VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRƢƠNG THANH NGA
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN VẬN
VÀ VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG ĐÓ TRONG CÔNG TÁC
VẬN ĐỘNG PHỤ NỮ Ở BÌNH DƢƠNG HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2016
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRƢƠNG THANH NGA
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN VẬN
VÀ VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG ĐÓ TRONG CÔNG TÁC
VẬN ĐỘNG PHỤ NỮ Ở BÌNH DƢƠNG HIỆN NAY
Chuyên ngành: TRIẾT HỌC
Mã số: 60 22 03 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. CAO THU HẰNG
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, dưới sự
hướng dẫn khoa học của TS.Cao Thu Hằng. Tôi xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm về kết quả nghiên cứu của công trình khoa học này.
Tác giả luận văn
Trƣơng Thanh Nga
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1. TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN VẬN: MỘT SỐ VẤN
ĐỀ LÝ LUẬN ................................................................................................ 12
1.1. Khái niệm dân vận và những tiền đề cơ bản cho sự hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh về dân vận ................................................................................. 12
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận: một số khía cạnh cơ bản ................. 22
1.3. Ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận đối với nước ta hiện
nay ........................................................................................................ 29
Chƣơng 2. VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN VẬN
TRONG VẬN ĐỘNG PHỤ NỮ Ở BÌNH DƢƠNG HIỆN NAY: THỰC
TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP.............................................................................. 37
2.1. Một số đặc điểm tỉnh Bình Dương và thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về dân vận trong vận động phụ nữ ở Bình Dương hiện nay .......... 37
2.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về dân vận trong vận động phụ nữ ở Bình Dương hiện nay .......... 61
KẾT LUẬN .................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 77
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người lãnh đạo nhân dân ta tiến hành thắng
lợi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Có sự thắng lợi đó là bởi Người luôn
phát huy sức mạnh đại đoàn kết của cả dân tộc, sức mạnh của nhân dân, vận
động nhân dân tham gia các hoạt động của Đảng, Nhà nước. Trong suốt quá
trình lãnh đạo cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn coi cách mạng là sự
nghiệp của nhân dân; lực lượng cách mạng là toàn dân tộc. Người khẳng định:
“Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc
gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”[48, tr.234]. Chính vì
lẽ đó mà Người luôn coi trọng công tác tập hợp, tổ chức lực lượng cách mạng
thông qua công tác dân vận. Theo Người: “Dân vận là vận động tất cả lực
lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực
lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc
Chính phủ và Đoàn thể giao cho”[48, tr.232]. Muốn làm tốt công tác dân vận,
đòi hỏi mỗi người cán bộ lãnh đạo, quản lý vừa phải dân chủ và tập trung
trong công tác, vừa phải sâu sát, gần gũi với nhân dân. Trong đó, cán bộ làm
công tác dân vận phải vừa là người đồng hành dẫn dắt nhân dân, “phải hướng
về cơ sở, gắn với thực tiễn cơ sở để nắm được và kiểm nghiệm sự sát, đúng
của các chủ trương, chính sách, đồng thời phát hiện những tố mới, những điển
hình tiên tiến để ủng hộ, bồi dưỡng và nhân rộng”[44, tr.611].
Thấm nhuần tư tưởng của Hồ Chí Minh về công tác dân vận, từ khi
thành lập đến nay, qua các thời kỳ cách mạng, Đảng và Nhà nước Việt Nam
luôn luôn đặt công tác dân vận là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu; tuyên truyền, giáo dục, tập hợp quần chúng thành một lực lượng to lớn,
đông đảo, đoàn kết xung quanh Đảng, tham gia các phong trào cách mạng vì
độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của
1
nhân dân. Chính công tác dân vận của Đảng và Nhà nước đã góp phần tuyên
truyền, vận động, tổ chức những phong trào cách mạng rộng lớn, động viên
sức người, sức của, huy động được sức mạnh của toàn dân tộc, làm nên những
chiến thắng vẻ vang, những chiến công hiển hách, giải phóng dân tộc, thống
nhất đất nước, thu non sông về một mối, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Phụ nữ Bình Dương chiếm hơn 50 % dân số toàn tỉnh, có một vai trò
quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội; sự ổn định an toàn, trật tự, an
ninh chính trị của tỉnh Bình Dương. Nhận thức được tầm quan trọng của tư
tưởng Hồ Chí Minh về dân vận, trong những năm qua, phát huy tư tưởng, vận
dụng quan điểm dân vận của Hồ Chí Minh, công tác dân vận của tỉnh Bình
Dương nói chung và công tác vận động phụ nữ nói riêng luôn được thực hiện
tốt. Đó là đoàn kết, vận động, tổ chức, hướng dẫn phụ nữ thực hiện chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; từ đó, đạt được những
kết quả nhất định trong việc tập hợp các tầng lớp phụ nữ Bình Dương tham
gia tích cực các phòng trào của tỉnh với những mô hình tập hợp đa dạng, góp
phần xây dựng Bình Dương giàu đẹp, văn minh, nghĩa tình. Tuy nhiên, bên
cạnh đó, công tác vận động phụ nữ ở Bình Dương theo tư tưởng Hồ Chí Minh
vẫn còn những hạn chế nhất định. Điều đó, trong chừng mực nhất định, gây
ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển kinh tế - xã hội Bình Dương nói chung,
phụ nữ Bình Dương nói riêng. Do vậy, vấn đề đang được đặt ra một cách cấp
thiết trong công tác vận động phụ nữ ở tỉnh Bình Dương hiện nay là làm thế
nào vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận, phát huy những thành quả đạt
được, khắc phục những hạn chế để tiếp tục gặt hái nhiều thành quả to lớn hơn,
đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc phát triển kinh tế, ổn định chính
trị - xã hội của tỉnh Bình Dương.
