Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tư tưởng của trần nhân tông về con người và những giá trị của nó trong xây dựng ...

Tài liệu Tư tưởng của trần nhân tông về con người và những giá trị của nó trong xây dựng con người việt nam hiện nay

.PDF
98
204
110

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI -------- HOÀNG THỊ TRANG TƯ TƯỞNG CỦA TRẦN NHÂN TÔNG VỀ CON NGƯỜI VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA NÓ TRONG XÂY DỰNG CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HÀ NỘI - 2017 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI -------- HOÀNG THỊ TRANG TƯ TƯỞNG CỦA TRẦN NHÂN TÔNG VỀ CON NGƯỜI VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA NÓ TRONG XÂY DỰNG CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành : Triết học Mã số : 60.22.03.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH PHAN XUÂN SƠN HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng, luận văn thạc sĩ triết học với đề tài: “Tư tưởng của Trần Nhân Tông về con người và những giá trị của nó trong xây dựng con người Việt Nam hiện nay” là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của GS. TSKH Phan Xuân Sơn. Các số liệu, trích dẫn và tài liệu tham khảm trong luận văn là hoàn toàn trung thực và có nguồn gốc rõ ràng Hà Nội, tháng 5 năm 2017 Tác giả Hoàng Thị Trang LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn này, em xin chân thành cảm ơn Ban chủ nhiệm, các thầy giáo, cô giáo trong khoa Triết học, trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp em trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài. Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc và chân thành đến GS. TSKH Phan Xuân Sơn, người đã tận tâm, nhiệt tình hết lòng chỉ bảo, hướng dẫn cho em trong quá trình thực hiện luận văn. Xin kính chúc thầy và gia đình luôn luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành công. Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè - những người đã quan tâm, tạo điều kiện tốt nhất và luôn động viên tôi trong quá trình học tập và hoàn thiện luận văn. Hà Nội, tháng 5 năm 2017 Tác giả Hoàng Thị Trang MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1 1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................... 1 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ............................................... 4 3. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................... 6 4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu.......................................................... 6 5. Giả thuyết khoa học .................................................................................. 7 6. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................... 7 7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu ................................................................... 7 8. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 7 9. Kết cấu luận văn ................................................................................................. 8 10. Những đóng góp mới của luận văn ........................................................ 8 Chương 1: ĐIỀU KIỆN KINH TẾ, CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI VIỆT NAM THỜI KỲ NHÀ TRẦN VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC TRẦN NHÂN TÔNG .................................................. 9 1.1. Khái quát đặc điểm điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội thời kỳ nhà Trần .................................................................................................... 9 1.2. Những tiền đề hình thành nên tư tưởng của Trần Nhân Tông ......... 14 1.2.1. Giá trị văn hóa Việt Nam truyền thống và tư tưởng của “Tam giáo” với việc hình thành tư tưởng triết học Trần Nhân Tông ...... 14 1.2.2. Tư tưởng triết học Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng sĩ tiền đề lý luận trực tiếp hình thành nên tư tưởng triết học Trần Nhân Tông ...................................................................................... 33 Chương 2: NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU VỀ CON NGƯỜI TRONG TƯ TƯỞNG CỦA TRẦN NHÂN TÔNG VÀ GIÁ TRỊ CỦA NÓ TRONG XÂY DỰNG CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY........... 42 2.1. Bản thể luận về con người ..................................................................... 42 2.1.1. Về nguồn gốc, bản chất, sứ mệnh con người ................................ 42 2.1.2. Quan niệm của Trần Nhân Tông về vấn đề đạo đức, trí tuệ, giải thoát ....................................................................................... 48 2.2. Tư tưởng của trần nhân tông về tâm tính của con người và Phật tính của Phật giáo......................................................................... 50 2.2.1. Quan niệm tâm chính là Phật (“tức tâm tức Phật”) ...................... 50 2.2.2. Học thuyết vô niệm ....................................................................... 56 2.2.3. Tinh thần nhập thế tích cực ........................................................... 58 2.3. Tư tưởng về con người chính trị của Trần Nhân Tông ...................... 61 2.3.1. Quan niệm về chính trị của Trần Nhân Tông ............................... 61 2.3.2. Quan niệm về con người trong chính trị của Trần Nhân Tông ........ 66 2.3.3. Tư tưởng về sứ mệnh của con người với Tổ Quốc của Trần Nhân Tông .................................................................................... 69 2.4. Những giá trị của tư tưởng về con người của Trần Nhân Tông trong việc xây dựng con người ở Việt Nam hiện nay......................... 74 2.4.1. Yêu cầu của việc xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ mới ........ 74 2.4.2. Vận dụng những giá trị tư tưởng về con người của Trần Nhân Tông vào việc xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam hiện nay................................................................................ 78 KẾT LUẬN ....................................................................................................... 89 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 91 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Vương triều Trần rực rỡ để lại những giá trị đặc biệt có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của đất nước: Một triều đại vừa sinh Phật, vừa sinh Thánh. Cả Phật và Thánh nhà Trần cho đến tận ngày hôm nay, sau gần một thiên niên kỷ bão táp, vẫn giữ một vị trí sừng sững trong tâm thức dân tộc. Cùng với thời gian, những tư tưởng của vị Hoàng đế thứ 3 của triều đại nhà Trần - Trần Nhân Tông để lại càng có giá trị với tầm vóc vượt thời gian. Ngay từ thế kỷ 13, trí tuệ và tư tưởng Trần Nhân Tông đã đạt tới đỉnh cao, đặc biệt là vấn đề về vấn đề con người. Trần Nhân Tông là ông vua minh triết trong lãnh đạo, dũng cảm, kiên quyết trong đánh giặc và ân tình trong việc trị dân, trị nước, và sâu sắc trong tu hành. Với tình thương và tâm từ bi rộng lớn, tấm lòng yêu nước và thương dân kết hợp với khuynh hướng chính trị nhạy bén của Trần Nhân Tông, người đã tiếp tục biên khảo bộ Hình Luật, chú trọng nhiều hơn đến quyền con người dưới thời ông trị vì. Hội nghị Diên Hồng Và hội nghị Bình Than dưới sự dẫn dắt của Trần Thánh tông và Trần Nhân tông đã nói lên điều đó. Đối diện với vận mệnh của đất nước đang lâm nguy trước giặc ngoại xâm, ông đã kêu gọi tiếng nói và sự đồng lòng của vua tôi, quần thần và nhân dân trong việc bảo vệ đất nước. Hành động đó đã thể hiện rõ chủ quyền của mỗi công dân và quyền con người rất được tôn trọng. Những tác phẩm của Trần Nhân Tông mang ý nghĩa sâu sắc về tư tưởng con người trước hết phải kể tới “Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca” - chủ yếu bàn về thân - tâm, vốn là những thứ chủ yếu gây nghiệp chướng cho đời sống con người, là cội nguồn nảy sinh dục vọng để khiến con người tự trở thành nô lệ và tội đồ của chính mình, tự ngăn trở và làm lạc hướng trong việc tạo tác nguồn tâm vô nhiễm - trong trẻo và ngay lành. Đó mới thực sự là hình ảnh tốt đẹp của con người ở mọi thời đại. 2 Trần Nhân Tông để lại phần tâm cốt nhất của tư tưởng và tình cảm lớn, góp phần vào sự nghiệp giáo hóa con người, nhằm ổn định nhân tâm, khai mở nội lực (cả nhận thức lẫn hành động) và mạnh bền thế nước dài lâu. Bởi chính trong lúc đang ở cõi tu, Trần Nhân Tông vẫn chủ động dấn thân chăm lo mở cõi - bằng việc làm “vô tiền khoáng hậu” là quyết định gả con gái duy nhất của mình cho vua Chiêm, đổi lấy hai châu Ô - Lý. Đây chính là mảnh đất đầy vị thế về địa lý - chính trị - quân sự và kinh tế - văn hóa, đặc biệt là thế mạnh gần như độc tôn về phát triển công nghệ vi sinh thế kỷ 21 và còn mãi về sau. Tóm lại, khi nhắc đến tư tưởng của Trần Nhân Tông, người ta không quên tư tưởng nổi bật về con người của Trần Nhân Tông đó là bài học phát huy nội lực con người ở thời đại của ông, là cao nền giáo hóa con dân theo cách thiện, giúp họ hoàn thiện quá trình tự nhận thức để giữ được tâm trong và trí sáng, biết bình tâm trước mọi diễn biến của đời sống, đạt độ an nhiên tự tại, ít bị vướng bận vào hệ lụy thường tình như tham, sân, si, nhất là những mặc cảm áp chế thân phận và cá tính. Trên cơ sở đó mà thăng hoa hết mình cả tâm hồn và trí tuệ để có thể sáng tạo và dâng hiến cho đất nước. Và chính Trần Nhân Tông - cả khi chỉ huy đánh giặc lẫn khi xây dựng hòa bình đều đã thể hiện rõ sức mạnh tự thân ấy. Nó lan truyền sang tướng sĩ và thần dân, thôi thúc ở họ lòng tự tin, tính nhân hậu, ham học hiểu, với khao khát hòa ái và lịch duyệt, biết thiện nhẫn và làm tròn bổn phận trên tinh thần tự cường và tự tôn dân tộc. Cho nên, tư tưởng Trần Nhân Tông - trong đó, lớn nhất và cao sâu nhất là bài học khai phóng nội lực con người - trước hết không phải là những giá trị tôn giáo, mà là giá trị dân tộc, thuộc về bản sắc cao quý, cần và theo suốt hành trình dân nước dài lâu. Nếu không thấy, nhất lại là không thực hành lấy cho nghiêm thì đó quyết không phải lỗi ở tiền nhân kỳ bí, mà chính là ở hậu 3 thế nhạt nhòa - ví như cuối đời Trần, khi vương triều suy vi, Trần Nghệ Tông đã phải thốt lên: Tự hận nhi tôn tham bão noãn Bất tùy xung mật báo thâm ân. Dịch thơ: Tự hận cháu con tham lợi lộc Không theo nghĩa lớn báo ơn dày. Đó là sự treo giá của những bài học lịch sử sâu xa và cội rễ. Nghiên cứu về tư tưởng con người của Trần Nhân Tông giúp chúng ta am hiểu về con người Việt Nam thời kỳ trước, lấy đó làm chuẩn mực cho sự tiếp nối và phát huy truyền thống dân tộc, xây dựng đất nước ngày một văn minh. Nhất là trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay chúng ta vẫn đang xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam sao cho phù hợp với sự phát triển tiến lên của dân tộc. Vấn đề này được Đảng và nhà nước hết sức chú trọng, đặc biệt trong nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII vừa qua, Đảng ta đã chỉ rõ: “phát huy nhân tố con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh”. Và tư tưởng của Trần Nhân Tông là một trong những yếu tố tham chiếu cho việc phát huy nhân tố con người, vì vậy cần nghiên cứu và làm rõ tư tưởng của Trần Nhân Tông. Ngày nay, chúng ta coi con người là mục tiêu, là động lực của sự phát triển, tức là coi con người là mục tiêu sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, phát triển đất nước. Vấn đề con người là một đề tài lớn trong triết học, nó không chỉ có ý nghĩa trong việc xây dựng nền văn hóa của một đất nước, mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện của một quốc gia, một dân tộc. Ở Việt Nam cũng vậy, trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước do Đảng 4 lãnh đạo và nhân dân tiến hành, cùng với nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đặc biệt là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, chúng ta còn có một nhiệm vụ vô cùng quan trọng là xây dựng hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam trong thời kỳ hội nhập, là “Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, tạo điều kiện để xây dựng con người Việt Nam đẹp về nhân cách, đạo đức, tâm hồn; cao về trí tuệ, năng lực, kỹ năng sáng tạo; khỏe về thể chất; nâng cao trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật”. Điều này có nghĩa là muốn phát triển đất nước thì không thể tách rời phát triển con người. Vì vậy việc tìm hiểu, nghiên cứu những giá trị văn hóa con người là điều cần thiết, trên cơ sở đó phát huy sức mạnh dân tộc trong thời đại ngày nay. Vì vậy tôi đã chọn đề tài luận văn thạc sĩ triết học: Tư tưởng của Trần Nhân Tông về con người và những giá trị của nó trong xây dựng con người Việt Nam hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Sự nghiệp, cuộc đời và tư tưởng triết học về con người của Trần Nhân Tông được nhiều thế hệ nghiên cứu về nhiều mặt khác nhau, qua các chủ đề phong phú. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp của Trần Nhân Tông. Trong đó, các hướng nghiên cứu được chia ra làm 3 nhóm chính: Đầu tiên là những công trình nghiên cứu về Trần Nhân Tông trên phương diện tư tưởng, văn hóa và tôn giáo, trong đó có: Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang, Nxb. Văn Học, Hà Nội, xuất bản năm 2000; Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên năm 1968; Thiền uyển tập anh, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1993; Thơ văn Lý - Trần do Viện văn học Hà Nội biên soạn; Tư tưởng Phật giáo Việt Nam của Nguyễn Duy Hinh, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, xuất bản năm 1999; Lịch sử Phật giáo Việt Nam, của Thích Minh Tuệ, Thành hội Phật giáo Tp. Hòa Chí Minh, xuất bản năm 1993; Tam tổ thực lục, 5 Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam, xuất bản năm 1995 (Thích Phước Sơn dịch và chú giải); Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam (3 tập) của Lê Mạnh Thát, Nxb, Tp. Hồ Chí Minh, xuất bản năm 2002; Thiền học Việt Nam của Nguyễn Năng Thức, Nxb. Lá Bối, Sài Gòn, 1966; Tư tưởng Phật giáo Việt Nam của Nguyễn Duy Hinh, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, xuất bản năm 1999; Hầu hết các công trình trên đều đã trình bày và phân tích tương đối cụ thể, sâu sắc tư tưởng của Trần Nhân Tông giúp ta thấy rõ được vị trí, vai trò của Trần Nhân Tông trong lịch sử tư tưởng Việt Nam Thứ hai, đó là các công trình nghiên cứu về Trần Nhân Tông trên phương diện lịch sử. Trong lĩnh vực này, phải kể đến những tác phẩm tiêu biểu sau: Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên - Mông thế kỷ XIII của Hà Văn Tấn - Phạm Thị Tâm, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1975; Đại cương lịch sử Việt Nam, do Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn chủ biên, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, xuất bản năm 2005; Tác phẩm Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998; tác phẩm Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý - Trần, của Viện Sử học, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, xuất bản năm 1980 và tác phẩm Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng Tháng Tám (3 tập), của Trần Văn Giàu, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996; Các công trình khoa học trên đã phân tích và trình bày một cách sâu sắc điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội …cũng như những tiền đề lý luận hình thành nên tư tưởng của triết học Trần Nhân Tông như tư tưởng chính trị xã hội thời Lý - Trần, hình thái kinh tế xã hội thời Lý - Trần, thể chế chính trị và kết cấu đẳng cấp thời Lý, Nho giáo và các yếu tố Phật, Nho, Đạo được tiếp thu và phát triển như thế nào ở Việt Nam dưới thời Trần Nhân Tông,… bên cạnh đó các công tình trên cũng đã nghiên cứu một cách rõ nét về cuộc đời, thân thế và sự nghiệp của Trần Nhân Tông gắn liền với các biến cố, 6 diễn biến lịch sử ở Việt Nam giai đoạn XIII - XIV giúp người đọc có cái nhìn khái quát về Trần Nhân Tông. Thứ ba, đó là các công trình nghiên cứu về Trần Nhân Tông dưới góc độ tư tưởng triết học, như các tác phẩm: Đại cương lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, tập 1, do Nguyễn Hùng Hậu chủ biên, Nxb. Đại học quốc gia, Hà Nội, xuất bản năm 2002; Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập 1, do Nguyễn Tài Thư chủ biên, Nxb. Khoa học xã hội, xuất bản năm 1993; Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên đến thế kỷ XIV của Nguyễn Hùng Hậu, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, xuất bản năm 2002; Tư tưởng Việt Nam thời Lý - Trần, do Doãn Chính - Trương Văn Chung chủ biên, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, xuất bản năm 2008; Trần Nhân Tông toàn tập của Lê Mạnh Thát, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 2000; Thiền sư Việt Nam của Thích Thanh Từ, Nxb. Thành phố Hòa Chí Minh, 1995…các công trình kể trên chủ yếu đi vào tập trung nghiên cứu vấn đề bản thể luận, nhận thức luận và triết lý nhân sinh của Trần Nhân Tông gắn liền với lịch sử tư tưởng Việt Nam. 3. Mục đích nghiên cứu Làm rõ tư tưởng của Trần Nhân Tông về con người. Trên cơ sở đó, luận văn chỉ ra những giá trị tham chiếu cho việc xây dựng hệ giá trị con người ở Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. 4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 4.1. Khách thể nghiên cứu Tư tưởng của Trần Nhân Tông. 4.2. Đối tượng nghiên cứu Tư tưởng về con người của Trần Nhân Tông và việc xây dựng con người ở Việt Nam hiện nay. 7 5. Giả thuyết khoa học Có tư tưởng về con người trong tư tưởng của Trần Nhân Tông, tư tưởng đó phản ánh được tư duy của người Việt truyền thống, tư duy của phái Thiền Tông Trúc Lâm và cá nhân Trân Nhân Tông về con người nói chung và con người Việt Nam nói riêng. Tư tưởng Trần Nhân Tông về con người có giá trị khoa học có thể tham chiếu để xây dựng hệ giá trị của con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. 6. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu mà luận văn đã đề ra, cần phải thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau: Thứ nhất, làm rõ những điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội và những tiền đề tư tưởng cho sự cho sự hình thành tư tưởng về con người của Trần Nhân Tông. Thứ hai, làm rõ những nội dung chủ yếu trong tư tưởng về con người của Trần Nhân Tông. Thứ ba, làm rõ những giá trị tham chiếu của tư tưởng của Trần Nhân Tông về con người đối với việc xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. 7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu Thời gian: cuộc đời Trần Nhân Tông. Các tác phẩm của Trần Nhân Tông và các công trình nghiên cứu về Trần Nhân Tông. 8. Phương pháp nghiên cứu Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Luận văn sử dụng các phương pháp lịch sử, logic, phân tích, tổng hợp, so sánh, quy nạp, diễn dịch, văn bản học, điền dã… 8 9. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được chia làm 2 chương, 6 tiết. 10. Những đóng góp mới của luận văn Luận văn góp phần hệ thống hóa, khái quát hóa tư tưởng của Trần Nhân Tông về con người. Cung cấp phương pháp luận để vận dụng tư tưởng của Trần Nhân Tông trong việc xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. 9 Chương 1 ĐIỀU KIỆN KINH TẾ, CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI VIỆT NAM THỜI KỲ NHÀ TRẦN VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC TRẦN NHÂN TÔNG 1.1. Khái quát đặc điểm điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội thời kỳ nhà Trần Để nghiên cứu tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông trước tiên chúng ta cần tìm hiểu điều kiện lịch sử xã hội và những tiền đề lý luận hình thành tư tưởng triết học của ông. Giống như C.Mác đã nói “Các triết gia không mọc lên như nấm từ trái đất, họ là sản phẩm của thời đại mình, của dân tộc mình, mà dòng sữa tinh tế nhất, quý giá và vô hình được tập trung lại trong tư tưởng triết học” [16, tr.156]. Từ cuối thế kỷ XII khi nhà Lý ngày càng suy yếu, triều đình lục đục, vua quan ngày đêm chỉ lo ăn chơi sa đọa không màng đến đời sống của người dân cực khổ, khó khăn, sản xuất đình trệ, mất mùa đói kém xảy ra liên miên, nhân dân khắp nơi cùng nhau nổi lên chống lại triều đình, xã hội ngày càng loạn lạc, các thế lực trong nước mất đoàn kết, đánh giết lẫn nhau…Không lâu sau đó, tháng 12 năm Ất Dậu (1226) công chúa Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, nhà Lý nhường ngai vàng cho nhà Trần, nhà Trần được thành lập từ đó. Về tổ chức hành chính và bộ máy quan lại, thời Trần tổ chức hành chính và bộ máy quan lại nhìn chung hoàn thiện hơn so với thời Lý. Sau khi giành được chính quyền, nhà Trần đã phân chia lại Đại Việt thành 12 lộ thay vì 24 lộ như ở thời Lý. Bộ máy hành chính được củng cố theo hướng tăng tính tập quyền quan liêu. Các quan được cấp lương bổng theo ngạch, bậc; cứ 10 năm thăng tước một cấp, 15 thăng tước một bậc. 10 Về quốc phòng an ninh, Nhà Trần một mặt, nhanh chóng ổn định tình hình chính trị, xã hội, xây dựng chính quyền mới; mặt khác, tổ chức lại quân đội, củng cố quốc phòng. Quân đội nhà Trần gồm có cấm quân và quân ở các lộ. Cấm quân là đạo quân bảo vệ kinh thành, triều đình, nhà vua. Ở các làng xã, có hương binh. Khi có chiến tranh, còn có quân đội của các vương hầu. Quân đội nhà Trần được tuyển dụng theo chính sách "ngụ binh ư nông" và theo chủ trương : "Quân lính cốt tinh nhuệ, không cốt đông”, xây dựng tinh thần đoàn kết trong quân đội. Quân đội nhà Trần được học tập binh pháp và luyện tập võ nghệ thường xuyên. Nhà Trần còn cử nhiều tướng giỏi cầm quân đóng giữ các vị trí hiểm yếu, nhất là vùng biên giới phía bắc. Vua Trần thường đi tuần tra việc phòng bị ở các nơi này. Về pháp luật, Năm 1230, Trần Thái Tông ban hành bộ Quốc triều hình luật.Cơ quan pháp luật nhà Trần được tăng cường hoàn thiện hơn.Trong triều có thẩm hình viện chuyên xét xử việc hình ngục. Cuối thế kỷ 13, nhà Trần lập ra Viện đăng văn kiểm pháp, lấy các đại thần phụ trách. Việc tuyển chọn các quan làm chức vụ này có tiêu chuẩn thanh liêm, thẳng thắn. Các tầng lớp đại quý tộc như Vua và hoàng gia được pháp luật bảo hộ đặc biệt, xã hội còn chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của Phật Giáo, chú trọng đến việc bảo vệ sản xuất nông nghiệp, ban hành các luật về đất đai, chuyển nhượng vật nuôi trong nông nghiệp như trâu bò, coi việc xây dựng, bảo về đê điều là việc làm của toàn nhà nước và nhân dân. Về ngoại giao, Dưới triều Trần các vua đã tiến hành ngoại giao kiên quyết và cứng rắn để bảo vệ độc lập chủ quyền dân tộc. Sau chiến thắng quân Mông Cổ lần 1 (1258), công việc ngoại giao được tiến hành qua những biện pháp làm sáng tỏ uy lực của mình: 11 + Cử sứ bộ là tướng vừa thắng Mông Cổ sang chầu. + Vua Trần từ chối không sang chầu. Từ chối không kê khai số dân, quân dịch, cống nạp. + Chống việc đòi ta theo nghi lễ Mông Cổ. - Trong hai lần kháng chiến chống quân Nguyên sau đó (1285 và 1288), nhà Trần đã thi hành chính sách ngoại giao vừa kiên quyết vừa mềm dẻo để kiềm chân quân xâm lược Nguyên Mông, nêu cao chính nghĩa của nhân dân ta. - Sau chiến thắng, triều Trần tiếp tục đấu tranh ngoại giao làm tan rã ý chí xâm lược của kẻ thù, vừa tố cáo tội ác xâm lược, chỉ trả nhà Nguyên những tù binh ít nguy hiểm đối với đất nước. - Triều Trần đã lợi dụng lúc địch gặp khó khăn, lúng túng, vận dụng sách lược ngoại giao uyển chuyển, linh hoạt “khi cương, khi nhu” vì vậy địch phải chấp nhận hòa hoãn, thậm chí cam kết không xâm phạm lãnh thổ và danh dự nước ta. - Biết dựa vào sức mạnh đoàn kết của dân tộc và chính nghĩa, tìm hiểu kỹ về âm mưu của kẻ địch, linh hoạt trong việc áp dụng các chính sách ngoại giao. Khi thì kìm chân địch bằng ngoại giao, lúc tiến công ngoại giao tiếp theo chiến thắng quân sự để làm lung lay tiến tới làm tan rã ý chí xâm lược của địch như sau lần thắng Nguyên - Mông lần thứ ba. Nền kinh tế đất nước thời nhà Trần, về mặt nông nghiệp: để tránh nạn ngập lụt, vua Trần Thái Tông sai đắp đê hai bên bờ sông và cử quan đặc trách trông coi việc đê gọi là hà đê sứ. Mỗi năm sau vụ mùa, triều đình còn ra lệnh cho quân sĩ đắp đê hay đào lạch, hào, giúp đỡ dân chúng. Triều đình cũng cho phép các vương, hầu có quyền chiêu tập những người nghèo khó, lưu lạc đi khai khẩn đất hoang để mở mang thêm ruộng nương. Về mặt thuế má: Có 2 loại thuế là thuế thân và thuế điền. Thuế thân được đóng bằng tiền và ít nhiều 12 tùy theo số ruộng có. Ai có dưới một mẫu ruộng thì được miễn thuế. Thuế điền thì đóng bằng thóc. Ngoài ra còn có thuế trầu cau, rau quả, tôm cá v.v. Về mặt tiền tệ, để tiện việc tiêu dùng - vàng, bạc được đúc thành phân, lượng và có hiệu của nhà vua. Nhìn chung, lịch sử phát triển của đất nước ở triều Trần có thể chia ba thời kỳ: thời thứ nhất từ Thái Tông đến Nhân Tông là thời xây dựng và chống Mông - Nguyên, thời thứ hai từ Anh Tông đến Hiến Tông (có thượng hoàng Minh Tông) là thời kế tục, thời thứ ba từ Dụ Tông (sau khi thượng hoàng Minh Tông mất) tới khi kết thúc là thời suy tàn. Các vua Trần thời hậu kỳ, kể cả Minh Tông, đều không biết chiêu mộ nhân tài; lực lượng quan lại đều kém tài. Nếu thế hệ trước thắng MôngNguyên khổng lồ một cách oai hùng bao nhiêu thì đời con cháu phải chạy trốn một Chiêm Thành nhỏ bé, từng núp bóng mình trong chiến tranh chống Mông-Nguyên xưa kia, một cách thảm hại bấy nhiêu. Tới lúc bị Chiêm Thành xâm lấn, không hề có một gương mặt nào của dòng họ Trần đứng ra chống được giặc mà phải dựa vào một tướng ngoài hoàng tộc (Trần Khát Chân vốn mang họ Lê). Nếu trong tông thất nhà Trần thời kỳ sau có những nhân tài như giai đoạn đầu thì dù Quý Ly có manh tâm cũng không thể tính chuyện cướp ngôi. Nhà Trần trượt dốc từ Trần Dụ Tông, sau sự kiện Dương Nhật Lễ và cái chết của Duệ Tông đã không gượng dậy được nữa. Đó chính là thời cơ cho Hồ Quý Ly làm việc chuyên quyền và chiếm lấy ngôi nhà Trần. Dù sao, nhà Trần vẫn là một trong những triều đại nổi bật nhất trong lịch sử Việt Nam. Trang sử về nhà Trần trong sử sách nằm trong số những trang sáng nhất và để lại nhiều bài học cho đời sau. Về văn hóa nghệ thuật, nhà Trần đã đào tạo được khá nhiều học giả nổi tiếng như Lê Văn Hưu soạn bộ Đại Việt Sử Ký và đây cũng là sách bộ sử đầu tiên của Việt Nam. Mạc Đĩnh Chi nổi tiếng là một ông trạng rất mực thanh 13 liêm, đức độ và có tài ứng đối đã làm cho vua quan nhà Nguyên phải kính phục. Chu Văn An là một bậc cao hiền nêu gương thanh khiết, một thầy giáo mẫu mực, tiêu biếu cho tính cương trực. Các vua Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Anh Tông, Minh Tông đều là những người giỏi văn chương và có soạn “Ngự tập” và danh tướng Trần Quốc Tuấn có làm những tác phẩm giá trị như Hịch tướng sĩ. Hàn Thuyên tức Nguyễn Thuyên có công làm thơ bằng chữ Nôm và đặt ra luật thơ Nôm. Vì thế đã có nhiều học giả, văn nhân đã theo gương của Hàn Thuyên mà làm những bài thơ Nôm rất giá trị. ĐVSKTT chép: “Bấy giờ (năm 1282) có cá sấu đến sông Lô. Vua sai hình bộ thượng thư Nguyễn Thuyên làm bài văn ném xuống sông, cá sấu bỏ đi. Vua cho việc này giống như việc của Hàn Dũ, bèn ban gọi là Hàn Thuyên. Thuyên lại giỏi làm thơ phú quốc ngữ. Thơ phú nước ta dùng nhiều quốc ngữ, thực bắt đầu từ đấy” [14, tr.301]. Nghệ thuật điêu khắc thời Trần được đánh giá là có bước tiến bộ, tinh xảo hơn so với thời Lý, trong đó có một số phù điêu khắc hình nhạc công biểu diễn mang phong cách Chiêm Thành. Cách trang trí hoa dựa trên nghệ thuật dân dụng. Âm nhạc Đại Việt thời Trần chịu ảnh hưởng của Ấn Độ, Chiêm Thành và Trung Quốc . Một số nhạc công bị bắt từ Chiêm Thành và Trung Quốc trong các cuộc chiến đã truyền nghề ca hát cho dân Đại Việt, càng ngày càng phổ biến. Về giáo dục, Đời nhà Trần, văn học rất được mở mang, Nho học cũng phát triển hơn so với thời Lý. Ngoài Quốc Tử Giám có tại kinh đô từ đời nhà Lý, nhà Trần cho lập thêm Quốc Học Viện để giảng Tứ Thư và Ngũ Kinh. Tại các lộ cũng cho mở trường học để dạy cho dân chúng. Trước kia dưới triều nhà Lý, có mở những khoa thi tam trường để lấy cử nhân, nhưng các khoa thi chỉ được mở ra khi nào triều đình cần người tài giỏi ra 14 giúp nước chứ chưa có mở định kỳ. Năm 1232, vua Trần Thái Tông cho mở khoa thi thái học sinh để lấy tiến sĩ theo định kỳ cứ 7 năm thì có một kỳ thi. Năm 1247, nhà vua lại cho đặt ra khảo thi tam khôi để lấy trạng nguyên, bảng nhãn và thám hoa. Lê Văn Hưu là người đầu tiên đậu bảng nhãn. Trong 175 năm tồn tại, nhà Trần đã tổ chức 14 khoa thi (10 khoa chính thức và 4 khoa phụ), lấy 283 người đỗ . Có 2 khoa thi 1256 và 1266 lấy 2 trạng nguyên là Kinh trạng nguyên và Trại trạng nguyên nên tổng số có 12 người đỗ đầu trong các kỳ thi. Về tôn giáo, vào đầu đời nhà Trần Phật giáo còn thịnh. Các nhà vua đều sùng đạo cho xây chùa, đúc chuông, tạc tượng để phụng thờ khắp nơi. Vua Nhân Tông còn sai sứ sang Trung Hoa để thỉnh kinh về truyền bá đạo Phật, và ông chính là ông tổ đầu tiên của thiền phái Trúc Lâm. Nhưng cuối đời Trần, Phật giáo bị pha thêm các hình thức mê tín bùa chú cho nên ngày càng suy vi. Về Lão giáo thì cũng được nhân dân ngưỡng mộ. Do đó, nhà Trần cũng cho mở những khảo thi tam giáo như đời nhà Lý. 1.2. Những tiền đề hình thành nên tư tưởng của Trần Nhân Tông 1.2.1. Giá trị văn hóa Việt Nam truyền thống và tư tưởng của “Tam giáo” với việc hình thành tư tưởng triết học Trần Nhân Tông Những tiền đề hình thành nên tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông không thể thoát ly khỏi những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mà ngược lại, nó phải được xây dựng trên nền tảng những giá trị văn hóa truyền thống, đặc biệt là những giá trị văn hóa tinh thần mà cha ông ta đã dày công vun đắp và gìn giữ suốt hàng nghìn năm qua. Giá trị văn hóa tinh thần truyền thống là những giá trị tốt đẹp tiêu biểu cho một nền văn hóa, tạo nên bản sắc văn hóa của một dân tộc, phân biệt và làm nổi bật sự có mặt của dân tộc ấy trên trường quốc tế, được chắt lọc,
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất