng về một Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam. Kế thừa truyền thống của dân tộc, Hồ Chí Minh đã phát triển chủ nghĩa yêu nước truyền thống lên một tầm cao mới trên nền tảng của chủ nghĩa Mác Lênin, làm nên triết lý của Người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới. 1.1.2. Tinh hoa văn hoa văn hoá nhân loại 1.1.2.1. Tinh hoa văn hoá phương Đông Trên hành trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tiếp xúc, thâu thái và tổng hợp nhiều yếu tố văn hoá của phương Đông và phương Tây, tiếp xúc, thâu lược những tinh hoa văn hoá của dân tộc và thời đại. - Khổng Tử dậy “dân là gốc của xã hội”. Mạnh Tử cho rằng, trong nước dân là quý nhất, tiếp theo là xã tắc, vua là nhẹ, nên ai được lòng dân thì được làm thiên tử: “ Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh. Thị cố đắc hồ khuư vi dân nhi Thiên Tử “ Hồ Chí Minh kế thừa và khai thác những yếu tố tích cực, hợp lý trong tư tưởng chính trị của Nho gia, như triết lý nhân sinh lấy tu thân làm gốc, lấy hành động để lập thân và có ý tưởng về một xã hội thái bình thịnh trị, thế giới đại đồng, đề cao văn hoá và truyền thống hiếu học trong xã hội. Nhận thức giá trị tiến bộ của tư tưởng chính trị Nho gia, Người đã sớm chỉ cho chúng ta thấy sức mạnh của lực lượng nhân dân trong xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân “ Gốc có vững cây mới vững bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”. Không chỉ thấy sức mạnh nhân dân như người xưa, phát triển hơn, Người còn nhận thấy nhân dân là người chủ của quyền cai trị- tức quyền lực Nhà nước. Trên cơ sở sức mạnh to lớn của nhân dân, Người khẳng định nhân dân là nguồn gốc của tất cả quyền lực trong nhà nước và ngoài xã hội. -Tư tưởng chính trị của Mặc gia cũng được Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển. Mạc gia chủ trương chính sách kiêm ái trong công cuộc cai trị, nhà cầm quyền phải thương yêu nhân dân, tận tuỵ với nhân dân. Thuyết Kiêm ái hạn chế ở tính duy tâm và phi giai cấp. Loại bỏ những hạn chế đó, tiếp thu tinh thần yêu thương nhân dân của Mạc Gia, Người nói: “Chúng ta phải biết rằng cơ quan chính phủ, từ toàn quốc cho đến các làng xã đều là công bộc của dân”, có nghĩa vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ của nhân dân - Tư tưởng vô vi của Lão Tử. Tư tưởng vô vi coi“Trị nước lớn như nấu cá nhỏ”(Trị đại quốc nhược phanh tiêu tiên).Trị nước việc lớn, phức tạp mà ví như “nấu cá nhỏ”một phương sách chiến luợc- hàm ý nấu cá nhỏ người ta không làm vẩy, lóc thịt là vì người ta sợ làm nát nó đi. Trị nước lớn, bậc thánh nhân không dám dùng đến cái đạo hữu vi mà làm thương tổn và đau khổ nhân dân, xui họ sinh ra chống đối và trá nguỵ. Tư tưởng Lão Gia được Hồ Chí Minh kế thừa trong phương pháp cách mạng nhằm nhận thức quy luật, nắm bắt tiến trình, không ngừng lợi dụng tình thế, tuần tự nhi tiến sít sao theo tiến trình mà không nóng vội, thuận theo nó để sử dụng nó. Cách mạng Tháng Tám là điển hình của việc nắm bắt, lợi dụng tiến trình, thời cơ trong việc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Hồ Chí Minh cũng kế thừa, tiếp thu những yếu tố tích cực của Phật giáo như tư tưởng Từ bi bác ái, thương người như thể thương thân, khuyến thiện, trừ ác, tinh thần bình đẳng, dân chủ, chống lại mọi sự phân biệt đẳng cấp, đề cao lao động, chống luời biếng. Nguời viết :” Không được báo thù báo oán. Đối với những kẻ đi lầm đường lạc lối, đồng bào ta cần phải chính sách khoan hồng “. Về cách mạng Tân Hợi và Tư tưởng Tôn Trung Sơn. Tư tưởng Tam dân:Dân tộc độc lập - Dân quyền tự do -Dân sinh hạnh phúc của Tôn Trung Sơn còn nhiều hạn chế và phong trào thất bại, nhưng Hồ Chí Minh nhận thấy bài học về cách mạng và tư tưởng “Thân Nga thân cộng, phù trợ công nông”là tư tưởng tiến bộ, có thể vận dụng vào cách mạng Việt Nam. Những tinh hoa Nho giáo của Khổng tử, Kiêm ái của Mạc gia, Thuận theo tự nhiên của Lão tử, Từ bi bác ái của Phật giáo,…đã góp phần tích gộp, hình thành trong tư tưởng Hồ Chí Minh về một Nhà nước vì con người, giải phóng con người. Nhà nước ra đời từ trong lòng nhân dân, phục vụ và bảo vệ nhân dân, vì ấm no hạnh phúc của nhân dân. 1.1.2.2 Tinh hoa văn hoá Phương Tây Hồ Chí Minh tiếp nhận những giá trị văn hoá Pháp, văn hoá phương Tây qua lăng kính đoàn kết với các dân tộc thuộc địa và giải phóng. Xuất phát từ lợi ích dân tộc, Nguyễn Ái Quốc dần dần mở rộng tầm nhìn về thế giới, về tiếp biến văn hoá, văn minh tư sản. Người tìm thấy điểm chung trong các dòng văn hoá đó là sự mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu cầu phúc lợi cho xã hội. Người chắt lọc tư tưởng, học thuyết đã có sắn theo phương thức kế thừa cái tốt, cái hợp lý và phát triển sáng tạo, hiện thực hoá lên một tầm cao hơn về chất trong thực tiễn. Nhà nước tư sản ra đời thay thế Nhà nước phong kiến độc đoán, chuyên quyền, khẳng định mạnh mẽ những tư tưởng nhân đạo, các nguyên tắc tự do và bình đẳng của công dân, thừa nhận những nguyên tắc quyền con người không thể bị tước đoạt, tìm tòi cơ cấu, hình thức, công cụ chống lại một cách không khoan nhượng sự tiếm quyền và tình trạng vô trách nhiệm của quyền lực đối với cá nhân và xã hội. Hồ Chí Minh không xa lạ với học thuyết pháp quyền tư sản, đại diện là những nhà tư tưỡng vĩ đại như: Nhà triết học khai sáng Pháp Montecquieu (1689- 1755), tác giả của “Tinh thần pháp luật “(1748)khi đưa ra quan điểm Tam quyền phân lập đã luận giải về sự phân chia quyền lực Nhà nước, ở đó, mô hình tối ưu là mỗi nhà nước đều có ba quyền: Lập pháp - Hành pháp -Tư pháp. Quyền lực ba cơ quan này có phân chia và kiềm chế giữa các quyền (các quyền đối lập và cân bằng nhau) là điều kiện tiên quyết để đảm bảo tự do chính trị trong Nhà nước (tự do làm những gì mà pháp luật cho phép, tự do thể hiện trong pháp luật); Rouseau (1712- 1788)- Nhà triết học khai sáng Pháp đã kế thừa tư tưởng của Montesquieu để xây dựng lý luận về thiết chế dân chủ và nhà nước pháp quyền… Người cũng đã trực tiếp tiếp xúc với những Nhà nước tư sản Anh, Pháp, Mỹ. Đây chính là nguồn để Người nghiên cứu, chắt lọc thành những tư tưởng tích gộp văn hoá độc đáo của mình về nhà nước pháp quyền với điều kiện Việt nam. Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ ngày 4 -7 - 1776 quan niệm cơ bản quyền con người của cá nhân. Đối lập với quyền lực của chế độ phong kiến độc đoán, quan liêu hay quân phiệt, người ta tin rằng, các cá nhân có những quyền nhất định mà không một Chính phủ hay cá nhân nào có thể tước đoạt nếu không có lý do chính đáng, được xác lập theo một cơ chế công bằng, hợp lý. Quan niệm về quyền cá nhân này, sau được gọi là quyền con người và được Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ thể hiện một cách sinh động: “Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng và trong số những quyền không thể tước đoạt đó có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Học thuyết của các nhà tư tưởng tư sản về tổ chức nhà nước và bộ máy Nhà nước, về chính thể Cộng hoà Tổng thống ở Mỹ, chính thể Cộng hoà đại nghị ở Pháp là những mô hình được Hồ Chí Minh khảo sát kỹ lưỡng để thâu thái những mặt mạnh mỗi thiết chế mà sáng tạo trong việc xây dựng mô hình Nhà nước hợp lý ở Việt Nam và phù hợp tiến bộ thời đại. Vận dụng tư tưởng Tuyên ngôn của Mỹ và Pháp, trong áng hùng văn “Tuyên ngôn Độc lập “ khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Hồ Chí Minh đã trích dẫn câu hai nổi tiếng trong Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ và Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền của Pháp, trước hết là để khẳng định cơ sở pháp lý và chính nghĩa của Tuyên ngôn độc lập Việt Nam, nhân quyền về dân quyền, những tư tưởng lớn của thời đại, cao đẹp, là vấn đề chung của con người, của loài người, và dân quyền cùng nhân quyền của Việt Nam cũng không nằm ngoài vấn đề chung đó. Từ đó, quyền bình đẳng, quyền sống, quyền sung sướng, và quyền tự do của Việt Nam và các dân tộc trên thế giới phải được tôn trọng, thừa nhận và bảo vệ. Sự chắt lọc và phát triển sáng tạo có thể thấy chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp 1946 có một số điểm giống chế định Tổng thống trong Hiến Pháp Mỹ. Khẩu hiệu:“ Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” mà Hồ Chí Minh đề ra năm 1945 là đỉnh cao của sự chung đúc từ khát vọng muôn đời của dân tộc, cũng là sự phát triển những tư tưởng “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” của cách mạng tư sản Pháp, tuyên ngôn Độc lập Mỹ, tư tưởng Tam dân của Tôn Trung Sơn lên một trình độ mới mang tính giai cấp, tính dân tộc và tính nhân dân trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng tiên phong của giai cấp công nhân. 1.1.3. Lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin “ Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lê nin khi sáng tạo và phát triển học thuyết của mình, đã luôn luôn chỉ ra rằng học thuyết của các ông không phải là giáo điều mà là sự chỉ đạo hành động. Xuất phát từ nguyên tắc đó- nguyên tắc làm cho chủ nghĩa Mác – Lênin khác với tất cả các học thuyết trước - sự cần thiết phải phát triển học thuyết Mác – Lênin ( trong đó có triết học).Trong bài : “Cương lĩnh của chúng ta”, Lênin viết: “ Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống “ “Chủ nghĩa Mác được Hồ Chí Minh tiếp biến với tính cách là tinh hoa văn hoá nhân loại” (1) làm phong phú thêm kho tàng của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Người tiếp cận “Phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác Lênin là phép biện chứng duy vật - kết quả tổng hợp và là linh hồn sống của lý luận trong của nghĩa Mác Lênin (với các nguyên tắc: thực tế, lịch sủ - cụ thể, khách quan, chỉnh thể và phát triển), sử dụng chúng làm công cụ để nhận thức, cải biến thế giới khách quan thông qua hoạt động thực tiễn theo phương châm: quan điểm về đời sồng, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhát và cơ bản của lý luận nhận thức” ( 2) , “Người dùng các phạm trù chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Lênin, để chỉ trào lưu chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất trong các trào lưư tư tưởng mácxít trên thế giới; đồng thời để thông qua các phạm trù đó, Người chỉ ra tính vận động và tính liên tục, không liên tục của nội dung và phương pháp tiếp cận đối với các quan điểm, học thuyết của chủ nghĩa Mác, để không mắc phải bệnh giáo điều vốn thường nẩy sinh trong các loại chủ nghĩa, tư tưởng. Và chính nhờ thế, Người cũng tiếp cận, tiếp biến nó trong mối liên hệ với tinh hoa văn hoá Đông – Tây” (3).. Minh triết và sáng tạo, về mô hình xấy dựng Nhà nước, “Hồ Chí Minh đã tiếp biến và tổng hợp chính sách “ Độc lập - Tự do - Hạnh phúc “của chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn và Tư tuởng “ tự do, bình đẳng, bác ái” của cách mạng tư sản Pháp, Mỹ, đặc biệt tiếp biến tư tưởng chính quyền công nông của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản của Chủ nghĩa Lênin, để xây dựng nền dân chủ, cộng hoà ở Việt Nam. “ (4) (1, 2, 3,4 : PGS.TS. Phạm Ngọc Anh, Triết lý phát triển Hồ Chí Minh - Giá trị lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hn, 2009, tr 68, 69, 70, 73) 1.1.4 Nhân tố chủ quan Trước hết, đó là minh triết trí tuệ và trái tim quảng đại tình yêu thương con người của một nhà yêu nước vĩ đại, một chiến sỹ cộng sản kiên cường, một đại nhân- đại trí- đại dũng Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới, đã cống hiến trọn đời cho Tổ quốc – nhân dân – nhân loại cần lao vì Độc lập - Tự do – Hanh phúc. Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã nhận lấy trách nhiệm lịch sử suy tìm một giải pháp về con đường cứu nước giải phóng dân tộc, về hình thức Nhà nước phù hợp với điều kiện lịch sử của dân tộc và xu thế phát triển tiến bộ của nhân loại. Nghiên cứu, tiếp biến và phát triển biện chứng giá trị tư tưởng văn hoá truyền thống trong đó cốt lõi là chủ nghĩa dân tộc, ý chí độc lập và khát vọng tự do của tổ tiên, tinh hoa văn hoá phương Đông, phương Tây, đặc biệt là học thuyết cách mạng của Mác và Lênin, Người đã để lại di sản hệ thống quan điểm toàn diện, sâu sắcvà sáng tạo về học thuyết cách mạng giải phóng dân tộc, vì độc lập tự do của Hồ Chí Minh 1.2. Qúa trình hình thành 1.2.1. Thời kỳ trước 1945 Thế kỷ XIV - đầu thế kỷ XX là đêm trường nô lệ của dân tộc, chế độ phong kiến Việt Nam đã suy thoái đến cực điểm, lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, đế quốc Pháp xâm lược nước ta. Kể từ năm 1858 khi thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng, Việt Nam từ một quốc gia phong kiến độc lập đã mất hết quyền tự do, độc lập, trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến thuộc Pháp. Tất cả các phong trào chống Pháp đều thất bại, Vua bị lưu đầy biệt sứ, lãnh tụ lên máy chém, bị mang thủ cấp đi bêu, giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm hoành hành, cả dân tộc tiêu điều, nòi giống, giang sơn, miếu mạo, đền chùa, bàn thờ tổ tiên, mồ mả cha ông bị nô dịch rên siết dưới gót giày thực dân Pháp và bè lũ tay sai. Nhưng trời đất, xã hội vẫn vần vũ theo quy luật, từ mạch nguồn của dòng cháy văn hoá dân tộc mấy ngàn năm tích tụ bừng nở một sinh lực mới, một sức mạnh tự thân. Vận nước bắt đàu từ ngày Nguyến Tất Thành -Người con ưu tú, dũng cảm dân tộc rời bến Nhà Rồng đi tìm đường cứu nước a)Thời kỳ 1911-1930 : Phủ nhận nhà nước thực dân phong kiến- đến Tư tưởng thành lập nhà nước công nông binh - Năm 1911, Giải bài toán thế kỷ của dân tộc, Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc sang phương Tây tìm đưòng cứu nước. Việc ra đi của Người không chỉ thể hiện lòng yêu nước thương dân , hoài bão cứu nước mà còn là thái độ phủ nhận chính quyền thuộc địa Pháp phi pháp, bất hợp hiến Việt Nam. Nơi đầu tiên Người đến là Pháp với quyết tâm tìm câu trả lời ngay trên đất Pháp. Người cần biết cặn kẽ: Đằng sau ba chữ Pháp: “Tự do- Bình đẳng- Bắc ái” của chính thể Cộng hoà Pháp ở chính quốc là gì? Làm gì, con đuờng cách mạng nào để nhân dân Việt Nam “những người nông dân bị nhấn chìm trong bóng đêm hết sức tối tăm”, “thân phận người An Nam chỉ là những thân phận nông nô” được giải phóng? Rời Pháp sang Anh, rồi qua nhiều nước châu Phi, Châu Mỹ La tinh, đến nhiều nước châu Âu, sống và làm việc với các phong trào công nhân ở chính quốc, với những người dân bị áp bức phương Đông và những người làm thuê ở các nước phương Tây, Người nhận thức rõ bản chất bóc lột, bất công của chế độ tư sản dẫn đến những mâu thuẫn sâu sắc không chỉ giữa chủ nghĩa đế quốc với chủ nghĩa đế quốc, giữa giai cấp tư sản chính quốc với phong trào công nhân các nước thuộc địa mà cả giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản ở chính quốc và ở đâu, nhân dân cũng mong thoát khỏi áp bức bóc lột. Từ lòng yêu thương đồng bào mình đến đồng cảm với những người cùng cảnh ngộ trên toàn thế giới, Nguời ý thức về sự đoàn kết giữa các dân tộc nhằm đấu tranh thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc. Trở lại Pháp (1917), thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn Aí Quốc gửi đến Hội nghị Vécxay Bản yêu sách của nhân dân An Nam trong đó có yêu cầu đòi cải cách nền pháp lý ở Đông dương bằng cách cho người bản xứ cũng được đảm bảo về mặt pháp luật như người Âu châu, và phải thay đổi chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật. Đây là tư tưởng đầu tiên “ thần linh pháp quyền” của Hồ Chí Minh. Mùa xuân năm 1919 đánh dấu bước quyết định chính trị đầu tiên khi Nguyễn Tất Thành dưới tên Nguyễn ái Quốc gia nhập Đảng Xã hội Pháp. Điểm xuất phát và động lực duy nhất đưa tới việc Người vào Đảng này “chỉ vì đây là tổ chức duy nhất ở Pháp bênh vực nước tôi, là tổ chức duy nhất theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp: Tự do – Bình đẳng – Bác ái”. Lần đầu tiên giữa Thủ đô của “ mẫu quốc “, một người Việt Nam, trên diễn đàn của Đại hội Đảng Xã hội Pháp đã kịch liệt lên án chủ nghĩa thực dân Pháp xâm lược và đã “nhân danh toàn thể loài người, nhân danh tất cả các đảng viên xã hội, cả phái tả lẫn phái hữu, chúng tôi kêu gọi:“Các đồng chí, hãy cứu chúng tôi”. 22 g ngày 29 –12-1920 Nguyễn Ái Quốc đã tiến đến một quyết định lịch sử, bỏ phiếu tán thành gia nhập quốc tế ba bởi Quốc tế đó ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc, bởi nó có“Những Luận cương của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa”. Và, chính hành động này đã đưa Nguyễn ái Quốc vào hàng ngũ những yếu nhân của lich sử hiện đại ở Châu Âu: Tham gia sáng lập Đảng cộng sản Pháp. Với Nguyễn Ái Quốc, đến với Luận cương của Lê nin là bước ngoạt lịch sử quyết định, sự thay đổi về chất trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Từ đây, Người đã:Từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa cộng sản, đi theo con đường cách mạng Tháng Mười, đứng hẳn về Chủ nghĩa Mác-Lênin và Quốc tế Cộng sản, và nhận ra con đường cứư nước mới cho dân tộc - Con đường cách mạng vô sản: “ Hỡi đồng bào bị đoạ đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”. Với Việt Nam thì hành động lịch sử đó của Nguyễn ái Quốc chính là một ánh chớp giữa đêm đông, là “Túi khôn” để cả dân tộc thức tỉnh tin theo Người, theo Chủ nghĩa Mác Lênin – chủ nghĩa chân chính nhất, cách mạng nhất, đỉnh cao của tư tưởng thời đại “rũ bùn đứng dậy sáng loà”.Sau này, Người nói :” Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý lụân Mác Lênin, vừa làm công tác thực tế, dân dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Nguyễn Ái Quốc khởi đầu hoạt động đấu tranh cách mạng của mình bằng việc tố cáo những tội ác man rợ của bọn thực dân ở thuộc địa, nhằm làm cho nhân dân Pháp và nhân dân thế giới biết được sự thật về cái gọi là” chính sách khai hoá “ của bọn thực dân, gây phẩn nộ xã hội, từ đó kêu gọi “ thức tỉnh”. Người viết:” Mọi chế độ thực dân đế quốc đều tiêu diệt hết giống nòi bản xứ, và muốn cữu vãn những nòi giống này, ta phải lật đổ chủ nghĩa đế quốc. Năm 1925 Nguyễn Ái Quốc viết “ Bản án chế độ thực dân Pháp” nhằm tố cáo tội ác của chế độ thực dân “ăn cướp”, “giết người” và bằng mọi thủ đoạn, chúng bắt “dân bản xứ “phải đóng thuế máu cho chính quốc để “phơi thây trên chiến trường Châu Âu”, “đầy đoạ phụ nữ, trẻ em thuộc địa”, các thống sứ, quan lại thực dân độc ác như một bầy thú dữ v.v… “. Vì vậy, chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới”. Đứng vững trên lập trường dân chủ, dân tộc, yêu nước, kết hợp với tư tưỏng của thời đại “ nhân dân nắm quyền tự quyết”, Nguyễn ái Quốc đã phê phán, tố cáo, buộc tội đối với chủ nghĩa thực dân nói chung và bộ máy thống trị, quan lại chính quyền thực dân thuộc địa đã biến người dân nghèo khổ ở Việt Nam và các xứ thuộc địa thành vật hy sinh để phục vụ cho lợi ích của mình trong các cuộc chiến tranh tàn khôc. Sử dụng hình ảnh “ chủ nghĩa tư