Do đó, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và vận dụng
tư tưởng đó trong công tác vận động phụ nữ ở Bình Dương hiện nay, có ý
nghĩa thiết thực, vừa cơ bản, vừa cấp bách, cả về lý luận và thực tiễn.
2
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thứ nhất, những vấn đề lý luận chung về dân vận và tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân vận
Công tác dân vận là một công việc, một lĩnh vực hết sức quan trọng
trong đời sống xã hội. Ở nước ta, đây là lĩnh vực cũng nhận được nhiều sự
quan tâm của các nhà nghiên cứu, hoạch định chính sách. Nghiên cứu lý luận
chung về công tác dân vận có nhiều công trình được công bố; tiêu biểu trong
số đó có các công trình sau:
Công trình “Sơ khảo lịch sử công tác dân vận của Đảng Cộng sản Việt
Nam” của Hoàng Xuân Đồng, Trần Lương Ngọc, Võ Đình Liên (Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 1999) đã phân tích, trình bày khá rõ ràng về quá trình
lãnh đạo công tác dân vận của Đảng Cộng sản Việt Nam qua các thời kỳ từ
1930 – 1996 và những bài học lịch sử về công tác dân vận của Đảng ta.
Một số vấn đề về công tác dân vận trong giai đoạn hiện nay (Nguyễn
Thế Trung, chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002) là tập hợp nhiều
bài viết của tác giả liên quan đến công tác dân vận; trong đó, các tác giả đã
khái quát về tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh để đẩy mạnh sự nghiệp đổi
mới. Công trình cũng đã phân tích một số vấn đề đặt ra đối với công tác dân
vận trong giai đoạn hiện nay ở nước ta; từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả công tác dân vận ở nước ta hiện nay.
Công tác dân vận của Phạm Tất Dong, Đỗ Quang Tuấn, Đinh Văn Tư
(Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2004) là giáo trình trung cấp lý luận chính trị.
Trong giáo trình này, các tác giả đã trình bày, phân tích khá sâu về quan điểm
của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng về công tác
dân vận; về công tác dân vận của chính quyền cơ sở, tổ chức cơ sở Đảng, Mặt
trận Tổ quốc; về công tác vận động công nhân, nông dân, trí thức, phụ nữ,
thanh niên, vùng dân tộc miền núi, tín đồ, chức sắc tôn giáo.
3
Công trình Công tác dân vận của các cơ quan nhà nước trong thời kỳ
mới (Nguyễn Tiến Thịnh chủ biên, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2005) đã trình bày
quan điểm Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận, công
tác vận động quần chúng của cơ quan nhà nước trong thời kì công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Công trình cũng phân tích thực trạng công tác dân vận của cơ
quan nhà nước, bao gồm cả những thành công và hạn chế; trên cơ sở đó, đề
xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao công tác dân vận của các
cơ quan nhà nước ở nước ta hiện nay.
Công trình Tiếp dân và dân vận của Nguyễn Ngọc Hiến (chủ biên),
(Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005) đã giới thiệu những kiến thức pháp lý
áp dụng cho các tình huống tiếp dân và dân vận cụ thể ở cấp xã, bồi dưỡng
kiến thức và kĩ năng cơ bản về tiếp dân và dân vận ở cấp xã, phường, thị trấn.
Cuốn sách Về công tác vận động quần chúng hiện nay của Nguyễn Văn
Linh (Nxb TP Hồ Chí Minh, 2012) bao gồm những bài phát biểu và trả lời
phỏng vấn của đồng chí Nguyễn Văn Linh về công tác dân vận, mặt trận,
công đoàn, Hội liên hiệp nông dân tập thể, thanh niên, liên hiệp các hội khoa
học kỹ thuật, phụ nữ, tôn giáo và người Hoa.
Công trình Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác dân vận trong tình hình mới do Vũ Ngọc Am, Vũ Thùy Linh biên
soạn (Nxb Chính trị hành chính, Hà Nội, 2013) đã phân tích, làm rõ một số
quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước, tư tưởng Hồ Chí Minh về
dân vận; phân tích một số vấn đề cơ bản về công tác dân vận ở nước ta
trong tình hình mới.
Công trình Lý luận và kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
công tác dân vận (Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2014) là tập hợp
các bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, lãnh đạo các cấp,…
đưa ra những phân tích sâu sắc, toàn diện, làm nổi bật cơ sở lý luận, thực tiễn
4
và kinh nghiệm của công tác dân vận trong thời gian qua ở nước ta.
Cẩm nang công tác dân vận của Ban dân vận Trung ương (Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2014) là tập hợp những văn bản của Đảng, Nhà nước,
Chính phủ về công tác dân vận. Trong đó, trọng tâm của cuốn sách là một số
vấn đề lý luận liên quan đến công tác dân vận và công tác dân vận của các cấp
chính quyền;
Tập bài giảng về công tác dân vận của Ban dân vận Trung ương do
Nguyễn Thế Trung (chủ biên) (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014) là công
trình đã tập trung phân tích khá sâu cơ sở lý luận của công tác dân vận ở Việt
Nam hiện nay. Một trong những cơ sở lý luận quan trọng mà cuốn sách phân
tích khá rõ là tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh. Cuốn sách cũng đã phân
tích những vấn đề thực tiễn liên quan đến công tác dân vận và những nhiệm
vụ của công tác dân vận hiện nay.
Có thể thấy, trong các công trình trên, ngoài việc đề cập đến vấn đề dân
vận một cách chung nhất, một số công trình cũng đã đề cập tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân vận. Tuy nhiên, một cách chuyên biệt nhất, đề cập đến tư tưởng
dân vận của Hồ Chí Minh thì có thể kể đến các công trình sau:
Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam (Võ Nguyên
Giáp chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008): Công trình làm rõ
những vấn đề lý luận cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, văn hóa,
quân sự; thông qua đó, làm rõ sách lược, chiến lược, con đường cách mạng
Việt Nam. Đó chính là tư tưởng đại đoàn kết, lấy dân làm gốc, dân là lực
lượng quan trọng trong cách mạng Việt Nam. Do vậy, theo các tác giả, việc
huy động, vận động nhân dân, tập hợp mọi lực lượng, hình thành sức mạnh to
lớn của toàn dân tộc trong đấu tranh giải phóng dân tộc là rất cần thiết.
Công trình Học tập và làm theo phong cách “dân vận khéo” Hồ Chí
Minh của tác giả Nguyễn Bá Quang (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013)
5
đã đề cập đến những vấn đề lý luận và thực tiễn tư tưởng Hồ Chí Minh về dân
vận. Đặc biệt, công trình đã đề cập đến một số kỹ năng của công tác làm dân
vận, mà được gọi chung là “Dân vận khéo”. Trên cơ sở dó, công trình đề xuất
một số giải pháp nhằm thực hiện phương pháp dân vận khéo theo tư tưởng Hồ
Chí Minh ở nước ta hiện nay.
Công trình Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận trong thời kỳ
đổi mới ở nước ta hiện nay (Trần Đình Huỳnh, Đặng Xuân Kỳ, Nguyễn Thế
Thắng, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội, 2013) đã đề cập đến sự hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh về dân vận, tính tất yếu của sự vận dụng tư tưởng dân vận
của Hồ Chí Minh ở Đảng ta trong bối cảnh đổi mới hiện nay. Công trình cũng
đã đề cập đến những việc đã làm được, chưa làm được; những khó khăn và
thuận lợi khi vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận ở nước ta thời kỳ
đổi mới.
Luận án tiến sĩ “Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và ý nghĩa của nó đối
với sự nghiệp bảo vệ an ninh tổ quốc”của Phạm Duy Hoàng (Học viện Khoa
học xã hội, Hà Nội, 2015): Trong công trình này, tác giả đã phân tích, làm rõ cơ
sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận, với nội dung chủ yếu là vấn
đề lợi ích của quần chúng; tác giả cũng làm rõ ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân vận đối với sự nghiệp bảo vệ an ninh tổ quốc trong việc xác định
lực lượng, biện pháp, nội dung và phương pháp phát động toàn dân bảo vệ an
ninh Tổ quốc.
Ngoài các công trình trên, còn có thể kể đến các công trình Mối quan hệ
giữa văn hoá và dân vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh của Nguyễn Thạc Hân,
(Tạp chí Tư tưởng văn hóa, số 2, 2004); Phong cách dân vận Hồ Chí Minh
của Nguyễn Thanh Tuyền (Tạp chí Cộng sản, số 9, 2004); Thực hiện di huấn
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác dân vận của Mai Mộng Tưởng (Tạp
chí Văn hóa nghệ thuật, số 304 (tháng 10), năm 2004); Tư tưởng Hồ Chí
6
Minh về dân chủ và vận động nhân dân trong tác phẩm Dân vận của Nguyễn
Thị Kim Hoa (Tạp chí Lý luận chính trị, số 5, 2005); Nhận thức về dân vận
trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh của tác giả Hoàng Trang (Tạp chí Lịch sử
Đảng, số 12, 2005); … Nhìn chung, các công trình này đã đề cập đến mối
quan hệ giữa yếu tố văn hóa và dân vận, giữa dân chủ và dân vận; đều khẳng
định vai trò, ý nghĩa quan trọng của tư tưởng dân vận Hồ Chí Minh trong giai
đoạn hiện nay ở nước ta hiện nay.
Thứ hai, các công trình nghiên cứu thực trạng và giải pháp nâng cao
hiệu quả công tác dân vận và sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận
ở Việt Nam nói chung, tỉnh Bình Dương nói riêng
Công trình“Những nội dung quan điểm và giải pháp cơ bản về tăng
cường, đổi mới công tác dân vận” của Nguyễn Duy Việt (Nxb Văn hóa –
Thông tin, phát hành năm 2013) đã được tác giả phân tích, trình bày khá rõ và
sâu những kết quả, hạn chế công tác dân vận sau 23 năm triển khai thực hiện
Nghị quyết 08B-NQ/HNTW (ngày 27-3-1990 của Ban chấp hành Trung ương
khóa VI); đặc điểm của tình hình mới, sự cần thiết phải tăng cường và đổi
mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới.
Ngoài ra, tác giả còn phân tích làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn của việc kế thừa
các quan điểm của Nghị quyết 08B và phát triển, bổ sung hoàn thiện cho phù
hợp với gia đoạn mới. Trong cuốn sách, tác giả cũng đề xuất những giải pháp
cơ bản để tăng cường công tác dân vận, trong đó tác giả đã tập trung phân tích
khá kỹ giải pháp hàng đầu là: Quyết tâm, kiên trì làm tốt công tác xây dựng
Đảng, tập trung giải quyết tốt những bức xúc của nhân dân vừa là giải pháp
cấp bách vừa là giải pháp mang tính lâu dài của công tác dân vận.
“Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác
dân vận trong giai đoạn hiện nay (theo Hội nghị lần thứ 7 Khóa XI, Nxb. Lao
động – Xã hội phát hành năm 2013): Cuốn sách đã khái quát tư tưởng Hồ Chí
7
Minh về dân vận, đặc biệt cuốn sách đã phân tích khá sâu về sự vận dụng tư
tưởng đó của Đảng Cộng sản Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ cũng như trong công cuộc đổi mới đất nước. Từ đó, cuốn
sách đã rút ra những bài học kinh nghiệm đúc kết từ công tác dân vận của
Đảng và của hệ thống chính trị.
Trong công trình “Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận của
Đảng trong thời kỳ mới” của Hà Thị Khiết (chủ biên) (Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2015), các tác giả đã trình bày khá rõ cơ sở lý luận, thực tiễn về dân
vận, về nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận của Đảng trong thời
kỳ mới và trong những năm thực hiện đường lối đổi mới. Đồng thời đưa ra
những quan điểm, phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác dân vận của Đảng trong thời kỳ mới.
Ở góc độ cụ thể, với các đối tượng cụ thể, có thể kể đến các công trình,
như “Tình hình và nhiệm vụ công tác vận động phụ nữ công nhân viên chức”
của Tổng Công đoàn Việt Nam (Nxb. Lao động, Hà Nội, 1962). Công trình đã
phân tích, nhận định tình hình của phong trào phụ nữ, viên chức về sự biến
chuyển và những khó khăn còn tồn tại. Kiểm điểm việc tổ chức chỉ đạo công
tác vận động quần chúng trên các mặt công tác công đoàn. Nhiệm vụ công tác
vận động phụ nữ công nhân viên chức của công đoàn, đặc biệt là công tác vận
động phụ nữ công nhân viên chức từ khi miền Bắc được giải phóng năm 1954.
Trong Luận án tiến sĩ Đổi mới công tác dân vận của quân đội nhân dân
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh của tác giả Vũ
Đình Tấn (Hà Nội, 2001), bên cạnh việc đề cập đến giá trị của tư tưởng Hồ
Chí Minh đối với công tác dân vận của quân đội, đề tài cũng phân tích, làm rõ
những nhân tố ảnh hưởng đến công tác vận động quần chúng trong quân đội
hiện nay; phân tích những vấn đề đặt ra với công tác dân vận hiện nay; trên cơ
sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm đổi mới công tác dân vận của quân đội
nhân dân Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
8
Luận án tiến sĩ Công tác vận động đồng bào Khmer của các Đảng bộ
xã, phường, thị trấn ở Tây Nam Bộ trong giai đoạn hiện nay (Đẳng Trí Thủ,
Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, 2012) đã phân tích
khái quát công tác vận động đồng bào Khmer của các đảng bộ xã, phường, thị
trấn ở Tây Nam Bộ trong giai đoạn hiện nay. Luận án cũng đánh giá được
thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao công tác vận động
đồng bào Khmer của các Đảng bộ xã, phường, thị trấn ở các tỉnh Tây Nam Bộ.
Ở Bình Dương, nghiên cứu vấn đề dân vận nói chung và vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận trong vận động phụ nữ cũng đã được
đề cập. Đó là Tài liệu tuyên truyền kỷ niệm 75 năm ngày truyền thống công
tác dân vận của Đảng Công sản Việt Nam của Ban Dân vận tỉnh ủy Bình
Dương, năm 2005. Cuốn tài liệu đã trình bày, phân tích khái quát tư tưởng
dân vận của Hồ Chí Minh qua các bài báo của Người; vai trò, nhiệm vụ của
công tác dân vận trong thời kỳ mới. Cùng với đó là tài liệu Công tác vận động
quần chúng của Ban dân vận tỉnh ủy Bình Dương, năm 2011. Tài liệu đã trình
bày khái quát về dân vận, các văn bản Trung ương về công tác tác vận động
quần chúng; đặc biệt cuốn tài liệu đã tập hợp được nhiều văn bản liên quan
đến chương trình hành động của Ban dân vận tỉnh ủy Bình Dương về công tác
dân vận và vận động quần chúng. Ngoài 02 tài liệu trên, công tác dân vận nói
chung ở tỉnh Bình Dương, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận
trong công tác vận động phụ nữ cũng chỉ chủ yếu được xem xét trong phạm vi
là một nội dung của công tác vận động quần chúng, trong các báo cáo của
Tỉnh ủy, Ban Dân vận tỉnh ủy, các đoàn thể, chứ chưa được nghiên cứu một
cách chuyên biệt.
Như vậy, cho đến nay, khối lượng các công trình nghiên cứu về dân
vận nói chung, cũng như tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận nói riêng và sự
vận dụng tư tưởng đó trong công tác tập hợp, vận động quần chúng ở Việt
9
Nam là khá phong phú. Tuy nhiên, chưa có công trình khoa học độc lập nào
nghiên cứu một cách trực tiếp, có hệ thống về sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân vận vào công tác vận động phụ nữ ở Bình Dương hiện nay. Các
công trình trên là tài liệu tham khảo hữu ích cho tác giả luận văn khi triển
khai viết đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn: Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận tư
tưởng Hồ Chí Minh về dân vận, phân tích thực trạng việc vận dụng tư tưởng
đó trong vận động phụ nữ ở Bình Dương; đề tài đề xuất một số giải pháp cơ
bản nhằm nâng cao hiệu quả vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận
trong công tác vận động phụ nữ ở Bình Dương hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn: Để đạt được mục đích trên, luận văn tập
trung giải quyết một số nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, phân tích, làm rõ khái niệm dân vận, những tiền đề cơ bản
cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận.
Thứ hai, làm rõ những khía cạnh cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh
về dân vận và ý nghĩa của tư tưởng đó ở nước ta hiện nay.
Thứ ba, phân tích thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân
dận trong công tác vận động phụ nữ ở Bình Dương; đề xuất một số giải pháp
cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả vận dụng tư tưởng đó của Hồ Chí Minh trong
công tác vận động phụ nữ ở Bình Dương hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu: tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và vận dụng
tư tưởng đó trong công tác vận động phụ nữ ở Bình Dương hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về dân vận trong công tác vận động phụ nữ ở tỉnh Bình Dương từ năm 2010
đến nay.
10
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu luận văn
Cở sở lý luận của luận văn: luận văn sử dụng các nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối chính
sách của Đảng và Nhà nước ta về công tác dân vận, về công tác phụ nữ.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử;
đồng thời, luận văn có sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác, như lôgíc,
lịch sử, phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, diễn dịch, quy nạp,…
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận, luận văn góp phần làm sáng tỏ tư tưởng Hồ Chí Minh
về công tác dân vận và việc vận dụng tư tưởng đó ở Bình Dương hiện nay.
Ý nghĩa thực tiễn, từ những kết quả nghiên cứu, luận văn cung cấp
thêm nguồn tư liệu cho các chương trình vận động phụ nữ ở tỉnh Bình Dương
trong bối cảnh hiện nay. Ngoài ra, những kết quả nghiên cứu của đề tài có thể
sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy về vấn đề công
tác dân vận nói chung, công tác vận động phụ nữ nói riêng.
7 Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2
chương và 5 tiết. Trong đó:
Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận: Một số vấn đề lý luận
Chương 2: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận trong vận động
phụ nữ ở Bình Dương hiện nay: thực trạng và giải pháp.
11
Chƣơng 1
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN VẬN:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm dân vận và những tiền đề cơ bản cho sự hình thành
tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về dân vận
1.1.1. Khái niệm dân vận
Trong cuốn Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ, thì dân vận là “sự
vận động trong dân chúng để lôi cuốn họ theo một đường lối nào”[82, tr.211];
còn theo Đại Từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý (chủ biên), dân vận được
coi là: “tuyên truyền vận động nhân dân: Công tác dân vận – các tổ chức dân
vận”[83, tr.190].
Trong Tập bài giảng về công tác dân vận, dân vận được hiểu “là công
tác tuyên truyền, giáo dục, vận động, thuyết phục mọi người dân thực hiện tốt
các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
những việc có ích nên làm”[3, tr.17].
Như vậy, trong các quan niệm trên, có thể nhận thấy, một trong những
nhiệm vụ quan trọng của dân vận đó là tập hợp và huy động sức mạnh của
toàn dân (mọi người, mọi nhà, mọi đối tượng) vào các phong trào cách mạng,
các hoạt động kinh tế - xã hội, chính trị của Đảng và Nhà nước và các cơ quan
đoàn thể. Đó là công việc của nhà nước, của các tổ chức chính trị - xã hội
trong hệ thống chinh trị.
Xuất phát từ quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin, xuất phát từ kinh
nghiệm hoạt động cách mạng và từ tình hình thực tiễn đất nước, trong bài viết
Dân vận, Hồ Chí Minh cho rằng, dân vận là “vận động tất cả lực lượng của
mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn
dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và
Đoàn thể giao cho”[48, tr.232].
12
Từ những định nghĩa nêu trên, dưới góc độ tiếp cận của luận văn này,
chúng tôi đưa ra quan niệm: Dân vận được xem là công việc (hay còn gọi là
nhiệm vụ chính trị) của Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội nhằm vận
động, tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục nhân dân thực hiện các chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Công tác dân vận này có thể là vận động nhân dân trong từng lĩnh vực
cụ thể của đời sống xã hội, như kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội; với từng
đối tượng cụ thể, như phụ nữ; đồng bào vùng sâu, vùng xa; thanh niên,…
Trong các lĩnh vực cụ thể hay các đối tượng cụ thể, trong ngôn ngữ thường
dùng, người ta hay sử dụng là vận động phụ nữ, vận động thanh niên…
1.1.2. Những tiền đề cơ bản cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân vận
Thứ nhất, tiền đề thực tiễn
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là một giai đoạn lịch sử có nhiều sự
kiện và chuyển biến quan trọng trên thế giới. Lúc này, giai cấp tư sản đã áp
dụng khoa học – kỹ thuật vào trong quá trình sản xuất, thúc đẩy nền sản xuất
phát triển nhanh chóng và làm thay đổi diện mạo của đời sống xã hội. Nền
kinh tế hàng hóa phát triển mạnh đã đặt ra yêu cầu bức thiết về thị trường. Đó
là nguyên nhân sâu xa dẫn đến việc các nước thực dân châu Âu đi xâm lược
các quốc gia phong kiến phương Đông, Mỹ La tinh, châu Phi nhằm biến các
quốc gia này thành thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, mua bán nguyên
vật liệu, khai thác sức lao động và xuất khẩu tư bản của các nước đế quốc.
Điều này đã tạo nên sự thay đổi sâu sắc các mặt của đời sống xã hội, như kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội… của các dân tộc thuộc địa, tiêu biểu như đời
sống của nhân dân ở các nước thuộc địa hết sức khó khăn và cực khổ. Chính
điều đó đã tác động rất lớn đến nhà tư tưởng ở các nước thuộc địa lúc bấy giờ:
đó là làm thế nào để giải phóng nhân dân lao động ra khỏi áp bức bóc lột, bất
công, đưa nhân dân lao động đến một cuộc sống tốt đẹp hơn.
13
Trong bối cảnh đó, Việt Nam, một quốc gia phong kiến nhỏ bé và lạc
hậu ở phương Đông, bị thực dân Pháp nổ súng xâm lược vào ngày 31 tháng 8
năm 1858. Triều đình nhà Nguyễn nhu nhược trước sự xâm lược của kẻ thù,
lần lượt ký các hiệp ước ÁcMăng (1883) và Patơnốt (1884) đầu hàng, thừa
nhận nền bảo hộ của thực dân Pháp trên toàn cõi Việt Nam. Điều này đã dẫn
đến những thay đổi to lớn về mặt kinh tế, chính trị, xã hội nước ta lúc bấy giờ.
Về kinh tế, quan hệ kinh tế nông thôn bị phá vỡ, thực dân Pháp kết hợp hai
phương thức bóc lột tư bản và phong kiến trở thành chính sách kinh tế thực
dân để thu lợi nhuận siêu ngạch, với chế độ thuế khóa vô cùng nặng nề và phi
lý làm cho đời sống của nhân dân ta hết sức khổ cực, lầm than và lâm vào
cảnh bần cùng.
Về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách chính trị chuyên chế.
Cùng với chính sách đàn áp dã man phong trào cách mạng, chúng còn dùng
chính sách chia để trị. Chúng chia nước ta thành ba miền với ba tên gọi khác
nhau, ba hình thức cai trị khác nhau nhằm chia rẽ và gây thù hằn dân tộc.
Về cơ cấu xã hội, các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ảnh
hưởng mạnh mẽ đến tình hình xã hội Việt Nam. Sự phân hóa giai cấp diễn ra
ngày càng sâu sắc hơn. Nổi bật đó là: giai cấp địa chủ phong kiến bị phân hóa
thành ba bộ phận khá rõ rệt là tiểu, trung và đại địa chủ. Có một số thì bị phá
sản. Vốn sinh ra và lớn lên trong một quốc gia dân tộc có truyền thống yêu
nước chống giặc ngoại xâm, lại bị chính sách thống trị tàn bạo về chính trị,
chèn ép về kinh tế, nên một bộ phận không nhỏ tiểu và trung địa chủ không
chịu nỗi nhục mất nước, có mâu thuẫn với thực dân đế quốc về quyền lợi dân
tộc nên đã tham gia đấu tranh chống thực dân đế quốc và bọn phản động tay
sai; giai cấp nông dân chiến khoảng 90% dân số. Họ bị thực dân đế quốc,
phong kiến địa chủ và tư sản áp bức, bóc lột rất nặng nề. Ruộng đất của nông
dân đã bị bọn tư bản thực dân chiếm đoạt. Chính sách độc quyền kinh tế, mua
14
rẻ bán đắt, tô cao, thuế nặng, chế độ cho vay nặng lãi… của thực dân đế quốc
và phong kiến đã đẩy nông dân Việt Nam vào con đường bần cùng hóa không
lối thoát. Chính thực tế đó tạo ra động lực rất lớn ở giai cấp nông dân Việt
Nam là phải đoàn kết, thống nhất lại để cùng nhau đấu tranh giải phóng mình
ra khỏi ách áp bức bóc lột, sự bần cùng đó; giai cấp công nhân là sản phẩm
trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp và nằm trong
những “mạch máu” kinh tế quan trọng do chúng nắm giữ. Đời sống của họ hết
sức khó khăn và khổ cực, phải làm việc quần quật không có ngày nghỉ mà chỉ
được trả lương với vài đồng xu rẻ mạt, không đủ ăn. Chính sự bóc lột nặng nề
đó đã dẫn đến những phong trào đấu tranh tự phát của giai cấp công nhân Việt
Nam nhằm mục đích thay đổi cuộc sống hiện tại; giai cấp tư sản và tầng lớp
tiểu tư sản cũng được hình thành trong quá trình khai thác thuộc địa của thực
dân Pháp. Tuy nhiên, đó là lực lượng yếu ớt, lại ra đời trong điều kiện bị tư
bản Pháp chèn ép, thế lực kinh tế nhỏ bé, thế lực chính trị yếu đuối. Chính vì
vậy, bản thân họ cũng luôn sẵn sàng vùng dậy đấu tranh, để cùng dân tộc sống
trong một xã hội tự do, hạnh phúc.
Tuy chịu cảnh nô lệ trước sự nhu nhược của triều đình nhà Nguyễn,
song không vì thế mà tính cách dân tộc, truyền thống độc lập dân tộc của các
thế hệ thời đó bị mai một; trái lại, tinh thần chấn hưng dân khí rất sôi nổi và
rộng khắp. Các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta nổ ra từ Bắc chí Nam, tiêu
biểu như: Cuộc nổi dậy “búa rừu”, Phong trào do Phan Châu Trinh đứng đầu
năm 1908, Phong trào Đông Kinh Nghĩa thục, Quả bom Hà Nội, Cuộc khởi
nghĩa Thái Nguyên, Cuộc mưu loạn Phan Xích Long, Cuộc tấn công khám
lớn Sài Gòn,… Tuy nhiên, mọi nỗ lực để thực hiện cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc trên lập trường dân chủ tư sản của các sĩ phu yêu nước lúc bấy
giờ không thể đem lại thành quả như mong muốn. Lịch sử dân tộc không chỉ
ghi nhận một hiện thực đau xót trước sự chấm dứt khẩu hiệu “phò vua cứu
15
nước” của phong trào Cần Vương (1885-1896) do Hàm Nghi và Tôn Thất
Thuyết phát động, với các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu: Khởi nghĩa Bãi Sậy
(1883-1892) của Nguyễn Thiện Thuật, khởi nghĩa Ba Đình (1886-1887) của
Phạm Bành và Đinh Công Tráng, khởi nghĩa Hùng Lĩnh (1887-1892) của Tống
Duy Tân và Cao Điển, khởi nghĩa Hương Khê (1885-1895) của Phan Đình
Phùng, phong trào nông dân Yên Thế của Hoàng Hoa Thám, và sự dập tắt, sự
thất bại liên tiếp của các tổ chức, phong trào yêu nước sau đó vào 1908-1909,
tiêu biểu như: “Duy tân hội – một tổ chức sĩ phu yêu nước gắn liền sự quang
phục với cuộc duy tân… Một chủ trương lớn của Duy tân hội là “Đông du”.
Đông du là đi Nhật để học hỏi”[25, tr.10]; “Đông kinh nghĩa thục” ở Bắc, ở
Trung; “Minh tân” ở Nam;…
Trước tình hình đó, yêu cầu đặt ra là cần phải tìm ra một hướng đi mới,
giải quyết đúng đắn mọi vấn đề của cách mạng giải phóng dân tộc, mà một
trong những những nhiệm vụ đó đó là vấn đề tập hợp lực lượng cách mạng:
làm thế nào huy động được một lực lượng đông đảo người dân tham gia và
hoạt động cách mạng. Có như vậy mới có thể tạo một sự cố kết rộng lớn, cùng
tham gia vào công việc chung của đất nước. Điều này đã thu hút được đông
đảo những nhà yêu nước, đặc biệt là lớp thành niên trí thức trẻ tham gia tìm
con đường cứu nước mới để giải phóng dân tộc, trong đó có Nguyễn Tất
Thành – Hồ Chí Minh. Theo đó, cùng với nhu cầu phải tìm ra một hệ tư tưởng
mới thay thế hệ tư tưởng phong kiến nhằm soi sáng con đường giải phóng của
dân tộc ta, thì nhu cầu tập hợp quần chúng nhân dân, nhằm thực hiện một
cuộc cách mạng cũng trở nên cấp thiết.
Thứ hai, tiền đề lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận
Bên cạnh thực tiễn lịch sử đất nước và thế giới đã hình thành nên tư
tưởng Hồ Chí Minh về dân vận, về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch
sử, thì những giá trị truyền thống của dân tộc, tư tưởng coi trọng nhân dân, đề
16
- Xem thêm -