MỤC LỤC
Lời mở đầu
Chương 1: Khái quát tư tưởng học thuyết về nhà nước pháp quyền qua các
thời kỳ lịch sử
1.1. Tư tưởng nhà nước pháp quyền thời cổ đại
1.2. Tư tưởng nhà nước pháp quyền trong thời kỳ tư sản
1.3. Tư tưởng nhà nước pháp quyền trong thời ký chủ nghĩa xã hội
Chương 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền của dân do dân vì
dân
2.1. Nhà nước của dân do giai cấp nhân dân lãnh đạo
2.1.1. Nhà nước của dân
2.1.2. Nhà nước do dân
2.1.3. Nhà nước vì dân
2.1.4. Bản nhất nhà nước của dân do dân vì dân
2.2. Tư tưởng về pháp quyền và nhà nước pháp quyền
2.2.1. Vai trò của pháp quyền trong nhà nước
2.2.2. Nhà nước VN dân chủ cộng hoà là một nhà nước hợp pháp hợp hiến
2.2.3. Nhà nươc điều hành xã hội bằng pháp luật
Chương 3: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền trong
sạch vững mạnh hoạt động có hiệu qủa
3.1. Đề phòng khắc phục những tiêu cực trong hoạt động nhà nước
3.1.1. Đặc quyền đặc lợi
3.1.2. Tham ô lãng phí quan liêu
3.1.3. Tư túng chia rẽ kiêu ngạo
3.2. Tăng cường pháp luật đi đôi với việc đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách
mạng
3.3. Tích cực xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức đủ tài
3.3.1. Tuyệt đối trung thành với cách mạng
1
3.3.2. Hăng hái thành thạo trong công việc giỏi chuyên môn
3.3.3. Có mối liên hệ mật thiết với nhân dân
3.3.4. Là đày tớ của công dân
Kết luận
Tài liệu tham khảo
2
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử của các dân tộc thường có những vĩ nhân mà cuộc đời và sự
nghiệp, tư tưởng và hành động gắn liền với cả một giai đoạn lịch sử đầy sôi động
đầy biến cố của dân tộc và thời đại mình: phản ánh ý chí, nguyện vọng của các dân
tộc bằng hoạt động của mình đã góp phần vào sự phát triển của thời đại. Mác,
Ănghen, V.I.Lênin…. và đăc biệt là Hồ CHí Minh là những con người tiêu biểu như
vậy.
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã có lịch sử hình thành và phát triển hơn nửa thế kỷ.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam, là sự kết tinh
trí tuệ của dân tộc và thời đại, là sự vận dụng sáng tạo và bước phát triển của chủ
nghĩa Mác- Lênin vao điều kiện thực tiền của Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh là
linh hồn, là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Trong thời kỳ đổi mới như hiện nay, tư tưởng Hồ CHí Minh là tư tưởng
xuyên suốt và đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự nghiệp xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Mục đích chọn đề tài
Trong thời kỳ nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng nhà nước pháp
quyền của dân, do dân, và vì dân vì mục tiêu dân giầu nước mạnh xã hội công bằng
văn minh thì tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng của Hồ Chí Minh về nhà
nước pháp quyền nói riêng đã có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng trong việc xây
dựng nhà nước thật sự dân chủ, một nhà nước thật sự của dân vì quyền và lợi ích
của nhân dân. Vì vậy, tôi chọn đề tài này để có thể nghiên cứu một cách cụ thể và
chi tiết hơn về tư tưởng của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp
quyền ở Việt Nam.
3.Phương pháp nghiên cứu
3
Với phương pháp luận là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
giúp cho tư duy và góc độ nghiên cứu luôn đi đúng hướng và có hiệu quả. Kết hợi
với phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh, và phương pháp liên
ngành là ba phương pháp nghiên cứu chính và cụ thể mà tôi có thể sử dụng khi
nghiên cứu đề tài này.
4. Đóng góp của đề tài
Với những gì mà tôi cảm nhận và tìm hiểu khi nghiên cứu về tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước pháp quyền, soi vào thực tế ở Việt Nam hiện nay, tôi hi vọng
rằng vấn đề nghiên cứu này có tính khả thi cao và giúp cho bộ máy nhà nước ta
ngày càng hoàn thiện trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền của dân do
dân và vì dân ở Việt Nam.
5.Cơ cấu của niên luận
Lời mở đầu
Chương 1: Khái quát về lịch sử tư tưởng học thuyết về nhà nước pháp quyền
qua các thời kỳ lịch sử
Chương 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền của dân do dân
vì dân
Chương 3: tư tưởng của Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền
trong thời đại mới
Kết luận
4
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG HỌC THUYẾT
VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ
Nhà nước pháp quyền là một trong những giá trị xã hội quý báu được tích
luỹ và phát triển trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Tư tưởng nhà nước pháp quyền
đã có từ rất sớm, trong tư tưởng chính trị pháp lý thời cổ đại đã chứa đựng nhiều
nhân tố của nhà nước pháp quyền. Dến thời kỳ sau cách mạng dân chủ tư sản,
những tư tưởng quý báu đó đã được kế thừa, phát triển và trở thành học thuyết về
nhà nước pháp quyền. Các học thuyết đó đã được áp dụng ở các mức độ, phạm vi
khác nhau ở nhiều nước tư sản. Ngày nay học thuyết đó đến lượt mình lại tiếp tục
được bổ sung, phát triển cho phù hợp với những thay đổi sâu sắc của xã hội hiện
đại, đặc biệt nó trở thành nền tảng để phát triển thêm tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước pháp quyền.
1.1 Tư tưởng nhà nước pháp quyền thời cổ đại
Có thể nói rằng, mặc dù với cách thức và thể hiện khác nhau nhưng trong tư
tưởng chính trị và pháp lý của nhà nước phương Đông và nhà nước phương Tây đà
chứa đựng những nhân tố mang đặc điểm đầu tiên của nhà nước pháp quyền.
Trong những học thuyết của nhà nước phương đông thời cổ đại mà tiêu biểu
là học thuyết chính trị pháp lý của nhà nước Trung Hoa thời cổ, trung cổ như đức
trị và pháp trị tuy còn có rất nhiều điểm hạn chế, song cũng chứa đựng những nhân
tố về nhà nước pháp quyền được thể hiện trong các nhà tư tưởng vĩ đại như: Khổng
Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử, Hàn Phi Tử… Đặc biệt những quan điểm của Khổng Tử về
pháp luật rất đặc sắc bởi chúng liên quan đến nhiều phương diện của pháp luật: lập
pháp, tư pháp, tài chính, tố tụng….Tư tương pháp luật của ông là tư tưởng pháp
luật nhân học, là tư tưởng pháp luật luân lý. Tư tưởng quản lý xã hội bằng đạo đức
5
của Khổng Tử tuy còn có những mặt hạn chế song cũng có nhiều mặt tích cựcbởi
pháp luật của nhà nước pháp quyền là pháp luật được xây dựng, áp dụng và đánh
giá trên cơ sở đạo đức xã hội, pháp luật phải phù hợp với đạo đức và thiếu đạo đức
thì không có được một xã hội bền vững. Bên cạnh tư tưởng của Khổng Tử, tư
tưởng chính trị của trường phái Pháp gia mà đại điện là Hàn Phi Tử đã coi pháp
luật là cơ sở duy nhất đẻ quản lý xã hội. Ông đã khẳng định: “ Không có pháp luật
luôn luôn đúng”. Theo ông pháp luật phải được viết thành văn và công bố rộng rãi
cho mọi người. Pháp luật phải nghiêm minh và có chế độ thưởng phạt đúng đắn.
Bên cạnh tư tưởng về nhà nước pháp quyền của các học gia phương Đông, tư
tưởng pháp quyền ở phương Tây cổ đại chủ yếu gắn liền với sự pháp triển của nền
dân chủ Hy Lạp và La Mã, nhưng có phần sâu sắc hơn vì được dựa trên cơ sở tư
duy triết học, thể hiện sự tìm kiếm khách quan.
Nội dung chính trị pháp lý ở phương Tây cổ đại đã đề cập đến vai trò thống
trị của pháp luật trong xã hội, đến tính tối cao, tính hợp lý của đạo luật. Tuân thủ
pháp luật là nghĩa vụ của mỗi cá nhân kể cả nhà nước. Pháp luật phải phù hợp với
pháp luật tự nhiên. Bên cạnh đó tư tưởng của các học gia phương Tây còn đề cập
đến sự tổ chức hợp lý của bộ máy nhà nước để tránh sự lạm quyền .
Tiêu biểu cho tư tưởng chính trị pháp lý phương tây thời báy giờ là các nhà
tư tưởng lỗi lạc ở Hy Lạp và La Mã cổ đại như: XôLông_ nhà tu tưởng Hy Lạp ở
thế kỷ VI trước Công Nguyên, Hêraclit ở những năm 520-460 trước CN, Xôcrat
năm 469 – 399 trước CN, Nhà triết học Hy Lạp cổ đại Platôn năm 427 -374 trước
CN. Và người được Các Mác đánh giá là nhà tư tưởng vĩ đại nhất thời cổ đại :
Arixtot năm 384 -322 trươc CN đã khảng định vị trí tối thượng của pháp luật và đề
ccạp đến sự tổ chức hợp lý của quyền lực nhà nước theo đó nhà nước nào cũng phải
có ba bộ phận: cơ quan làm luật ( lập pháp), cơ quan thực hành pháp luật ( hành
pháp), cơ quan xét xử ( tư pháp)
6
Tư tưởng về hà nước pháp quyền trong thời kỳ cổ đại tuy mới là những học
thuyết ban đầu, sơ khai nhưng nó lại mang những giá trị lịch sử rất to lớn đối với tư
tưởng của các nhà triết học trong các thời kỳ sau này.
1.2.Tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong thời kỳ tư sản chủ nghĩa
Tư tưởng về nhà nước pháp quyền cổ đại đã được các nhà tư tưởng tư sản
tiếp thu và pháp triển trong những điều kiện mới, thể hiện thể giới quan pháp lý
mới. Nội dung chủ yếu trong học thuyết tư sản về nhà nước pháp quyền là chống
chế độ chuyên quyền phong kiến, tình trạng vô pháp luật, pháp luật dã man, đấu
tranh vì một chế độ nhà nước hoạt động trên cơ sở và phục tùng pháp luật, một nền
pháp luật đảm bảo tự do bình đẳng và nhân đạo. Các nhà tư tưởng tư sản đã đề
xướng cho các quan điểm pháp quyền như: pháp luật giữ vai trò thống trị trong việc
điều chỉnh các quan hệ xã hội, bảo vệ quyền con người: sự bình đẳng trong quan hệ
nhà nước và các nhân, chủ quyền nhân dân, nguyên tắc phân chia quyền lực….
Một số nhà tư tưởng tiến bộ thời kỳ này như: Jôccơ ( 1632-1704)_ nhà tư
tưởng người Anh dẫ nêu ra nguyên tắc làm những gì mà pháp luật cho phép chỉ áp
dụng đối với những người cầm quyền, còn đối với công dân: làm những gì mà pháp
luật không cấm. Hay theo như nhà tư tưởng vĩ đại người Pháp SácLơ Lui
Môngteskiơ (1698-1755) thì mỗi nàh nước đều có ba loại quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp. Sự phân chia và kìm chế, đối trọng lẫn nhau giữa ba quyền là điều
kiện chủ yếu để đảm bảo tự do chính trị trong nhà nước và xã hội. Ngoài ra còn có
nhữngnhà tư tưởng khác như: J.Rutxô- nhà tư tưởng vĩ đại người Pháp,nhà triết học
người Đức I.Kantơ (1724-1804), Hêghen nhà triết học người Đức đã có những
đóng góp to lớn trong trong học thuyết vè nhà nước thời kỳ này.
1.3 Tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong thời kỳ chủ nghĩa xã hội
7
Những nhân tố nhà nước pháp quyền đã được thể hiện trong học thuyết Mác
Lênin về nhà nước và pháp luật như lý luận về phpá chế, về dân chủ, về tự do và
công bằng mà pháp luật là đại lượng là công cụ ghi nhận và đảm bảo.
Bên cạnh học thuyết của Mac Lênin , trong tư tưởng Cách mạng vĩ đại của
Hồ Chủ Tịch có một bộ phận cấu thành cơ bản đó là tư tưởng về nhà nước pháp
quyền.Tu tưởng của Người đã chứa đụng nhiều nhân tố về nhà nước pháp quyền
dặc biệt là tư tưởng pháp quyền nhân nghĩa, mối quan hệ giữa pháp luật với đạo
đức: tư do, dân chủ, quyền con người…Tư tưởng của người đã được hiện thực hoá
trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945, bản hiến pháp đầu tiên năm 1946 và trong
suốt quá trình xây dựng và phát triển nhà nước Việt Nam
Các học thuyết về nhà nước pháp quyền qua các tời kỳ nói trên và đặc biệt
trong thời kỳ xã hội chủ nghĩa là một di sản vô cùng quý giá cho việc xây dựng một
nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân như hiện nay.
CHƯƠNG 2: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN CỦA DÂN DO DÂN VÌ DÂN
Sinh thời, Hồ Chí Minh rất coi trọng việc thực hiện và phát huy dân chủ vì “
dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân” Người đã chỉ rõ “ Nước ta là nước dân
chủ, chế độ ta là chế độ dân chủ.Trong một nhà nước dân chủ, một chế độ dân chủ,
người dân được đặt ở vị trí cao nhất, dân là chủ”
Chúng ta có thể tự hào về dân tộc ta đã sản sinh ra con người vĩ đại, đã kế
thừa và phát huy những tư tưởng của các bậc tiền bối như “ Nước lấy dân làm gốc”
hay “Người đẩy thuyền cũng là dân, người lật thuyền cũng là dân” trong truyền
thống dân tộc; đã xuất pháp từ thực tiễn cách mạng Việt Nam; từ sự tiếp thu tinh
hoa văn hoá nhân loại và những thành quả về nhà nước pháp quyền của nhiều quốc
8
gia tiên tiến; vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm và lý luận đó vào viẹc xây
dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân ở Việt Nam.
Suốt 24 năm đứng đầu nhà nước, Người đã trực tiếp lãnh đạo sự nghiệp xây
dựn và bảo vệ Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nhà nước dân chủ nhân dân
dầu tiên ở Đông Nam Á. Trên cơ sở thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam và trực
tiếp lãnh đạo chính quyền, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước đã được bổ sung,
phát triển và là một bộ phận quan trọng của hệ tư tưởng Hồ Chí Minh, đã được sự
chỉ đạo sự nghiệp xây dựng và hoạt động của nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
hoàvà nhà nước Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
2.1. Nhà nước của dân do dân vì dân do giai cấp công nhân lãnh đạo
Trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin và kinh nghiệm cách
mạng thế giới vào điều kiện thực tiễn của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh
khẳng định: Chính quyền Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà là nhà nước dân
chủ, nhà nước của dân do dân và vì dân, là cơ sở xã hội của nhà nước là toàn dân
tộc, nền tảng là liên minh công nông, lao động trí óc dưới sự lãnh đạo của giai cấp
công nhân
Trong quá trình đi tìm đường cứu nước , Hồ Chí Minh chú ý khảo cứu lựa
chọn ra một kiểu nhà nước mới cho Việt Nam để xây dựng sau khi cách mạng giải
phóng dân tộc theo con đường cácn mạng vô sản thành công. Nhà nước đó phải
ddawtj quyền lợi cho số đông người và Hồ Chí Minh đã chủ trương xây dựng một
nhà nước công nông binh thể hiện trong “chánh cương vắn tắt” (3/2/1930).Chánh
cương đã xác định nhiệm vụ chính trị của Cách mạng Việt Nam là: đánh đổ đế quốc
chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập. Dựng ra
chính phủ công nông binh. Tổ chức ra quân đội công nông.
Trải qua thực tế cao trào cách mạng ở Việt Nam, về sau, Hồ Chí Minh chủ
trươmg xây dựng ở Việt Nam một nhà nước dân chủ cộng hoà , một nhà nước do
nhân dân lao động làm chủ, nhà nước của dân do dân và vì dân. Trong bài báo Dân
9
vận( năm 1949), Hồ Chí Minh khẳng định “ Nước ta là nước dân chủ. Boa nhiêu
lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng
là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc đều là công việc của dân.
Chính quyền từ xã đến trung ương đều do dân bầu ra. Đoàn thể từ trung ương đến
xã do dân tổ chức nên” . Nói tóm lại quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.
Về thể chế của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, hiến pháp 1946 đã ghi
rõ: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền hành trong nước
là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống gái trai, giàu nghèo,
giai cấp, tôn giáo”và “Đất nước Việt Nam là một khối thống nhất Trung Nam Bắc
không thể phân chia”
Sự khác biệt giữa nhà nước dân chủ kiểu cũ và nàh nước dân chủ kiểu mới là
ở điểm cơ bản: Nhà nước dân chủ kiểu cũ là dân chủ tư sản, mang bản chất của giai
cấp tư sản.Còn nhà nước dân chủ kiểu mới là dân chủ của nhân dân, mang bản chất
của giai cấp công nhân, là kết quả của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc dưới sự
lãnh đạo của Đảng, của giai cấp công nhân. Đó là một nhà nước của dân, do dân, vì
dân, dân chủ với nhân dân và chuyên chính với kẻ thù của nhân dân.
Quan điểm về nhà nước pháp quyền, chúng ta thấy trong di sản tư tưởng Hồ
Chí Minh thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:
2.1.1 Nhà nước của dân
Quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh là xác lập tất cả mọi quyền lực trong
tay nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Trong 24 năm làm chủ tịch
nước, Hồ Chí Minh đã lãnh đạo soạn thảo hai bản Hiến pháp, đó là Hiến pháp năm
1946 và Hiến pháp năm 1959. Quan điểm trên của của Người được thể hiện rõ nét
trong các bản Hiến Pháp đó. Như trong bản Hiến Pháp năm 1946 Người nêu rõ:
“Tất cả quyền bính trong nước là của nhân dân Việt Nam. Việc nước là việc chung,
mỗi một con người con rồng cháu tiên, bất kỳ già trẻ gái trai, giàu nghèo, nòi
giống, tôn giáo đều phải gánh vác một phần”. Và ngay bản thân Người cũng đã
10
hoạt động không mệt mỏi nhằm thức tỉnh toàn dân tộc phát huy cao nhất sức mạnh
của trí tuệ, tài năng và nghị lực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ quyền và sự
thống nhất của dân tộc Việt Nam.
Sau ngày thành lập nước, Người yêu cầu tổ chức “ Càng sớm càng hay cuộc
tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu”. Người nhấn mạnh: “ Tổng tuyển
cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự lựa chọn những người có đức có tài để
gánh vác công việc nước nhà. Trong cuộc tổng tuyển cử hễ là những người muốn
lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử, hễ là công dân thì có quyền đi bầu cử.”.
Lần đầu tiên công dân Việt Nam có quyền bầu cử và ứng cử. Đây là điều hết sức
mới mẻ đối với tầng lớp lao động Việt Nam. Mặt khác những người ở trong bộ máy
nàh nước, bộ máy quyền lực dù ở cấp nào cũng đều là “đầy tớ của dân”. Dân có
quyền bầu cử thì cũng có quyền giám sát, bãi miễn những người trong bộ máy nhà
nước do mình bầu rầm không làm tròn trách nhiệm đại biểu quyền lực cho dân.
Đối với Hồ Chí Minh, xây dụng một nhà nước của dân không chỉ trong ý
tưởng, thiết kế mà phải bằng hành động thực tiễn và điều quan trọng nhất là mọi
việc từ nhỏ đến lớn, Người đều tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân.Hồ Chí
Minh đã nêu lên quan điểm dân là chủ và dân làm chủ. Dân là chủ có nghĩa là xác
định vị thế của nhân dân còn dân làm chủ nghĩa là xác địn quyền, nghĩa vụ của dân.
Trong nhà nước của dân người dân được hưởng mọi quyền dân chủ. Bằng thiết chế
dân chủ, nàh nước phải có trách nhiệm bảo đảm quyền làm chủ của dân, để cho dân
thực thi quyền làm chủ của mình trong hệ thống quyền lực của xã hội. Quyền lực
của dân đặt ở vị trí tối thượng. Điều này có ý nghĩa thực tế nhắc nhở những người
lãnh đạo, những đại biểu của nhân dân làm đúng chức trách và vị thế của mình.
Một nhà nước như thế là một nhà nước tiến bộ trong bước đường phát triển của
nhân loại.
11
Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Hồ Chí Minh khai sinh ngày
2/9/1945 chính là nhà nước tiến bộ chưa từng có trong lịch sử hành nghìn năm của
dân tộc Việt Nam bởi vì nhà nước đó là nhà nước của nhân dân.
2.1.2 Nhà nước do dân
Nhận thức rõ vai trò to lớn của nhân dân trong sự nghiệp giải phóng, xây
dựng và bảo vệ Tổ Quốc, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng nhà nước do dân.
Điêu đó có nghĩa là nhân dân không chỉ là người lập ra nhà nước mà phải tham gia
vào những công việc quản lý nhà nước. Người đã từng nói: “ Nước ta là nước dân
chủ, địa vị cao nhất là dân vì dân làm chủ…”,và “ Chính quyền từ xã đến chính
phủ Trung ương do dân tổ chức. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều là ở nơi
dân”.
Nhà nước do dân tức là nhân dân phải tham gia vào công việc của nhà nước.
Quốc hội ta tuy có vị trí cao nhất song không phải là cơ quan tập trung mọi quyền
lực. Khi xuất hiện những công việc liên quan đến vận mệnh của quốc gia thì sẽ
đước đưa ra cho nhân dân giải quyết nếu ba phần tư tổng số đại biểu của quốc hội
đồng ý (Điều 22 Hiến pháp năm 1946)
Nhà nước do dân cũng có nghĩa là mọi công việc xây dựng đất nước là trách
nhiệm cảu quần chúng nhân dân. Do đó phải phát huy vai trò của các mặt trận, các
đoàn thể trong công tác quản lý nhà nước và xã hội. Hồ Chí Minh cũng rất quan
tâm đến vấn đề nhân dân thảo luận, phát huy sáng kiến và tìm cách giải quyết
những công việc của đất nước. Người nói “ Dân như nước, mình như cá” . “ Lực
lượng nhiều là ở dân hết” “ Công việc đổi mới xây dựng đất nước lởctách nhiệm
của dân”. Do đó, Nhà nước muốn điều hành, quản lý xã hội có hiệu lực, nhất định
phải dựa vào dân, dựa vào sáng kiến và trí tuệ của dân. “Đem tài dân, sức dân của
dân làm lợi cho dân…Chính phủ chỉ giúp kế hoạch cổ động”.
Nhà nước do dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh là do dân tự làm, tự lo việc
thông qua các mối quan hệ trong xã hội, qua các Đoàn thể chứ không phải nhà
12
nước bao cấp lo thay dân làm cho dân thụ động ỷ lại, chờ đợi. Người cho rằng “
Làm việc gì cũng phải có quần chúng tham gia bàn bạc, khó đến mấy cũng trở nên
dễ dàng và làm được tốt…
Khó mười lần không dân cũng chịu
Khó trăm lần dân liệu cũng xong”
Chính vì vậy,Nhà nước xây dựng và làm chủ, đặt dưới sự kiểm tra và kiểm
soát của nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh còn là nhà nước tin dân. Dân tin ở
lãnh đạo thì việc gì cũng có thể làm được.
2.1.3 Nhà nước vì dân
Nhà nước vì dân là một nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân dân làm
mục tiêu, tất cả đều vì lợi ích của nhân dân, ngoài ra không có bất cứ lợi ích nào
khác. Đó là một nhà nước trong sạch, không có bất kỳ một đặc quyền đặc lợi nào.
Trên tinh thần đó Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “ Mọi đường lối, chính sách chỉ nhằm
đưa lại quyền lợi cho dân, dù nhỏ cũng cố gắng làm, việc gì có hại cho dân dù nhỏ
cũng cố gắng tránh. Dân là gốc của nước”. Hồ Chí Minh luôn tâm niệm : “ Phải
làm cho dân có ăn, phải làm cho dân có mặc, phải làm cho dân có chỗ ở, phải làm
cho dân được học hành”.Hồ Chí Minh viết: “ Khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non,
hoặc ra vào chốn tù tội xông pha sự hiểm nghèo -_là vì mục đích đó. Đến lúc nhờ
quốc dân đoàn kết, tranh được uỷ quyền, uỷ thác cho tôi gánh việc chính phủ, tôi lo
lắng đêm ngày nhẫn nhục cố gắng cũng vì mục đích đó”.
Một nhà nước vì dân theo quan điểm của Hồ Chí Minh, là từ chủ tịch nước
đến công chức bình thường đều phải làm công bộc, làm đày tớ cho nhân dân chứ
không phải “ làm quan cách mạng” để “đè đầu cưỡi cổ nhân dân” như dưới thời đế
quốc thực dân. Ngay như chức vụ Chủ tịch nước của mình, Hồ Chí Minh cũng
quan niệm là do nhân dân uỷ thác cho và nư vậy phải phục vụ nhân dân tức là làm
đày tớ cho nhân dân. Hồ Chí Minh nói: “ Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công
13
danh phú quý một chút nào. Bây giờ phải gánh vác chức Chủ tịch Nước là vì đồng
bào uỷ thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh
của quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng
lui…Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biếc để
câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với những cụ già hái củi, trẻ em chăn trâu,
không dính líu gì đến vòng danh lợi”.
Bản thân cuộc đời Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng về một con người
suốt đời phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Người mọi quy định của pháp luật
đều phải vì dân, cán bộ từ Trung ương đến địa phương phải hết lòng, hết sức phục
vụ nhân dân, phải thực sự gương mẫu, phải thật sự trong sạch, phải lo trước thiên
hạ và hưởng sau thiên hạ, thực hành tiết kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Đây là
điều tuyệt vời trong đạo đức của Hồ Chí Minh về nhà nước vì dân.
2.1.4 Bản chất của nhà nước của dân do dân vì dân
Về mối quan hệ giữa nhân dân và chính phủ. Người đã khẳng định: “ Chế
độ ta là chế độ dân chủ. Nhân dân là chủ. Chính phủ là đày tớ của nhân dân. Nhân
daan co quyền đôn đóc và phê bình chính phủ. Chính phủ thì dù việc to, việc nhỏ
cũng nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân. Vì vậy nhân dân có nhiệm vụ
giúp đỡ chính phủ, theo đúng kỷ luật của chính phủ và làm đúng chính sách của
chính phủ, để chính phủ làm tròn phận sự mà nhân dân giao phó”
Nhà nước pháp quyền của dân do dân vì dân là những nội dung thuộc về bản
chất và là những phẩm chất gắn bó chặt chẽ của nhà nước kiểu mới của nhân dân
Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, của giai cấp công nhân.
Tư tưởng nhà nước “ thân dân” nhà nước của dân dẫ sớm xuất hiện ở những
nhà chính trị kiệt xuất trong lịch sử Việt Nam. Nhưng đến Hồ Chí Minh, tư tưởng
về nhà nước pháp quyền mới được thể hiện và phát triển một cách sâu sắc, phong
phú về nội dung, trở thành một quan điểm cách mạng, khoa học về bản chất của
nhà nước Việt Nam trong thời đại mới. Tư tưởng đó đã chỉ đạo sự nghiệp xây dựng
14
Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà mấy chục năm qua và đang là phương
hướng của Đảng ta trong xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh thì “Dân” là một khái niệm lịch sử, tuỳ theo tình
hình kinh tế - chính trị- xã hội và giai cấp thống trị ở mỗi nước trong từng giai đoạn
lịch sử mà khái niệm dân có nội dung rộng hẹp khác nhau
“Dân” trong “ Nhà nước của dân do dân vì dân” mà Người sử dụng là “toàn
dân, toàn dân tộc Việt Nam, bao gồm mọi người thuộc các dân tộc sống trên giải
đát Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giầu nghèo, tôn giáo “Chỉ trừ
những kẻ phản bội, làm tay sai cho đế quốc và đi ngược lại với quyền lợi nguyện
vọng của nhân dân, dân tộc, đi ngược lại với con đường độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Tuy nhiên, Người không xem “ Dân” là một khối đồng nhất mà là
một cộng đồng bao gồm nhiều dân tộc, giai cấp, tầng lớp. Mỗi giai cấp tầng lớp bên
cạnh những lợi ích chung, vẫn có những lợi ích riêng, có vai trò và thái độ khác
nhau đối với sự phát triển xã hội, với cách mạng. Ở một nước thuộc địa nử phong
kiến như nước ta lúc bấy giờ, nói đến dân là nói đến tuyệt đại đa số nhân dân là
công nhân, nông dân, là nhân dân lao động. Công dân, nông dân, lao động trí óc là
lực lượng trực tiếp sản xuất, chụi áp bức bóc lột nặmg nề nhất và cũng có tinh thần
và tiềm lực cách mạng to lớn nhất nên phải là nền tảng của khối đoàn kết toàn dân.
2.2 Tư tưởng về pháp quyền và nhà nước pháp quyền
2.2.1 Vai trò của pháp quyền trong nhà nước
Trước khi ra đi tìm đương cứu nước, Hồ Chí Minh đã phải sống trong cảnh
nước mất, nhà tan, từng chứng kiến cảnh nhân dân ta bị áp bức, bóc lột nặng nề
dưới chế độ hà khắc, bất chấp luật pháp của bọn thực dân pháp và bon phong kiến
nam triều. Khi bôn ba nơi hải ngoại, nghiên cứu và học hỏi kinh ngiệm của các
nước phương Tây, ý tưởng về xây dựng nhà nước pháp quyền đã xuất hiện ở Hồ
Chí Minh. Trong hoàn cảnh như vậy, Người đã nhận thức được vai trò của pháp
luật trong điều hành quản lý xã hội.
15
Ngay từ năm 1919, ở hội nghị Vecxây họp sau chiến tranh thế giới lần thứ
nhất, Người đã gửi “ Yêu sách của nhân dân An Nam” tới Hội nghị gồm 8 điều
trong đó có 4 điều liên quan đến pháp quyền”
Điều 1: Yêu cầu ân xá tất cả chính trị phạm
Điều 2: Đòi cải cách nền công lý ở Đông Dương, cho người bản xứ được
hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người châu Âu, xoá bỏ hoàn toàn và
triệt để các toà án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung
thực nhất của nhân dân An Nam
ĐIều 7: Thay thế chế độ ra sắc lệnh bằng các chế độ ra các đạo luật
Điều 8: Có đoàn đại biểu thường trực của người bản xứ, do người bản xứ bầu
tai nghị viện Pháp để giúp nghị viện biết được những nguyện vọng của người bản
xứ
Để dễ phổ biến và tuyên truyền rộng rãi trong người Việt Nam, Người đã
chuỷen bản yêu sách thành “ Việt Nam yêu cầu ca”. Trong đó có câu:
“ Bảy xin hiến pháp ban hành
Trăm điều phỉa có thần linh pháp quyền”
Những điều nêu trong yêu sách đã chứng tỏ rằng Người đã rất chú ý đến
pháp luật dến công lý, dến quyền con người. Và tư tưởng “ Trăm điều phải có thần
linh pháp quỳên” là một tư tưởng rất đặc sắc của Hồ Chí Minh, chứng tỏ Người đã
thấy tầm quan trọng của một nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật.
Sau này trong suốt hoạt động của mình, trên cương vị người đứng đầu nhà
nước, những suy nghĩ, chủ trương , chính sách do Người đề ra đã cho chúng ta thấy
Người có một tầm hiểu biết sâu sắc về nhà nước và pháp luật, đặc biệt quan tâm
đến xây dựng nhà nước hợp pháp, hợp hiến và đặt nền móng cho một nhà nước
pháp quyền Việt Nam
16
2.2.2 Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà phải là một nhà nước
hợp pháp, hợp hiến
Dựa trên cơ sở kế thừa truyền thống, học tập những tinh hoa văn hoá pháp
luật của các nước với các chế độ khác nhau, khi trở về nước chuẩn bị tổng khởi
nghĩa, Hồ Chí Minh đã có một nhận thức rõ ràng về nhà nước Việt Nam : Một
chính quyền nhà nước của dân do dân vì dân phải là một chính quyền hợp pháp,
hợp hiến.
Trước Cách mạng Tháng Tám 1945, khi cuộc đảo chính Nhật đối với Pháp
nổ ra vào ngày 9/3/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh và thường vụ Trung ương Đảng đã
đề ra chủ trương “thành lập chính quyền cách mạng” ở các căn cứ, các khu giải
phóng.
Đầu tháng 8/1945, mặc dầu tinhf hình rất khẩn trương, việc liên lạc với các
địa phương trong cả nước rất khó khăn, Người vẫn kiên quyết triệu tập đại hội quốc
dân Tân trào,cử ra “ Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam”. Lần đầu tiên một tổ
chức có tổ chức tiền chính phủ được đại biêu của nhân dân bầu ra đảm bảo tính hợp
pháp để lãnh đạo nhân dân kiên quyết đáu tranh giành độc lập. Người đã vạch rõ:
“Uỷ ban dân tộc giải phóng cũng như chính phủ lâm thời của ta lúc này. Hãy đoàn
kết chung quanh nó, làm cho chính sách và mệnh lệnh của nó được thi hành trên
khắp cả nước”.
Sau thắng lợi của cách mạng tháng tám, Người nêu vấn đề là cần phải có một
bản Tuyên ngôn độc lập đẻ tuyên bố với quốc dân đồng bào và thề giới về sự khai
sinh của nước Việt Nam mới.Trước khi quân đồng minh vào tước khí giới của quân
Nhật, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, trước cuộc meeting đông đảo, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập và công bố danh sách chính phủ lâm thời
với quốc dân đồng bào thế giới.
17
Bản Tuyên ngôn độc lập là một áng hùng văn của thời đại, nói lên sức mạnh
kỳ diệu cảu cả một dân tộc, trong khoảnh khắc lịch sử đã vùng lên đạp tan xiềng
xích hàng trăm năm nô dịch của đế quốc thực dân, hàng nghìn năm thống trị của
chế độ phong kiến, mở ra một kỷ nguyên mới cho Tổ quốc Việt Nam.
Theo Người một nhà nước pháp quyền phải là một nhà nước thật sự dại diện
cho dân, da toàn dân cử ra và quản lý xã hội bằng pháp luật. Xuất phát từ tư tưởng
đó, sau ngày công bố tuyên ngôn độc lập, tại phiên họp đầu tiên của chính phủ,
Người đã đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách, trong đó nhiệm vụ thứ ba là: “phải có một
hiến pháp dân chủ” và mặc dù tình hình đát nước đang đứng trước muôn vàn khó
khăn, Người vẫn đề nghị tỏ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử. Người
viết “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đén chế độ thực
dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân dân ta
không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân
chủ”.
Trong thẻ lệ tổng tuyển cử, Người nêu “ Tất cả công dân gái trai mười tám
tuỏiđều có quyền bầu cử và ứng cử, không phân biệt giàu nghèo tôn giáo, nòi
giống…”. Đây thực sự là một thể lệ bầu cử dân chủ nhất lúc bấy giờ với các nước
Đông Nam Ávà so với các nước phương Tây.
Mặc dầu đé quốc Pháp và bọn phản động ra sức phá hoại, cuộc tổng tuyển cử
ngày 6/1/1946 vẫn được nhân dân khắp nước ta hưởng ứng nhiệt tình và đã có trên
90% cử tri đi bỏ phiếu . Ở nhiều nơi, cuộc tổng tuyển cử đã diễn ra trong tiếng súng
và sự uy hiếp của kẻ thù, hàng trăm cán bộ và nhân dân ta đã hi sinh trong khi làm
nhiệm vụ bầu cử.
Thắng lợi của tổng tuyển cử chứng tỏ niềm tin sâu sắc của Đảng, của Chủ
tịch Hồ Chí Minh vào nhân dân và lòng tin mãnh liệt của nhân dân vào Hồ Chủ
Tịch và lực lượng cách mạng do Người đứng đầu. Đồng thời nó cũng chứng tỏ ý
18
thức sâu sắc của người về tầm quan trọng của mọt chính phủ dân cử hợp pháp, và
quyết tâm biến nó từng bước thành một chính quyền của nhân dân vững mạnh.
2.2.3 Nhà nước phải được điều hành bằng pháp luật kết họp với
giao dục đạo đức nâng cao giác ngộ cho người dân.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh,một nhà nước mạnh trước hết là một nhà nước
thực sự đại diện cho quyền lợi của nhân dân, thực sự do dân lập ra, được nhân dân
ủng hộ, vun đắp và chịu khó kiểm tra, kiểm sát của nhân dân. Đồng thời đó phỉa là
một nhà nước tập trung , có một bộ máy hành chính mạnh, hiệu lực, điều hành bằng
pháp luật và phải làm cho pháp luật có hiệu qủa thực tế. Dân chủ và tập trung, dân
chủ và pháp luật luôn đi đôi, gắn bó, nương tựa vào nhau. Mọi quyền dân chủ phải
được thể chế hoá bằng hiến pháp và pháp luật và mọi công dân đều phải tuân theo
hiến pháp, pháp luật. Pháp luật của chúng ta là một pháp luật thực sự dân chủ,vì nó
bảo vệ quyền tự do dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Nhân dân ta hiện nây
có tự do, tự do trong kỷ luật: Mỗi người có tự do của mình nhưng tự do đó phải
tuân theo páp luật và tôn trọng tự do của người khác.
Theo Người, một xã hội có trật tự kỷ cương, một nhà nước mạnh, có hiệu lực
phải quản lý bằng pháp luật, không một giờ một phút nào thiếu pháp luật,coi
thường pháp luật. Không quản lý nhà nước bằng pháp luật sẽ dẫn đến sơ hở, cán bộ
sẽ dễ sinh lạm dụng quyền lực, vi phạm quyền dân chủ của dân, cũng như công dân
dễ có hành vi xâm phạm tự do của người khác của cộng đồng xã hội, dẫn đến hỗn
loạn vô chính phủ. Chính vì vậy khi chưa xây dựng được hiến pháp mới và hình
thành hệ thống pháp luật mới Người đề nghị vận dụng những điều luật cũ còn
tương đối phù hợp với tình hình mới trừ bỏ những điều vi phạm hoặc trái với chủ
quyền của nhân dân.
Đồng thời Người đã khẩn trương tổ chức soạn thảo một bản hiến pháp mới.
Bản hiến pháp đã được kỳ họp thứ hai Quốc hội thảo luận dân chủ và thông qua
vào tháng 10/1946. Trong lời bê mạc Người đánh giá “ Quốc hội đã thu được một
19
kết quả làm vẻ vang cho đất nước là đã thảo luận xong bản hiến pháp. Sau khi nước
nhà mới được tụ do được 14 tháng, đã làm thành bản hiến pháp đầu tiên trong lịch
sử nước nhà. Bản hiến pháp đó còn là một vết tích lịch sử Hiến Pháp đầu tiên trong
lịch sử toàn cõi Á Đông”.
Về các hiến pháp năm 1946 và hiến pháp năm 1959, giới nghiên cứu và công
tác trong ngành tư pháp hiện nay có nhận định: “ Lần lượt trong nủa thế kỷ , từ hiến
pháp đầu tiên cho đên hiến pháp năm 1992 chúng ta có bốn bản hiến pháp đánh dấu
sự chuyển biến lớn trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Trong đó có bản hiến pháp
1946 và 1959 là rất Việt Nam mang đạm dấu ấn phương Đông, đồng thời có vận
dụng nhiều khinh nghiệm của Pháp, có một phần của Mỹ về tổ chức nhà nước thực
sự biểu hiện tư duy độc lập sáng tạo của Hồ Chí Minh, của Đảng và nhân dân ta về
vấn đề nhà nước”
Trong những năm trực tiếp lãnh đạo nhà nước, Người đã từng bước xây dựng
hệ thống pháp luật. Ngoài hai bản hiến pháp Người đã công bố 16 đạo luật và gần
13000 văn bản dưới luật khác. Ở đay có diểm đáng chú ý là trong bản Yêu sách của
nhân dân An Nam, điều 7 yêu cầu phải thay chế độ ra ác sắc lệnh bằng các chế độ
ra các đạo luật vì cai trị bằng pháp luật mới thể hiện được chế độ dân chủ.Nhà nước
của ta trong thời kỳ kháng chiến, do điều kiện hoàn cảnh đi lai khó khăn không thể
thực hiện định kỳ họp Quốc hội thông qua các đạo luật, nên phải sử dụng chế độ
sắc lệnh để điều hành công việc của đất nước. Để khắc phục khó khăn đó và để
đảm bảo sắc lệnh phản ánh đúng yêu cầu quyền lợi của nhân dân, của cách mạng.
Người đã hết sức láng nghe ý kiến nguyện vọng của người dân cán bộ, đồng thời
tôn trọng nguyên tắc mộtkhi ra sắc lệnh phải thông qua thường trực Quốc hội
Tuy nhiên, sau kháng chiến chống Pháp thắng lợi Người đã nhận thấy : do sự
hạn chế của điều kiện chiến tranh và trình độ luật pháp cua Nhà nước ta nên “ Luật
pháp của chúng ta hiện nay chưa đầy đủ” và yêu cầu mọi người cần phải có trách
20
- Xem thêm -