bản là con đỉa có hai vòi”, một vòi bám vào giai cấp vô sản ở thuộc đia, một vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc, nếu muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai cái vòi của nó đi, Hồ Chí Minh nêu lên mối liên hệ giữa cách mạng ở chính quốc với cách mạng các nước thuộc đia và sự cần thiết phải liên minh chiến đầu giữa giai cấp vô sản ở chính quốc và giai cấp vô sản ở các thuộc địa, hai cuộc cách mạng đó phải phối hợp nhịp nhàng như cánh của con chim. Người chỉ ra vai trò tích cực chủ động của dân tộc thuộc địa trong cuộc đấu tranh giải phóng khỏi ách áp bức bóc lột của chủ nghĩa thực dân và đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin. Cách mạng thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ khăng khít với nhau, nhưng không phụ thuộc nhau. Cách mạng thuộc địa có thể bùng nổ và giành thắng lợi trưc cách mạng vô sản chính quốc. Bằng “Bản án chế độ thực dân Pháp, “ Nguyễn Ái Quốc không chỉ thể hiện sự kết hợp nhuẫn nhuyễn nguyên lý chủ nghĩa Mác- Lênin với thực tiễn phong trào cách mạng của nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc chống chủ nghĩa thực dân mà còn bô sung và làm phong phú lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Đây là một văn kiện lý luận quan trọng chuẩn bị về nhận thức, tư tưởng cho nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc đứng dậy đấu tranh cách mạng. Tại đại hội V Quốc tế cộng sản, trước tình trạng phong trào cộng sản quốc tế chỉ coi trọng vai trò quyết định của cách mạng vô sản ở chính quốc, mà coi nhẹ hoặc đặt cách mạng giải phóng dân tộc ở địa vị phụ thuộc, bằng lập luận thuyết phục, Hồ Chí Minh đã “thức tỉnh“các đồng chí cộng sản châu Âu về tầm quan trọng của cách mạng thuộc địa, rằng: vận mệnh của giai cấp vô sản các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa”, rằng “nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tâp trung ở các thuộc địa hơn là ở chính quốc…Thế mà các đồng chí khi nói về cách mạng, các đồng chí lại khinh thường thuộc địa… trong lúc chủ nghĩa tư bản lại dựa vào nó để tự bảo vệ và chống lại các đồng chí ” Trong cuộc đấu tranh giải phóng, sự ủng hộ giúp đỡ của quốc tế là quan trọng, song nhân tố quyết định vẫn là sự nỗ lực của bản than nhân dân các nước thuộc địa. Người viết: “Vận dụng công thức của Các Mác, chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng việc nỗ lực của bản thân anh em”. Nhằm chuẩn bị về tổ chức cho sự ra đời của Đảng cộng sản ở Việt Nam mà trước hết là sự chuẩn bị về tư tưởng và truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, năm 1924 Nguyến Ái Quốc từ Nga trở về Quảng Châu - Trung Quốc, thành lập “ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên “ – tổ chức cách mạng của những người Việt Nam yêu nước trong và ngoài nước có tôn chỉ, mục đích “làm cuộc cách mạng dân tộc (đập tan bọn Pháp và giành lại độc lập cho xứ sở), sau đó làm cách mạng thế giới ( lật đổ chủ nghĩa đế quốc và thực hiện Chủ nghĩa cộng sản ) ( Hồ Chí Minh – Tiểu sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hn, 2010, tr 183) và trực tiếp huấn luyện cho tổ chức này về Chủ nghĩa Mác- Lênin, về những vấn đề cơ bản của đường lối cách mạng để họ làm nhiệm vụ truyền bá Chủ nghĩa Mác- Lênin vào Việt Nam và tiến hành thành lập những đường dây liên lạc với trong nước và quốc tế. Tác phẩm “Đường Kách mệnh” - tập hợp những bài giảng do chính Người trình bày tại các lớp huấn luyện “ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên” - thế hệ thanh niên cách mạng đầu tiên ở Hương Cảng, Trung Quốc (xuất bản năm 1927 bằng tiếng Việt), được coi là cuốn Sách giáo khoa lý luận cách mạng đầu tiên của cách mạng Việt Nam: “ Mục
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan