Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tư tưởng chính trị của Hồ Quý Ly...

Tài liệu Tư tưởng chính trị của Hồ Quý Ly

.PDF
116
403
84

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------ LÊ THANH QUÂN TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA HỒ QUÝ LY LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC Hà Nội - 2014 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------ LÊ THANH QUÂN TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ CỦA HỒ QUÝ LY LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Chính trị học Mã số: 60 31 02 01 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Hoài Văn Hà Nội - 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Thông tin, số liệu trong luận văn hoàn toàn trung thực, chính xác, các trích dẫn đã được chỉ rõ nguồn gốc. Kết quả nghiên cứu của luận văn không trùng với các công trình nào khác. Tác giả luận văn Lê Thanh Quân 1 LỜI CẢM ƠN Đầu tiên, cho phép tôi bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Nguyễn Hoài Văn, người thầy đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô giáo trực tiếp giảng dạy chúng tôi trong suốt thời gian học tập; Đặc biệt là sự quan tâm giúp đỡ tận tình của Thầy, Cô giáo Khoa Khoa học Chính trị, Phòng Sau đại học Trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội và Phòng Khoa học Công nghệ trường Đại học Sài Gòn. Đồng thời, tôi cũng gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè đã giúp tôi có nguồn động lực để hoàn thành khóa học. Bên cạnh đó, tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn đối với ông Trịnh Tiến Huynh, nguyên Trưởng phòng Văn hóa huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa (nơi Hồ Quý Ly xây dựng thành An Tôn) đã giúp đỡ tôi trong việc tiếp cận một số tư liệu và khảo sát thực địa. Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn! Lê Thanh Quân MỤC LỤC MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài................................................................................ 1 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài................................................... 4 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn............................................................. 8 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn........................................... 8 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu................................................... 9 6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn..................................................... 9 7. Ý nghĩa của luận văn.................................................................................... 9 8. Bố cục của luận văn...................................................................................... 9 Chƣơng 1: CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG CHÍNH TRỊ CỦA HỒ QUÝ LY................................................................................................... 10 1.1. Cuộc khủng hoảng toàn diện của xã hội Đại Việt thời Trần cuối thế kỷ XIV................................................................................................................... 10 1.2. Khủng hoảng quyền lực chính trị trong triều đình nhà Trần..................... 24 1.3. Hồ Quý Ly lên ngôi - xác lập vương triều Hồ (1400 -1407)..................... 29 Tiểu kết chương 1............................................................................................. 34 Chƣơng 2: NỘI DUNG TƢ TƢỞNG CHÍNH TRỊ CỦA HỒ QUÝ LY.... 35 2.1. Xây dựng nhà nước quân chủ nho giáo trung ương tập quyền thống nhất......................................................................................................... 35 2.2. Đề cao độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia.......................................... 51 2.3. Chống giáo điều nho giáo, đề cao văn hoá dân tộc................................... 57 2.4. Đề cao pháp trị.......................................................................................... 62 Tiểu kết chương 2............................................................................................. 64 Chƣơng 3: BÀI HỌC LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.................................. 65 3.1. Trong cải cách đổi mới, cũng như trong chống ngoại xâm phải tôn trọng tư tưởng chính trị truyền thống Việt Nam là đề cao dân, dựa vào dân để dựng nước và giữ nước..................................................................................... 65 3.2. Tư tưởng chính trị của Hồ Quý Ly cho thấy cải cách và đổi mới là đòi hỏi tất yếu mỗi khi đất nước lâm vào khủng hoảng.................................... 76 3.3. Hồ Quý Ly là nhà lãnh đạo chính trị có bản lĩnh, quyết tâm thực hiện mục tiêu đã lựa chọn......................................................................................... 79 Tiểu kết chương 3............................................................................................. 82 KẾT LUẬN...................................................................................................... 83 KIẾN NGHỊ..................................................................................................... 90 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................... 91 PHỤ LỤC......................................................................................................... 95 Phụ lục 1. Bản đồ huyện Vĩnh Lộc, bình đồ khu vực núi Đún.......................... 96 Phụ lục 2. Ảnh Thành Nhà Hồ.......................................................................... 97 Phụ lục 3. Bản đồ không ảnh Đàn tế Nam giao................................................ 100 Phụ lục 4. Một số hiện vật vũ khí bằng đá và kim loại..................................... 101 Phụ lục 5. Hiện vật địa danh xuất hiện trên gạch và vật liệu trang trí............ 102 Phụ lục 6. Bản đồ chống giặc Minh.................................................................. 103 Phụ lục 7. Thơ của Hồ Quý Ly.......................................................................... 107 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam có nội dung nghiên cứu xuất phát từ lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Trong cuộc đấu tranh lâu dài đó, lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam đã hình thành một hệ giá trị có tính phổ biến như: độc lập tự chủ, toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất quốc gia; đoàn kết dân tộc; đề cao dân, dựa vào dân để dựng nước và giữ nước; xây dựng một Nhà nước trong sạch vững mạnh; hoà bình hữu nghị với các nước khác. Mỗi khi đứng trước những thử thách lịch sử, cha ông ta dường như đều trở lại với những tư tưởng chính trị cơ bản đó. Vào nửa cuối thế kỉ XIV, nhà Trần lâm vào khủng hoảng toàn diện. Chính quyền trung ương suy yếu trầm trọng, không còn khả năng kiểm soát đối với đất nước. biên giới phía Nam, quân Chiêm Thành luôn quấy phá, trong các cuộc đụng độ với Chiêm Thành, Đại Việt thậm chí đã không đủ sức tự vệ. Chính thể bị đe dọa từ phía người Chiêm, khi quân đội của họ tiến vào châu thổ sông Hồng và đánh chiếm Thăng Long nhiều lần. Đặc biệt nghiêm trọng là nhà Minh sau khi giành được quyền bính, thiết lập nền độc lập và thống nhất trong toàn lãnh thổ Trung Hoa thì cũng bắt đầu xúc tiến việc xâm lược Viêt Nam. Vấn đề đặt ra với Việt Nam lúc này cả trên bình diện tư tưởng, lí luận và thực tiễn là phải phấn đấu cho mục tiêu độc lập dân tộc và bình đ ng với Trung Quốc. Những thách thức cả bên trong và bên ngoài đất nước càng tăng lên đối với triều Trần và truyền thống chính trị của nó. Mô hình nhà nước quân chủ quý tộc - với một hệ thống chính trị lỏng l o mà quyền lực thuộc về các thân vương, quý tộc, tôn thất, dựa trên cơ sở kinh tế điền trang thái ấp tỏ ra không còn ph hợp nữa. Trong bối cảnh đó chỉ có sức mạnh của nhà nước tập quyền chuyên chế tuyệt đối theo Nho giáo mới có thể đáp ứng được yêu cầu của phát triển của xã hội Đại Việt cuối Trần. Đó là tấn công vào toàn bộ giai cấp quý tộc nh m tước bỏ thế lực kinh tế - chính trị của giai cấp này và tập trung sức mạnh kinh tế, chính trị, quân sự vào Nhà nước tập quyền trung ương. Nhanh chóng hình thành chế độ quân chủ tập quyền do tầng lớp quan lại - nho sĩ nắm. Đó cũng là những giải pháp chính trị căn bản đưa xã hội cuối Trần ra khỏi khủng hoảng và cứu vãn nền độc lập của dân tộc. Trong triều đình nhà Trần lúc bấy giờ, Hồ Quý Ly là người có khả năng giải quyết các vấn đề trên. 1 Có thể nói, Hồ Quý Ly là người có tư tưởng tiến bộ nhất trong số các đại thần của vương triều Trần cuối thế kỷ XIV, ở vị trí cao của quyền lực đã ý thức được trách nhiệm lịch sử, nỗ lực đưa đất nước vượt qua khó khăn. Những tư tưởng và hoạt động thực tiễn của ông vượt ra ngoài những chuẩn mực và truyền thống chính trị của triều Trần, mang tính đột phá nh m đổi mới triều đại và đổi mới đất nước. Với mong muốn củng cố và xây dựng một Nhà nước mạnh, có đủ tiềm lực cả kinh tế và quốc phòng để “chống giặc Bắc” - k th truyền thống của dân tộc, Hồ Quý Ly đã khởi xướng và tổ chức thực hiện nhiều chính sách cải cách. Vì thế trong lịch sử dân tộc, Hồ Quý Ly được biết đến trước hết là một nhà cải cách. Tìm hiểu tư tưởng chính trị của Hồ Quý Ly không thể không đề cập đến công cuộc cải cách của Hồ Quý Ly. Nói cách khác, những nội dung cơ bản của tư tưởng chính trị của Hồ Quý Ly như độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia; xây dựng Nhà nước mạnh, trung ương tập quyền thống nhất, tuyệt đối theo Nho giáo; đề cao văn hoá dân tộc, chống giáo điều Nho giáo; thực hiện Pháp trị… đã được thể hiện qua các chính sách cải cách cụ thể của Hồ Quý Ly. Những chính sách cải cách của Hồ Quý Ly được đánh giá là dũng cảm, táo bạo, mạnh mẽ và tâm huyết đối với vận mệnh quốc gia và vận mệnh triều đình lúc đó. Sự nghiệp chính trị của Hồ Quý Ly chưa trọn vẹn và công cuộc cải cách của ông cũng thất bại cùng với sự kết thúc của vương triều Hồ vào năm 1407, sau khi thất bại nhanh chóng trước quân Minh. Trong lịch sử dân tộc, các tư tưởng cải cách đều xuất hiện mỗi khi đất nước lâm vào trì trệ, khủng hoảng, hoặc trải qua khủng hoảng sâu sắc, kết quả và thành bại cũng không giống nhau nhưng đặc điểm chung nổi bật của những tư tưởng đó là đều mong muốn đổi mới để phát triển đất nước, tự cường dân tộc. Tư tưởng chính trị của Hồ Quý Ly cũng phản ảnh tính khách quan đó, trong những điều kiện lịch sử của dân tộc ta thời Hậu Trần cuối thế kỷ XIV và một số năm đầu thế kỷ XV, trong thời gian tồn tại ngắn ngủi của vương triều Hồ (1400 - 1407). Mặc dù công cuộc cải cách của Hồ Quý Ly chưa đạt được kết quả trên thực tế và cuộc kháng chiến chống quân Minh do nhà Hồ lãnh đạo đã thất bại nhưng tinh thần đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm của Hồ Quý Ly là không thể phủ nhận. Hồ Quý Ly đã có những đóng góp nhất định đối với yêu cầu đổi mới cũng như yêu cầu cải cách để phát triển đất nước trong những thời điểm cần 2 thiết khi thực tiễn đòi hỏi đối với một nhà lãnh đạo tầm quốc gia, đặc biệt đối với người đứng đầu đất nước. Việc tìm hiểu tư tưởng chính trị của Hồ Quý Ly để rút ra những bài học kinh nghiệm là điều cần thiết và có ý nghĩa đối với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay. Có thể nói, thất bại lớn nhất hay bài học lớn nhất rút ra từ tư tưởng chính trị Hồ Quý Ly là bài học mất lòng dân. Hồ Quý Ly đã không thấy được những hậu quả trái chiều do cuộc cải cách mang lại đã làm bất lợi cho đoàn kết dân tộc và tập hợp lực lượng, như Nguyễn Trãi đã chỉ ra từ đầu thế kỷ XV: Nhà Hồ mất nước là vì mất dân. Nói cách khác, sai lầm trong tư tưởng chính trị của Hồ Quý Ly là đã không thực hiện di huấn chính trị trước đó một thế kỷ, khi Hưng đạo vương Trần Quốc Tuấn đã nói với vua Trần vào năm 1300 trước lúc mất: Khoan thư sức dân, thực hiện kế sâu rễ bền gốc. Đó là thượng sách để giữ nước. Chứng kiến sự suy thoái của triều Trần, rồi thất bại của nhà Hồ và sau đó trực tiếp c ng với nhân dân làm nên thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống Minh, Nguyễn Trãi đã tổng kết: Hoạ phúc hữu môi phi nhất nhật - Hoạ phúc như cặp môi đi liền nhau, không phải một ngày sinh ra và Phúc chu thuỷ tín dân do thuỷ - Sức dân như nước, chở thuyền là dân lật thuyền cũng là dân. Có thể nói về phương diện lý luận, Nguyễn Trãi là người đầu tiên chỉ ra chính xác nguyên nhân dẫn đến thất bại của nhà Hồ, cũng như sai lầm lớn nhất trong tư tưởng chính trị của Hồ Quý Ly. Ngày nay, đất nước ta đang trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động hội nhập quốc tế. Để làm được điều đó, đều phải phát huy sức mạnh của nhân dân, được nhân dân ủng hộ thì mới thành công. Bên cạnh những thành tựu, trong gần 30 năm đổi mới vẫn còn những hạn chế, yếu kém trong một số mặt của kinh tế xã hội. Đặc biệt gần đây, chủ quyền quốc gia bị xâm phạm, đất nước phải đối mặt với thách thức gay gắt, có mặt nghiêm trọng. Những yếu kém, khuyết điểm, nhược điểm nổi lên là bản lĩnh, năng lực và phẩm chất, phương thức lãnh đạo của một Đảng cầm quyền, là sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ đảng viên dẫn đến những căn bệnh như quan liêu, cửa quyền, xa dân, không tôn trọng dân, vô cảm trước những hành động vi phạm đến quyền dân chủ và lợi ích chính đáng của nhân dân, cá nhân chủ nghĩa, nạn tham nhũng, tham quyền, nhóm lợi ích. Tình hình đó nói lên sức chiến đấu của Đảng đang giảm sút, lòng tin 3 của dân đối với Đảng ngày một phai nhạt. Đây là thử thách lớn nhất đối với Đảng và Nhà nước ta. Đúng như Chủ tịch nước Trương Tấn Sang gần đây đã viết: “Chúng ta không sợ bất cứ một thế lực nào, dù là hung bạo nhất. Chúng ta chỉ sợ nhân dân mất niềm tin vào Đảng, Nhà nước, chế độ ta” (Tạp chí Cộng Sản điện tử ngày 10/08/2014). Vì vậy, bài học mất lòng dân rút ra từ sai lầm trong tư tưởng chính trị của Hồ Quý Ly cách đây hơn 600 năm vẫn còn nguyên giá trị và tính thời sự của nó. Việc nghiên cứu, tìm hiểu di sản tư tưởng chính trị của Hồ Quý Ly nh m cung cấp một cứ liệu khoa học, làm rõ hơn những nội dung quan trọng của lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam, đặc biệt là tư tưởng đại đoàn kết dân tộc; tư tưởng đề cao dân, dựa vào dân để dựng nước và giữ nước - góp phần xây dựng đất nước phát triển nhanh và bền vững như tinh thần Đại hội lần thứ XI của Đảng ta đã chỉ ra. Xuất phát từ ý nghĩa lý luận và thực tiễn như trên, tác giả chọn đề tài: “Tư tưởng chính trị của Hồ Quý Ly” để làm luận văn thạc sĩ Chính trị học của mình. 2.Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Từ nửa cuối thế kỷ XX đến nay, đề tài về Hồ Quý Ly đã thu hút sự quan tâm của nhiều học giả, nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Các công trình nghiên cứu này thể hiện dưới dạng sách chuyên khảo, bài đăng tạp chí, luận văn, luận án của các tác giả với quan điểm, cách tiếp cận khác nhau. Trước đây, những đóng góp tích cực của nhà Hồ, mà đặc biệt là Hồ Quý Ly với tiến trình phát triển lịch sử dân tộc đã bị phủ định hoặc đánh giá chưa đầy đủ với những quan điểm khác nhau. Sau khi tạp chí Nghiên cứu lịch sử (1961) mở cuộc hội thảo đánh giá lại vai trò của Hồ Quý Ly và những cải cách của ông theo quan điểm sử học mới, thì việc nghiên cứu về nhân vật lịch sử Hồ Quý Ly đã mang tính khách quan và khoa học hơn nh m trả lại cho Hồ Quý Ly vị trí xứng đáng trong lịch sử dân tộc. Cũng từ đây nhiều tác giả đã công bố những công trình nghiên cứu trực tiếp hoặc liên quan đến con người và sự nghiệp của Hồ Quý Ly. Đặc biệt khi viết về lịch sử Việt Nam thời trung đại, d ở bất cứ cuốn sách tham khảo nào, chúng ta cũng tìm thấy một phần mà các nhà nghiên cứu dành sự quan tâm của mình để viết về Hồ Quý Ly. 4 Đã có những cuộc tranh luận trên các tập san chuyên ngành, trong đó tập trung chủ yếu ở chuyên san Nghiên cứu lịch sử (1961) và chuyên san Nghiên cứu lịch sử (số 6, năm 1990) về Hồ Quý Ly. Trong các bài viết của mình, nhiều tác giả đã đánh giá cao vai trò của Hồ Quý Ly, xem ông là một nhà chính trị, nhà lãnh đạo tài năng, đại biểu cho tầng lớp phong kiến tiến bộ muốn canh tân đất nước. Chính sách cải cách của ông được đánh giá là tiến bộ, đáp ứng được yêu cầu thực tế của lịch sử, có tác dụng thúc đẩy xã hội phát triển. Đồng thời các nhà sử học Mác - xít đã đi vào giải thích nguyên nhân thất bại của cải cách này. Bên cạnh đó, cũng không ít các tác giả không đồng tình với ý kiến trên như các nhà sử học Hoàng Tuyên, Đào Duy Anh... Các tác giả này cho r ng Hồ Quý Ly sống và hành động theo chủ nghĩa cá nhân và cuộc cải cách của ông không đáp ứng được yêu cầu phát triển của xã hội. Trong thời gian này tại Pháp, nhà sử học Lê Thành Khôi trong cuốn Nước Việt Nam lịch sử và văn minh nói về cuộc cải cách của Hồ Quý Ly, tác giả này nhận định Hồ Quý Ly đã đưa ra chính sách có tính đột phá, đổi mới và xuất phát từ một động cơ đúng đắn tiến bộ - cố gắng giải quyết cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội lúc đó. Ngược lại nhà sử học Pháp Jean chernaux trong cuốn Góp phần vào nghiên cứu lịch sử Việt Nam lại cho r ng Hồ Quý Ly là một k thoán đoạt, ông ta cai trị tàn bạo, tăng thuế khóa và binh dịch. Năm 1970, các nhà nghiên cứu lịch sử Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Đức Nghinh tiếp tục phân tích sâu sắc hơn về cuộc cải cách của Hồ Quý Ly. Trong cuốn Lịch sử Việt Nam hai tác giả này đã dành riêng một chương nói về chính sách cải cách của Hồ Quý Ly, đặc biệt đã làm rõ hơn về chính sách hạn điền, hạn nô. Các nhà sử học Phan Huy Lê, Phan Đại Doãn trong tác phẩm Khởi nghĩa Lam Sơn (1977) đã đánh giá Hồ Quý Ly là con người mạnh dạn, tiến bộ nhưng cải cách của Hồ Quý Ly đã thất bại c ng với cuộc kháng chiến chống quân Minh của triều Hồ vì không được nhân dân ủng hộ. Năm 1989, sử gia Liên Xô là Maxlov trong cuốn Việt Nam phong kiến cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV đã đánh giá cao Hồ Quý Ly và cuộc cải cách, coi ông là nhà cải cách điển hình ở thời phong kiến của Việt Nam. 5 Đến những năm 1991 - 1992 tạp chí Nghiên cứu lịch sử lại mở cuộc hội thảo mới đánh giá lại vai trò Hồ Quý Ly c ng những cải cách của ông theo quan điểm đổi mới mà Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra, trong đó có đổi mới tư duy chính trị. Với cách nhìn mới, các nhà khoa học mong muốn trả lại cho Hồ Quý Ly vị trí xứng đáng của ông trong lịch sử dân tộc. Cuốn Hồ Quý Ly (1997) của PGS.TS Nguyễn Danh Phiệt, trong cuốn sách này tác giả đã đưa ra các nguồn sử liệu tin cậy có nói về Hồ Quý Ly, về vương triều Hồ để dựng lại bức tranh toàn diện về thân thế Hồ Quý Ly, bối cảnh xã hội Việt nam thời cuối Trần, những hoạt động và vai trò của Hồ Quý Ly ở vương triều Trần từ năm 1370 tới năm 1400. Hồ Quý Ly lập ra triều Hồ c ng với những cải cách của ông và cuộc kháng chiến chống giặc Minh xâm lược, trong thời kì cuối thế kỉ XIV đầu thế kỉ XV. Tác giả Nguyễn Đăng Thục trong tác phẩm Lịch sử tư tưởng Việt Nam tập 5 (1998) đã trình bày một số nội dung có liên quan tới nhân vật Hồ Quý Ly như: Hoàn cảnh xã hội - chính trị cuối thời Trần; Tư tưởng pháp trị của Hồ Quý Ly và công cuộc cải cách của ông, trong đó có nội dung đánh giá về sự hình thành của tư tưởng cải cách Hồ Quý Ly. Cuốn sách Họ Hồ và Hồ Quý Ly trong lịch sử (nhiều tác giả) do NXB Sài Gòn và Tạp chí Xưa và Nay phát hành năm 2003, đây là tập hợp các bài viết nghiên cứu về nhân vật Hồ Quý Ly đã in trong Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử từ năm 1960 đến trước thời điểm xuất bản cuốn sách. Mục đích của cuốn sách giúp những người quan tâm có cái nhìn tổng quan về những đóng góp của Hồ Quý Ly. Qua đó, các nhà sử học đã trả lại đúng vị trí mà lịch sử không thể phủ nhận đối với những đóng góp của ông. Vào năm 1997, cuốn sách Thể chế chính trị, hành chính và pháp quyền trong cải cách Hồ Quý Ly của tác giả Trương Thị Hòa, do NXB Chính trị Quốc gia phát hành, trong đó nêu và làm rõ những tư tưởng cải cách mới m của Hồ Quý Ly trong việc thay đổi bộ máy nhà nước phong kiến trung ương tập quyền và củng cố pháp trị nh m ổn định và phát triển xã hội bấy giờ. Tiểu thuyết lịch sử Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh viết năm 1999 đã dựa vào những tư liệu lịch sử về nhà Hồ và nhân vật Hồ Quý Ly. Cuốn tiểu thuyết lịch 6 sử này nh m giới thiệu với người đọc những nét khái quát về một thời kỳ lịch sử và một nhân vật lịch sử khá nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam. Đồng thời, cũng đã có một số cuộc hội thảo khoa học về Hồ Quý Ly, trong đó phải kể đến hội thảo khoa học Hồ Quý Ly và nhà Hồ do Ban Nghiên cứu và biên soạn lịch sử Thanh Hóa kết hợp với Hội Khoa học lịch sử Việt Nam tổ chức năm 1992. Ngoài ra, trên các tạp chí chuyên ngành, mà đặc biệt là Tạp chí Nghiên cứu lịch sử đã có nhiều bài viết sâu sắc của các học giả, nhà nghiên cứu như: Văn Tạo với Từ Hồ Quý Ly nhìn nhận lại một số cải cách trong lịch sử, Trương Hữu Quýnh với Nhìn lại vấn đề Hồ Quý Ly trong lịch sử, Lê Tạo với Mấy ý kiến xung quanh việc xây dựng Tây Đô, Nguyễn Danh Phiệt có bài viết Hồ Quý Ly - Một nhân cách anh hùng,.... Trong Tập bài giảng Chính trị học, của tập thể tác giả Viện Khoa học chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, GS. Hồ Văn Thông (chủ biên), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, ở chương Lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam, các tác giả cho r ng: năm 1400, nhà Hồ thay thế nhà Trần. Hồ Quý Ly lập ra một triều đại mới, trong lúc nhà nước trung ương Trần đã hoàn toàn suy yếu, không còn đủ khả năng điều hành đất nước. Hồ Quý Ly đã tiến hành một cuộc cải cách sâu rộng nh m khắc phục khủng hoảng kinh tế - xã hội, đổi mới đất nước và tích cực chuẩn bị chống quân Minh. Điều đó chứng tỏ ông là một người yêu nước, một nhà cải cách lớn của lịch sử Trung đại Việt Nam. Nhưng cuộc kháng chiến do nhà Hồ lãnh đạo đã thất bại, kéo theo sự sụp đổ của vương triều Hồ và kết thúc công cuộc cải cách đang dở dang của Hồ Quý Ly. Đến nửa cuối thế kỷ XV, công cuộc cải cách ấy được Lê Thánh Tông tiếp tục và hoàn chỉnh. Bước sang thế kỷ XXI, năm 2006, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm đã ấn hành cuốn sách Mười cuộc cải cách đổi mới lớn trong lịch sử Việt Nam của tác giả Văn Tạo. Khi bàn về các cuộc đổi mới trong lịch sử, tác giả đã đánh giá cao về tư tưởng cải cách của Hồ Quý Ly và vai trò của ông trong lịch sử cải cách của nước nhà, cuốn sách cũng nói lên ý nghĩa của tư tưởng cải cách Hồ Quý Ly đối với các tư tưởng cải cách và đổi mới sau này của nước ta. Từ năm 2006 đến nay, việc nghiên cứu về Hồ Quý Ly và công cuộc cải cách của ông vẫn được tiếp tục. 7 Đánh giá tổng quan về một số công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận văn: Đã có nhiều công trình nghiên cứu về Hồ Quý Ly được các nhà nghiên cứu thực hiện trong một thời gian dài, với nhiều tác giả tên tuổi gắn với Hồ Quý Ly như: Nguyễn Danh Phiệt, Võ Xuân Đàn, Trương Hữu Quýnh, Văn Tạo, Nguyễn Xuân Khánh,... Các nghiên cứu được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau như: sử học, văn học sử, pháp luật. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu vắng các công trình nghiên cứu về Hồ Quý Ly dưới góc độ của Khoa học chính trị nói chung và Chính trị học nói riêng. Do đó, việc đi sâu nghiên cứu về Hồ Quý Ly dưới góc độ của Chính trị học một cách có hệ thống là hết sức cần thiết, đáp ứng yêu cầu lý luận và thực tiễn công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay. D chưa có công trình nào trực tiếp hoặc đi sâu nghiên cứu tư tưởng chính trị của Hồ Quý Ly, nhưng những nguồn tài liệu phong phú của nhiều nhà nghiên cứu, nhà khoa học đã trình bày ở trên là hết sức quan trọng để tác giả luận văn có điều kiện tham khảo, kế thừa kết quả nghiên cứu của những người đi trước và sử dụng cho đề tài nghiên cứu của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn - Mục đích nghiên cứu của luận văn Làm rõ những nội dung cơ bản trong tư tưởng chính trị của Hồ Quý Ly thông qua các chính sách cải cách trên nhiều lĩnh vực mà Hồ Quý Ly trực tiếp thực hiện. Từ đó rút ra bài học lịch sử và ý nghĩa của nó đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay. - Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau: + Nghiên cứu làm rõ cơ sở hình thành tư tưởng chính trị của Hồ Quý Ly. + Làm rõ những nội dung trong tư tưởng chính trị của Hồ Quý Ly. + Bài học lịch sử và ý nghĩa của của nó đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu về tư tưởng chính trị của Hồ Quý Ly thông qua các chính sách cải cách trên nhiều lĩnh vực mà Hồ Quý Ly trực tiếp thực hiện. 8 - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu chủ yếu vào giai đoạn lịch sử Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIV thời cuối nhà Trần và những năm đầu thế kỷ XV dưới triều Hồ (1400 - 1407) gắn với hoạt động của Hồ Quý Ly. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn là phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chính trị và con người chính trị. Trên cơ sở đó, luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử - lôgíc, đồng thời kết hợp với các phương pháp khác như: phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp hệ thống, khái quát hoá. 6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn Là luận văn thạc sĩ Chính trị học đầu tiên nghiên cứu về tư tưởng chính trị của Hồ Quý Ly. Luận văn góp phần nhận diện một cách cụ thể và đầy đủ hơn về tư tưởng chính trị của Hồ Quý Ly, đồng thời nêu lên những bài học lịch sử cũng như ý nghĩa của nó đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay. 7. Ý nghĩa của luận văn - Góp phần nghiên cứu về lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam, đặc biệt là tư tưởng cải cách đổi mới đất nước đã xuất hiện khá sớm trong lịch sử Việt Nam. - Đưa ra một cách nhìn nhận, đánh giá khách quan về Hồ Quý Ly, một nhân vật lịch sử và một nhà cải cách có tư tưởng đổi mới tự cường dân tộc từ thế kỷ XIV. - Luận văn có thể được d ng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy về lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam và khoa học chính trị nói chung. 8. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận văn gồm có 3 chương và 10 tiết. 9 Chƣơng 1: CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG CHÍNH TRỊ CỦA HỒ QUÝ LY 1.1. CUỘC KHỦNG HOẢNG TOÀN DIỆN CỦA XÃ HỘI ĐẠI VIỆT THỜI TRẦN CUỐI THẾ KỶ XIV 1.1.1. Kinh tế Kể từ thế kỷ X, sau khi thoát khỏi sự thống trị của phương Bắc, một nhà nước phong kiến dân tộc ở nước ta đang dần được hình thành và phát triển qua các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần. Chính sự ra đời của nhà nước theo mô hình Nho giáo được các triều đại tiếp thu và xây dựng đã giúp cho việc quản lý, xây dựng và bảo vệ quốc gia trở nên hiệu quả hơn. Cơ sở của mô hình nhà nước này được xác lập dựa trên chế độ sở hữu về ruộng đất của nhà nước. Đây cũng chính là đặc điểm phương Đông mà Mác kh ng định “Nhà nước ở đây là người sở hữu tối cao về ruộng đất. Chủ quyền ở đây là chế độ sở hữu ruộng đất tập trung ở quy mô cả nước [02, tr.11]. Nhận xét trên chỉ là những nét chủ đạo và chung nhất, tuy nhiên nếu đi vào trường hợp một quốc gia cụ thể như Đại Việt, thì cũng có những nét riêng trong chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất. Ngay từ thế kỷ X, ruộng tư đã bắt đầu phát triển và kéo theo đó là sự mua bán, trao đổi, cầm cố và được xuất phát từ nhu cầu của thị trường. Thời Lý, chỉ trong vòng có 10 năm (1135 - 1145) Nhà nước đã 3 lần xuống chiếu để điều chỉnh những vấn đề liên quan tới tranh chấp ruộng đất. Bước sang thời Trần, những tranh chấp về ruộng đất và đã diễn ra phổ biến c ng với xu hướng tư nhân hóa ruộng đất ngày càng tăng. Nửa sau thế kỷ XIV, nước Đại Việt cuối vương triều Trần đã lâm vào một cuộc khủng hoảng toàn diện trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Sự bất mãn của dân chúng đã lên tới đỉnh điểm bởi những xung đột quanh việc chiếm đoạt đất đai của triều đình. Nhà Trần đã chiếm một lượng ruộng đất của nông dân hoặc của công xã để cho các vương hầu lập thái ấp, ngoài ra chính các vương hầu này cũng lợi dụng uy quyền của mình để chiếm đoạt thêm những ruộng đất mà họ có thể lấy được từ tay nông dân. Sự phát triển của chế độ tư hữu ruộng đất trong giai đoạn này đã dẫn đến sự phát triển của thành phần địa chủ bình dân, chính vì vậy đã xuất hiện mối quan hệ nông nô - tá điền. So với những mối quan hệ trước 10 như quan hệ địa chủ quý tộc và người sản xuất, thì mối quan hệ nông nô - tá điền có những điểm tiến bộ nhất định. Một là người sản xuất (tá điền) đã được tự do hơn, họ ít bị ràng buộc về thân thể. Hai là sự năng động, tự chủ của người sản xuất đã được cải thiện, do đó năng suất lao động được nâng cao và làm ra được khối lượng sản phẩm nhiều hơn trước. Với hai hình thức sở hữu c ng tồn tại - công và tư - nhưng sở hữu tư có chiều hướng gia tăng. Do vậy, mâu thuẫn kinh tế cơ bản trong xã hội bấy giờ là mâu thuẫn về ruộng đất giữa công hữu và tư hữu. Mâu thuẫn này thể hiện trên hai phương diện: thứ nhất là mâu thuẫn giữa sở hữu toàn quốc (trên danh nghĩa là Nhà nước) với sự chiếm dụng của những tập thể công xã; thứ hai là mâu thuẫn giữa chế độ sở hữu công xã với sở hữu tư nhân. Chính những mâu thuẫn tuy không mang tính đối kháng gay gắt này, nhưng đã khiến chính quyền trung ương tập quyền nhà Trần phải có những giải pháp ph hợp để duy trì sự tồn tại của triều đình. Một trong những thách thức của chính quyền nhà Trần bấy giờ khi giải quyết vấn đề ruộng đất tư nhân lúc này đã trở thành hàng hóa trao đổi, nó sẽ phá vỡ kết cấu phân chia ruộng đất truyền thống, điều đó kéo theo hàng loạt biến động của xã hội. Vào năm 1254, đời vua Trần Thái Tông, nhà nước “bán ruộng công, mỗi diện là 5 quan tiền, cho nhân dân mua làm của tư” [07, tr.464]. Sau đó, vào năm 1266, vua Trần Thánh Tông đã “xuống chiếu cho vương hầu, công chúa, phò mã, cung tần chiêu tập dân phiêu tán không có sản nghiệp làm nô tỳ để khai khẩn ruộng hoang lập làm điền trang. Vương hầu có trang thực bắt đầu từ đấy” [07, tr.482]. Từ hai văn bản của hai vị vua Trần kể trên, đã cho thấy ruộng đất tư và chế độ điền trang phát triển và một tầng lớp địa chủ không chỉ có vương hầu mà còn có cả địa chủ không quan tước và địa chủ nhà ch a, hai thành phần này không phải là ít. Chính vì vậy, vào khoảng giữa thế kỷ XIII, hầu hết ruộng đất truyền thống đều có sự thay đổi về cơ cấu, trong đó dựa trên chế độ sở hữu chủ yếu do Nhà nước quản lý bao gồm ruộng đất Nhà nước quản lý trực tiếp, ruộng đất phong cấp và ruộng đất công do làng xã quản lý; ngoài ra cũng có một lượng ruộng đất mới của giai cấp địa chủ và tiểu nông - đây là những giai tầng rất năng động và nhạy bén trong vấn đề ruộng đất. 11 Thời Trần, diện tích ruộng đất được mở rộng chủ yếu dựa trên hai yếu tố, một là khai hoang lấn biển, hai là mở rộng lãnh thổ về phương Nam. Và trong đó, sự thay đổi trong cơ cấu giữa sở hữu Nhà nước và sở hữu tư nhân luôn có sự thay đổi và biến động, nhưng đều theo xu hướng ruộng đất thuộc sở hữu của Nhà nước dần bị thu hẹp và ruộng đất do tư nhân quản lý ngày một tăng lên. Tuy nhiên, ngay cả ruộng đất thuộc quyền sở hữu của Nhà nước cũng có sự biến đổi, từ chỗ ruộng đất công chiếm đa số, nay đã chuyển dần cho làng xã quản lý. Việc thay đổi cơ cấu trong sở hữu Nhà nước và tư nhân ở vấn đề ruộng đất thời Trần là do những ruộng đất của Nhà nước được phong cấp cho những vương hầu, tư nhân mua hoặc cá nhân tự lấn chiếm và tất nhiên những ruộng đất tư nhân này chủ yếu tập trung ở trong tay giai cấp địa chủ. Với sự thay đổi trong cơ cấu ruộng đất như trên, người nông dân trong xã hội thời Trần nói chung và cuối Trần nói riêng khi sản xuất trên ruộng công được phân chia và phải có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước mà người trực tiếp thu thuế là bộ máy quản lý làng xã, hoặc nộp tô cho địa chủ. Bộ phận khác trong tay không có ruộng thì trở thành nông nô - nô tỳ và những người này chịu sự bóc lột trực tiếp của Nhà nước hoặc địa chủ, họ bị giai cấp thống trị bóc lột giá trị thặng dư dưới các hình thức tô thuế, địa tô và một số hình thức không điển hình khác. Từ những chuyển biến, thay đổi trong vấn đề đất đai và ruộng đất của thời Trần, nên cuối thế kỷ XIV, Nhà nước đã gặp phải nhiều khó khăn, thách thức: một là kinh tế của Nhà nước trở nên suy kiệt, hai là nông dân ngày càng nghèo dẫn tới mâu thuẫn xã hội trở nên gay gắt, vì vậy các cuộc khởi nghĩa nông dân và nô tỳ nổ ra như là hệ quả tất yếu. Những khó khăn này không dễ giải quyết trong hoàn cảnh triều đình phong kiến trung ương lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng. Để giải quyết vấn đề khủng hoảng, nhất là giải quyết sự khó khăn, đói kém của dân nghèo, triều đình phong kiến cuối thời Trần đã phải kêu gọi nhà giàu ở các địa phương đưa thóc ra phát chẩn cho dân nghèo và những nhà giàu này được Nhà nước trả b ng tiền tương đương với lượng thóc, điều này khiến lượng tiền đưa vào lưu thông trong xã hội cũng tăng cao, dẫn đến nguy cơ đồng tiền mất giá, kinh tế lạm phát. Năm 1362 “lại hạ chiếu cho các nhà giàu dâng thóc để phát chẩn cho dân nghèo, ban chức tước cho họ theo thứ tự khác nhau” [07, tr.646]. 12 Lúc này, đồng tiền có tác động rất lớn đối với kinh tế và xã hội, nó làm thay đổi số phận và địa vị của con người trong xã hội, “Đời Minh Tông, Ngô Dẫn - trại chủ xã Đại Lãi bắt được viên ngọc rết rất lớn đem đến Vân Đồn. Các chủ thuyền buồm tranh nhau mua. Một chủ thuyền muốn có được vật lạ đó, dốc hết của cải để mua. Ngô Dẫn trở nên giàu có. Minh Tông đem con gái là công chúa Nguyệt Sơn gả cho Ngô Dẫn” [07, tr. 647]. Như vậy, một nông dân đã bỗng chốc biến thành quý tộc nhờ vào sức mạnh của đồng tiền. Mặt khác, một ông vua Trần đã coi trọng đồng tiền hơn con gái mình thì người ta cũng dễ dàng hình dung ra xã hội cuối Trần và triều đình nhà Trần đã không còn giữ được nề nếp và trật tự của nó nữa. Nhà Trần vốn có luật lệ không gả con gái cho người ngoài gia tộc Trần. Vào thời điểm này, ngoại thương cũng phát triển nhưng chủ yếu là b ng đường biển. Vì người nước ngoài lúc này vào nước ta chủ yếu là mua sản vật như ngọc trai hay sản vật lạ và bán cho Nhà nước những hàng hoá xa xỉ đáp ứng nhu cầu ăn chơi, hưởng thụ xa hoa lãng phí của vua quan chứ không phải mục đích phát triển giao thương kinh tế. Nhà nước Trần đại diện cho giai cấp phong kiến quý tộc của nó lúc này đang đi vào thời kỳ suy thoái trầm trọng, không còn tạo ra động lực hay cơ may nào để phát triển xã hội. Những cuộc nổi dậy của nông dân và nô tỳ liên tiếp nổ ra càng làm cho xã hội thêm bất ổn. 1.1.2. Chính trị - xã hội Kinh tế luôn là yếu tố quyết định cho phát triển chính trị - xã hội, khi nền kinh tế khủng hoảng, khi mâu thuẫn trong kinh tế phát sinh nếu không được giải quyết thì tất yếu sẽ dẫn đến những khủng hoảng trong chính trị và xã hội. Vì sự thay đổi của nền kinh tế d tích cực hay tiêu cực bao giờ cũng kéo theo sự biến động trong xã hội của một quốc gia - điều này đã được thể hiện rõ nét trong thời nhà Trần cuối thế kỷ XIV, mà ở đây là dấu hiệu suy vong và sụp đổ của triều Trần. Mâu thuẫn xã hội sâu sắc, loạn lạc trộm cướp, khởi nghĩa b ng nổ khắp nơi, sự bất công trong xã hội ngày càng rõ rệt. Một tầng lớp quý tộc vương triều giàu có, ăn chơi sa đọa; dân chúng thì c ng cực, cơ hội cho một tầng lớp địa chủ, quan lại tham ô hối lộ, dựa cớ bóc lột nhân dân. Thời cuối Trần có tình trạng trớ trêu là Nhà nước nghèo, kho tàng ngân quỹ trống không, dân đói khổ nhưng tầng lớp phú hộ, địa chủ và các quan chức vẫn dư thừa một khối tài sản và lương thực rất lớn. Trong 13 những năm 1354, 1362, Nhà nước đứng đầu là vua xuống chiếu khuyến khích nhà giàu ở các lộ bỏ thóc ra chẩn cấp cho dân nghèo và số thóc bỏ ra của địa chủ được trả b ng tiền. Như vậy, Nhà nước nghèo nhưng có một bộ phận địa chủ quan lại giàu có. Do không có khả năng cứu nổi dân nghèo, nên Nhà nước phải dựa vào tầng lớp có nhiều lương thực là địa chủ. Đầu tiên Nhà nước còn trả họ b ng tiền sau thì trả b ng chức tước. Lúc này ở xã hội thời Trần thể hiện rõ mâu thuẫn giữa hai giai cấp - địa chủ và nông dân. Giai cấp địa chủ gồm có địa chủ quý tộc, địa chủ quan lại và địa chủ không quan tước. Bộ phận địa chủ quý tộc là lớp người có nhiều đặc quyền đặc lợi trong xã hội. Họ được sử dụng hai loại ruộng đất để khai thác làm giàu: ruộng đất thái ấp do vua ban không phải là của riêng của quý tộc tôn thất, do đó không có quyền thừa kế. Loại thứ hai là điền trang được nhà vua cho phép quý tộc tôn thất triệu tập dân phiêu tán để khai khẩn ruộng hoang và ruộng đất do mua bán. Tầng lớp địa chủ này đã dần nắm mọi cương vị chủ chốt ở triều đình, đó là các quan hàm: Thái sư, Thái phó, Thái bảo. Bộ phận địa chủ quan lại: do phải tăng cường quản lý bộ máy nhà nước mà nhà Trần mở rộng sử dụng người ngoài tôn thất giữ chức vị. Bộ phận này không được phép lập điền trang, nhưng vẫn có ruộng đất. Bộ phận địa chủ không quan tước chiếm giữ một số lượng ruộng đất lớn, mỗi địa chủ ước chừng 4 mẫu trở lên. Họ có mặt trong hàng ngũ chức sắc của làng xã, có uy thế về kinh tế - chính trị ở địa phương. Giai cấp nông dân gồm có: nông dân, nô tỳ, gia nô. Giai cấp này bị bóc lột thặng dư lao động thông qua các hình thức tô thuế, địa tô và những hình thức kinh tế khác. Hai giai cấp này có mâu thuẫn với nhau, đó là mâu thuẫn giữa một bên đi bóc lột và một bên bị bóc lột. Mâu thuẫn giữa một bên chiếm số ít lại nắm giữ hết tư liệu sản xuất và của cải của xã hội và một bên đa số người lao động không có tư liệu sản xuất bị áp bức. Theo quy luật xã hội có áp bức thì có đấu tranh, trong những năm cuối thời Trần, hàng loạt các cuộc khởi nghĩa của nông dân và nô tỳ liên tiếp nổ ra. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan