TRUYỆN NGẮN CỦA CÁC NHÀ VĂN NỮ
VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI
TỪ GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN TRỌNG HIẾU
TRUYỆN NGẮN CỦA CÁC NHÀ VĂN NỮ
VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI
TỪ GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 62 22 01 21
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
HÀ NỘI - 2017
Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Hồ Thế Hà
Phản biện 1: PGS. TS. Đỗ Lai Thúy
Phản biện 2: PGS. TS. La Khắc Hòa
Phản biện 3: PGS. TS. Nguyễn Bá Thành
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp
Học viện họp tại Học viện Khoa học xã hội
vào hồi ........giờ .........phút, ngày......... tháng....... năm
Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Học viện Khoa học xã hội
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1. Nguyễn Trọng Hiếu (2014), “Phức cảm tình yêu trong một số
truyện ngắn của các nhà văn nữ Việt Nam đương đại”, Kỷ yếu Hội
thảo khoa học Phân tâm học với văn học, Trường Đại học Khoa
học - Đại học Huế, Nxb Đại học Huế, tr.268-276.
2. Nguyễn Trọng Hiếu (2015), “Các Môtip tiêu biểu trong truyện
ngắn một số nhà văn nữ Việt Nam đương đại”, Tạp chí Lý luận,
phê bình Văn học, nghệ thuật, (30), tr.34-37.
3. Nguyễn Trọng Hiếu (2015), “Mặc cảm trong một số truyện ngắn
của các nhà văn nữ Việt Nam đương đại”, Tạp chí Nhân lực khoa
học xã hội, (3), tr.99-102.
4. Nguyễn Trọng Hiếu (2015), “Yếu tố tính dục trong truyện ngắn của
Võ Thị Xuân Hà”, Tạp chí Khoa học Đại học Tiền Giang, (2),
tr.130-138.
5. Nguyễn Trọng Hiếu (2015), “Bản năng tính dục trong tiểu thuyết
của Nguyễn Đình Tú”, Tạp chí Khoa học Đại học An Giang,
(Quyển 5 (1)), tr.101-105.
6. Nguyễn Trọng Hiếu (2015), “Nhân vật với thiên tính nữ trong
truyện ngắn của Võ Thị Xuân Hà”, Tạp chí Khoa học Đại học
Đồng Tháp, (13), tr.47-51.
7. Nguyễn Trọng Hiếu (2015), “Hiện tượng giấc mơ trong tiểu thuyết
của Nguyễn Đình Tú từ góc nhìn phân tâm học”, Tạp chí Khoa học
Đại học Đồng Tháp, (15), tr.51-55.
8. Nguyen Trong Hieu (2015), “Unconscious elements in stories by
women writers of contemporary Vietnam”, Journal of Science An
Giang University, (Special Issue, Volume 1 (1)), p.32-35.
9. Nguyễn Trọng Hiếu (2016), “Không gian và thời gian giấc mơ
trong truyện ngắn của các nhà văn nữ Việt Nam đương đại”, Kỷ
yếu Hội thảo khoa học Sinh viên và cán bộ trẻ các trường Đại học
Sư phạm toàn quốc năm 2016, Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ
Chí Minh, Nxb Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, tr.1238-1244.
10. Nguyễn Trọng Hiếu (2016), “Yếu tố vô thức trong truyện ngắn của
các nhà văn nữ Việt Nam đương đại”, Kỷ yếu Hội thảo Quốc gia
Văn học Việt Nam trong xu hướng toàn cầu hóa, Trường Đại học
Sư phạm - Đại học Đà Nẵng, Nxb Thông tin và truyền thông,
tr.114-120.
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975, đặc biệt từ sau đổi
mới năm 1986 đến nay, đã đạt được những thành tựu nhất định. Góp
phần vào sự thành công ấy phải kể đến sự đóng góp của các nhà văn
nữ. Là những cây bút nữ, nên điều mà họ quan tâm nhiều nhất trong
sáng tác của mình là thân phận những người cùng giới, những vấn đề
về tình yêu, gia đình và đặc biệt là vấn đề tính dục.
1.2. Học thuyết phân tâm học ra đời đầu thế kỷ XX như một
sự hậu thuẫn giúp thể loại truyện ngắn đi vào thế giới bên trong của
con người bản thể, khám phá những điều sâu kín nhất trong tâm hồn
con người, nơi chất chứa bao kí ức, đam mê, khát vọng.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi hướng đến việc tái hiện lại
khái niệm phân tâm học về văn học và sự vận động của học thuyết
phân tâm học theo tiến trình lịch sử trên những phương diện văn hóa,
xã hội, văn học để từ đó có những nét phác thảo cơ bản về ý nghĩa
của việc nghiên cứu phân tâm học trong văn học Việt Nam từ truyền
thống cho đến hiện đại.
Tìm hiểu dấu ấn phân tâm học trong truyện ngắn của các nhà
văn nữ Việt Nam đương đại trên bình diện thế giới nhân vật và
phương thức biểu hiện nhằm góp phần khẳng định những đóng góp
của các nhà văn nữ trong trong mạch nguồn văn xuôi đương đại, vừa
khẳng định vai trò không thể thiếu của phân tâm học trong việc giúp
văn học khám phá con người.
2
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Giới thiệu tổng quan về vấn đề dịch thuật và sự ảnh hưởng
của phân tâm học trong nghiên cứu, phê bình văn học Việt Nam.
- Khái lược quan niệm phân tâm học về văn học và sự thể
hiện của nó trong văn học Việt Nam.
- Tìm hiểu dấu ấn phân tâm học trong truyện ngắn của các
nhà văn nữ Việt Nam đương đại trên phương diện thế giới nhân vật.
- Lý giải truyện ngắn của các nhà văn nữ Việt Nam đương
đại từ góc nhìn phân tâm học trên bình diện phương thức biểu hiện.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Lực lượng sáng tác nữ hiện nay rất đông đảo với số lượng tác
phẩm lớn. Vì vậy, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu những truyện
ngắn có chứa yếu tố phân tâm học của các nhà văn nữ tiêu biểu như
Phạm Thị Hoài, Trần Thùy Mai, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ
Thị Xuân Hà, Đỗ Hoàng Diệu, Nguyễn Ngọc Tư.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận án là dấu ấn phân tâm học được
thể hiện trong sáng tác của các nhà văn nữ Việt Nam đương đại ở
phương diện nổi trội về thế giới nhân vật và phương thức biểu hiện.
Chủ yếu là phân tâm học của Sigmund Freud và Carl Gustav Jung. Vì
hệ thống lý thuyết này thể hiện dấu ấn rõ nét trong truyện ngắn của
các nhà văn nữ Việt Nam đương đại.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của
luận án
Ngoài những phương pháp luận chung của nghiên cứu khoa
học xã hội là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử, để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng kết hợp nhiều phương
3
pháp chuyên biệt. Tựu trung lại có thể kể đến các phương pháp chủ
yếu sau:
4.1. Phương pháp phê bình phân tâm học: đây được xem là
phương pháp chính. Nhằm quy chiếu những nội dung của lý thuyết
phân tâm học vào thực tiễn sáng tạo và nghiên cứu văn học.
4.2. Phương pháp lịch sử: nhằm nhìn nhận lại quá trình biểu
hiện, tiếp biến phân tâm học trong tiến trình văn học
4.3. Phương pháp phân tích, tổng hợp: phân tích dữ liệu, văn
bản, chi tiết của văn bản để khái quát hóa thành những kết luận đáng
tin cậy, đồng thời tường minh cho các luận điểm.
4.4. Phương pháp tiếp cận thi pháp học: nhằm làm sáng tỏ
những đặc điểm, dấu hiệu phân tâm học cả về nội dung lẫn phương
thức biểu hiện trong sáng tác của các nhà văn nữ đương đại.
4.5. Phương pháp so sánh: chỉ ra điểm tương đồng và khác
biệt của biểu hiện phân tâm học trong truyện ngắn các nhà văn nữ
đương đại.
4.6. Phương pháp liên ngành: sử dụng một số kiến thức xã
hội học, văn hóa học… để phân tích tác phẩm một cách toàn diện và
sâu sắc hơn.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án trình bày một cách hệ thống, khoa học về truyện
ngắn của các nhà văn nữ Việt Nam đương đại ở một góc nhìn mới góc nhìn phân tâm học. Trong đó, những vấn đề phân tâm học về văn
học và sự thể hiện của nó trong văn học Việt Nam đã được trình hiện
đủ để nhận thức và ứng dụng. Về phương diện thế giới nhân vật, luận
án đi sâu làm nổi bật các kiểu nhân vật qua lăng kính của phân tâm
học như nhân vật với đời sống vô thức, các phức cảm; nhân vật với
đời sống tình yêu, tính dục; nhân vật với tâm lý đa phân qua môtíp và
4
biểu tượng. Về bình diện phương thức biểu hiện, luận án kiến giải
các vấn đề về ngôn ngữ, giọng điệu nghệ thuật; không gian và thời
gian nghệ thuật; kết cấu nghệ thuật mang dấu ấn phân tâm học nhằm
làm rõ giá trị nghệ thuật và tư tưởng của tác phẩm. Từ đó, luận án có
cái nhìn mới mẻ về diện mạo truyện ngắn của các nhà văn nữ Việt
Nam đương đại dưới cái nhìn tham chiếu phân tâm học. Đồng thời,
luận án sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho giới nghiên cứu, giảng
dạy và học tập văn học Việt Nam hiện đại.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Ý nghĩa lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận án giúp chúng
ta có thể hiểu hơn về những ảnh hưởng của phân tâm học trong sáng
tạo nghệ thuật và phê bình, nghiên cứu văn học Việt Nam; Có cái
nhìn khái quát quan niệm phân tâm học về văn học từ lý thuyết đến
thực tiễn sáng tạo và tiếp nhận, phê bình văn học.
- Ý nghĩa thực tiễn: Có thể vận dụng lý thuyết phân tâm học
vào phân tích truyện ngắn của các nhà văn nữ Việt Nam đương đại
nói riêng và những tác giả trong trong tiến trình văn học nói chung
nhằm thấy được thế giới vô thức sâu thẳm của con người.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo,
Nội dung chính của luận án được triển khai thành 4 chương:
Chương 1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Chương 2. Quan niệm của phân tâm học về văn học và sự thể
hiện nó trong văn học Việt Nam
Chương 3. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của các nhà
văn nữ Việt Nam đương đại từ góc nhìn phân tâm học
Chương 4. Phương thức biểu hiện trong truyện ngắn của các
nhà văn nữ Việt Nam đương đại từ góc nhìn phân tâm học
5
Chƣơng 1. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Bức tranh tiếp nhận lý thuyết phân tâm học ở Việt
Nam
1.1.1. Dịch thuật các tác phẩm nước ngoài
Giai đoạn từ năm 1930 - 1945, trong quá trình tiếp biến văn
hóa Đông - Tây, với chủ trương tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa
nhân loại, trong đó có ảnh hưởng của phân tâm học đến văn học. Các
công trình được dịch thuật như: Đề tài loạn luân trong thi ca và kể
chuyện (1922) của Baudouin; Lautreamont (1938), Phân tâm học về
lửa (1938), Nước và những giấc mơ (1941)… của Bachelard; Giai
đoạn từ năm 1945 - 1975, do hoàn cảnh của đất nước nên phân tâm
học ở miền Bắc chưa được đề cao. Ở miền Nam, với chủ trương mở
cửa du nhập văn hóa nước ngoài đã tạo điều kiện cho những trường
phái triết học, mỹ học, lý luận phê bình phương Tây được du nhập
vào. Hoạt động dịch thuật về phân tâm học đã diễn ra tương đối hệ
thống và khá toàn diện. Các công trình của Freud được dịch như:
Phân tâm học (1969), Phân tâm học nhập môn (1970),... Cùng với
nhiều công trình của các nhà phân tâm khác cũng được chọn dịch
như: Thăm dò tiềm thức của C.G.Jung (1967); Phân tâm học và tôn
giáo của E.Fromm (1968); Thế giới tính dục của Henry Miller
(1969),… Nhìn chung, sự xuất hiện các công trình dịch thuật về phân
tâm học giai đoạn trước năm 1975 ở miền Nam, có thể xem là một
thành tựu của các dịch giả trong quá trình tiếp cận và phổ biến văn
hóa.
Từ sau năm 1986, đất nước đổi mới đã tạo điều kiện cho sự
phát triển của văn học - nghệ thuật. Bởi thế, lý thuyết về phân tâm
học được tái bản và dịch mới nhiều hơn lúc nào hết. Có thể điểm qua
6
một số công trình giai đoạn này như: Vật tổ và cấm kị (1999) của
Freud do Lương Văn Kế dịch; Freud đã thực sự nói gì? (1998) của
David Stafford Clack do Lê Văn Luyện và Huyền Giang dịch; Phân
tâm học và văn hóa nghệ thuật, Phân tâm học và văn hóa tâm linh
(2002) của Đỗ Lai Thúy biên soạn… Đây là các công trình được dịch
thuật khi đến với bạn đọc Việt Nam đã trở thành chiếc chìa khóa để
mở cánh cửa phân tâm học đầy bí ẩn. Đó là chiếc cầu nối vững chắc
nhất dẫn dắt học thuyết phân tâm tiến sâu hơn vào bến bờ Việt Nam.
1.1.2. Vận dụng lý thuyết phân tâm học trong nghiên cứu,
phê bình văn học Việt Nam
Trước năm 1975, các công trình nghiên cứu về phân tâm học
trong văn học chưa có sự tương xứng: ít và ý kiến còn trái ngược
nhau. Các công trình như: Cái ám ảnh của Hồ Xuân Hương (1936)
của Trương Tửu; Văn chương Truyện Kiều (1942) của Nguyễn Bách
Khoa; Người Cổ Nguyệt, chuyện Xuân Hương (1962) của Nguyễn
Đức Bính… Sau năm 1986, phân tâm học đã được nhìn nhận lại một
cách khách quan, đúng đắn hơn. Vì vậy, công việc nghiên cứu phân
tâm học về văn học giai đoạn này cũng diễn ra rất hồ hởi. Các công
trình như: Về tư tưởng và văn hóa phương Tây hiện đại (1986) của
Phạm Văn Sĩ; Phê bình văn học chòng chành mà tiến tới (2000) của
Đỗ Lai Thúy; Văn học hiện đại - văn học Việt Nam: Giao lưu và gặp
gỡ (1994) của Trần Thị Mai Nhi; Mười trường phái lý luận phê bình
văn học phương Tây đương đại (1999) của Phương Lựu; Hồ Xuân
Hương - hoài niệm phồn thực của Đỗ Lai Thúy;… Từ năm 2000 trở
đi, ở Việt Nam, bên cạnh những thành tựu rực rỡ của công việc dịch
thuật phân tâm học thì tình hình nghiên cứu học thuyết phân tâm học
cũng đã có bước phát triển với hàng loạt công trình ứng dụng nó
trong văn học Việt Nam được liên tiếp ra đời như: S.Freud và Phân
7
tâm học (2004) của Phạm Minh Lăng; Học thuyết S.Freud và sự thể
hiện của nó trong văn học Việt Nam (2008) của Trần Thanh Hà; Lý
luận phê bình văn học ở đô thị miền Nam 1954 - 1975 (2009) của
Trần Hoài Anh; Bút pháp của ham muốn (2009) của Đỗ Lai Thúy;…
Các công trình nghiên cứu phân tâm học ở Việt Nam ra đời ngày
càng nhiều, tạo nên một hệ thống phê bình phân tâm học trong văn
học Việt Nam.
1.2. Nghiên cứu truyện ngắn của các nhà văn nữ Việt
Nam đƣơng đại từ phƣơng pháp phân tâm học
1.2.1. Nhìn chung về truyện ngắn của các nhà văn nữ Việt
Nam đương đại
Trong lời giới thiệu của Tuyển văn các tác giả nữ Việt Nam,
chỉ riêng các cây bút nữ cuối thế kỷ XX đã được đánh giá và nhìn
nhận lại; Trên Tạp chí Văn học số 6/1996 đăng tải các ý kiến tại buổi
tọa đàm Phụ nữ và sáng tác văn chương, trong đó, có nhiều nhận
định tập trung lý giải sự xuất hiện đông đảo các cây bút truyện ngắn
nữ sau năm 1975 cũng như cách đổi mới về hướng tiếp cận đời sống
và phương thức thể hiện trong sáng tác của họ; Bích Thu trong Văn
xuôi phái đẹp đánh giá rất cao sáng tác của các nhà văn nữ Việt Nam
đương đại, tác giả cho rằng: đó là “một lớp trẻ dồi dào bút lực”; Bùi
Việt Thắng trong bài viết Tản mạn về truyện ngắn của những cây bút
nữ trẻ, đã đưa ra những đặc điểm chung của các cây bút nữ đương
đại; Năm 2012, tọa đàm khoa học Văn xuôi nữ trong bối cảnh văn
học Việt Nam đương đại được tổ chức tại Viện Văn học. Tập trung
vào một số vấn đề lý thuyết và thực tiễn sáng tác văn học nữ đương
đại;… Từ những góc độ lý giải khác nhau, các bài viết khẳng định sự
tiếp nối về đội ngũ cũng như những đặc điểm của giới tính bộc lộ qua
cách nhìn hiện thực và con người.
8
1.2.2. Hướng nghiên cứu phân tâm học trong truyện ngắn
của các nhà văn nữ Việt Nam đương đại
Có thể điểm qua một số bài nghiên cứu có mang hơi hướng
của phân tâm học trong truyện ngắn các nhà văn nữ Việt Nam đương
đại như sau: bài viết Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong
văn học Việt Nam đương đại của Nguyễn Đăng Điệp. Tác giả đã đưa
ra bức tranh tương đối hoàn chỉnh và có tính chất gợi mở cho những
nhà nghiên cứu về âm hưởng phái tính và nữ quyền trong sáng tác
của các nhà văn nữ thời gian gần đây; Tác giả Hồ Thế Hà trong bài
viết Hướng tiếp cận phân tâm học trong truyện ngắn Việt Nam sau
năm 1975 và Tình yêu trong truyện ngắn hiện đại Việt Nam nhìn từ
các phức cảm đã sử dụng các yếu tố phức cảm, loạn luân, giấc mơ,
sự thác loạn, những ẩn ức tình dục, yếu tố vô thức, bản năng… trong
truyện ngắn của một số nhà văn nữ giúp cho độc giả thấy được nội
tâm phức tạp của các nhân vật, sự đấu tranh quyết liệt giữa ý thức và
vô thức; Ngoài ra, còn có một số bài viết nghiên cứu từng tác giả cụ
thể như: Truyện ngắn Trần Thùy Mai - hành trình đi tìm hạnh phúc
ảo ảnh của Lê Thị Hường; Phạm Thị Hoài: trên sinh lộ mới của văn
học của Thụy Khuê, Quả lắc Võ Thị Xuân Hà của Ngô Hương Giang;
Hiện tượng “Bóng đè” của Phạm Xuân Nguyên; Cánh đồng bất tận từ góc nhìn phân tâm học của Hoàng Đăng Khoa;…
Những đánh giá bước đầu của những người đi trước sẽ là
những gợi mở quý báu cho chúng tôi trong quá trình nghiên cứu và
thực hiện đề tài. Và trước sự đa dạng của các ý kiến cũng như nguồn
tư liệu, chúng tôi buộc phải khách quan để “gạn đục khơi trong”, tìm
ra những tư liệu, những bài viết có giá trị nhằm phục vụ tốt cho mục
tiêu luận án đặt ra.
9
Chƣơng 2. QUAN NIỆM CỦA PHÂN TÂM HỌC
VỀ VĂN HỌC VÀ SỰ THỂ HIỆN NÓ
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM
2.1. Quan niệm phân tâm học về đối tƣợng phản ánh
2.1.1. Quan niệm của Sigmund Freud
Phân tâm học được khởi thảo bởi Sigmund Freud, một bác sĩ
người Áo. Trong những khám phá của phân tâm học về tinh thần hệ
của con người, đáng chú ý là sự xuất hiện về cái vô thức
(L’inconscience) và bản năng tính dục (Instint sexuel). Qua nghiên
cứu, Freud cho rằng, nguồn gốc của bệnh là do ham muốn bị bỏ quên
liên quan đến “mặc cảm Oedipe”.
Theo quan niệm của Freud thì vô thức tính dục chính là đối
tượng phản ánh trong các tác phẩm văn học. Tuy nhiên, cũng cần
phải thấy rõ rằng, Freud đã khuếch đại khả năng của những cảm xúc
loạn luân thú tính trong vô thức con người để giải thích chủ đề trong
tác phẩm. Điều đó đã dẫn đến những lệch lạc trong quan niệm của
phân tâm học về tác giả và quá trình sáng tạo tác phẩm.
2.1.2. Quan niệm của Carl Gustav Jung
Trong những phát hiện của Jung thì vô thức tập thể được
xem là phát hiện lớn nhất. Jung cho rằng, văn học liên quan đến vô
thức tập thể, theo đó, vô thức tập thể chính là đối tượng phản ánh chủ
yếu trong các tác phẩm văn học. Yếu tố cơ bản của những nội dung
này ông gọi là “cổ mẫu” (archétype). Theo ông có năm loại cổ mẫu
quan trọng nhất và lưu truyền rộng rãi là: Persona; Anima; Animus;
Shadou; Self.
Nếu như đối tượng phản ánh trong tác phẩm văn học theo
quan niệm của Freud chỉ là vô thức cá thể và bản năng tính dục thì
10
với Jung, đối tượng phản ánh đó chính là vô thức tập thể được tồn tại
dưới dạng “cổ mẫu”.
2.2. Quan niệm phân tâm học về tác giả và quá trình sáng
tạo
2.2.1. Quan niệm của Sigmund Freud
Quá trình sáng tạo tác phẩm văn học theo quan niệm của
Freud có thể được hiểu bằng quá trình từ: Ẩn ức tính dục, dồn nén
Thăng hoa Tác phẩm văn học. Tuy nhiên, con đường ấy không
diễn ra đơn giản mà vô cùng phức tạp và biến hóa.
Việc Freud cho rằng sáng tác chính là sự thăng hoa những ẩn
ức tính dục và nghiên cứu văn học nghệ thuật, do đó chỉ có nhiệm vụ
phát hiện cho được cái “mặc cảm tính dục”. Vì thế quan niệm này có
nhiều tác dụng xấu đến khuynh hướng sáng tác và nghiên cứu đã cực
đoan hóa mặt trái của chủ nghĩa Freud. Do đó, đã dẫn đến hiện tượng
khai thác phiến diện, thêu dệt thêm…
2.2.2. Quan niệm của Carl Gustav Jung
Những nghiên cứu của Jung về tác giả và quá trình sáng tạo
tác phẩm văn học được nổi lên, đó là luận đề về “mặc cảm tự trị”, nó
như là những xung năng thúc bách người nghệ sĩ sáng tạo. Đồng thời,
quan niệm của Jung còn được thể hiện trong cách nhìn nhận của ông
về hình tượng nghệ thuật như là một siêu mẫu trong các phẩm tính
chủ yếu của nó.
Như vậy, nếu như quá trình sáng tạo tác phẩm văn học theo
Freud là sự thỏa mãn những ham muốn bản năng và gắn liền với giấc
mơ thức tỉnh, vì thế nó mơ hồ và khó nắm bắt, khó theo dõi được, thì
đối với quan niệm của Jung, đó là quá trình người ta có thể theo dõi
được và giúp đỡ được cho sự hình thành của tác phẩm.
11
2.3. Sự thể hiện của phân tâm học trong văn học Việt
Nam
2.3.1. Yếu tố phân tâm học trong sáng tác văn học Việt
Nam
Giai đoạn trước cách mạng tháng Tám năm 1945, nhóm Tự
lực văn đoàn ra đời (1933) với tuyên bố đi vào chủ nghĩa hiện đại
châu Âu. Qua hệ thống nhân vật, họ đã đề cao sự tự ý thức về mình,
đấu tranh cho giá trị cá nhân, cổ vũ cho tự do yêu đương, đồng thời
lớn tiếng đấu tranh đòi hưởng thụ những nhu cầu tự nhiên của con
người…; Thơ mới cũng từng bước khẳng định giá trị của mình trong
nền văn học coi trọng thơ ca. Ở đó, chủ nghĩa Freud không thực sự
thể hiện một cách rõ ràng, nhưng nó ẩn chứa bên trong chủ nghĩa siêu
thực, chủ nghĩa tượng trưng và bản chất phi duy lý của thơ ca; Bên
cạnh đó là dòng văn học hiện thực phê phán cũng có nhiều thành tựu.
Vũ Trọng Phụng đã thể hiện sự vận dụng học thuyết phân tâm học
một cách tinh tế...; Riêng ở miền Nam, giai đoạn từ năm 1954 - 1975,
phân tâm học được giới thiệu và nghiên cứu rộng rãi trên các sách
báo. Nhiều nhà văn đã hướng tới khám phá đời sống tính dục như là
sự biểu hiện tư tưởng phi luân của con người nổi loạn. Tiêu biểu cho
dòng văn học tính dục ở miền Nam là các tác giả: Nguyễn Thị
Hoàng, Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Thụy Vũ…; Sau năm 1975,
phân tâm học được chú ý, vận dụng nhiều trong sáng tác và phê bình
văn học. Có thể kể đến các nhà văn như: Nguyễn Huy Thiệp, Chu
Lai, Phạm Thị Hoài, Y Ban, Hồ Anh Thái,...
Tất cả những thành tựu đó, phải kể đến các yếu tố phân tâm
học, đã tạo nên một diện mạo mới trong nội dung và hình thức nghệ
thuật của văn học hiện đại Việt Nam. Nó giúp cho văn học đi sâu vào
12
khám phá những bí ẩn trong tâm hồn con người mà bình thường họ
không mấy khi thừa nhận.
2.3.2. Tính khả quan của nghiên cứu phân tâm học trong
văn học Việt Nam
Trong giai đoạn hiện nay, các nhà nghiên cứu, các nhà văn
đã công khai thừa nhận phân tâm học như là một khoa học, một lĩnh
vực thuộc về đời sống nhận thức của con người trong xã hội. Chính
điều đó đã tạo nên tính khả quan lớn cho phân tâm học trong nghiên
cứu và sáng tạo văn học ở Việt Nam hiện nay.
Việc thực hiện chính sách văn hóa đa dạng đã tạo nên những
điều kiện thuận lợi cho việc tiếp thu những luồng tư tưởng hiện đại từ
bên ngoài đó; Mặt khác, bên cạnh sự thay đổi lớn về quan điểm và tư
tưởng, việc tiếp thu những luồng tư tưởng hiện đại chính là sự phát
triển của mạng lưới khoa học công nghệ thông tin một cách mạnh mẽ
trên toàn cầu; Sự phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường ở nước
ta hiện nay là điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu, gặp gỡ và tiếp thu
những luồng tư tưởng mới mẻ, hiện đại từ nhiều nước trên thế giới;
Trong tình hình lý luận văn học hiện nay ở nước ta, tính khoa học có
xu hướng đang được nâng cao. Đây là một xu hướng quan trọng vì
tính khoa học là một trong những cơ sở quan trọng để công việc phê
bình văn học mang tính khách quan hơn.
Vì vậy, với sự phát triển như hiện nay của đời sống xã hội và
tinh thần con người kết hợp với sự thay đổi khách quan và chủ quan
trên sẽ tạo nên tính khả quan rất lớn đối với việc ứng dụng phân tâm
học trong nghiên cứu và sáng tạo văn học ở Việt Nam trong thời gian
sắp tới.
13
Chƣơng 3. THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN
CỦA CÁC NHÀ VĂN NỮ VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI
TỪ GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC
3.1. Nhân vật với đời sống vô thức và các phức cảm
3.1.1. Nhân vật sống trong vô thức, giấc mơ
3.1.1.1. Vô thức
Yếu tố “vô thức”, có thể thấy qua sáng tác của các cây bút
văn xuôi đương đại Việt Nam khi họ hướng vào cõi riêng tư, tâm linh
vô thức để phơi bày nỗi sâu kín trong tâm hồn của con người tạo nên
giá trị nhân văn cho tác phẩm. Những cuộc đấu tranh quyết liệt giữa
ý thức và vô thức, ở đó, có những lúc vô thức bành trướng, ép ý thức
vào tận cùng ngõ ngách thì bản năng cốt lõi là bản năng dục vọng sẽ
trỗi dậy. Dường như vô thức chiến thắng ý thức trong thoáng chốc,
trong khi để ý thức chiến thắng, đó là cả một chặng đường dài đầy
gian nan, phức tạp. Để có thể vượt qua sức mạnh của vô thức, các
nhân vật đã thật sự sống vì mọi người, họ luôn sống trong sự khắc
khoải, kiếm tìm một cái gì đó, mà đôi khi bản thể người không thể
nắm bắt và chế ngự nổi. Cho nên nhiều lúc, nhân vật rơi vào những
tình thế bất ngờ, không được báo trước, không kiểm soát nổi.
3.1.1.2. Giấc mơ
Nhà văn sử dụng khái niệm “giấc mơ” với ý nghĩa để giải tỏa
những ẩn ức, những ước vọng thầm kín trong tâm hồn nhân vật. Điều
đó, cũng lý giải tại sao có nhiều tác phẩm nói về giấc mơ, lấy giấc
mơ làm chất liệu, từ đó thể hiện nhiều vấn đề sinh động có tính nghệ
thuật cao. Đó cũng là một trong những phương thức để các nhà văn
nữ Việt Nam đương đại thể hiện cái nhìn đa diện, đa chiều về con
người.
14
3.1.2. Nhân vật sống trong ám ảnh mặc cảm
3.1.2.1. Mặc cảm tính dục ấu thơ (Complexe de sexualité
infantile)
Theo học thuyết Freud, động cơ tính dục ở dạng nguyên thủy
vẫn đeo đuổi mãi suốt cuộc đời đứa trẻ, nó quy định những phản ứng,
cách cư xử của đứa trẻ đối với thành viên trong gia đình và những
người ngoài ở nhiều dạng thức khác nhau. Hình ảnh những đứa trẻ
bắt đầu lớn lên đã sớm nhận ra những ham muốn giới tính trong bản
thân chúng xuất hiện trong một số truyện của các tác giả nữ. Bản
năng tính dục của con người hình thành rất sớm, có cơ hội nó sẽ trỗi
dậy bắt con người chiều theo ý mình. Có nhiều lúc, do hoàn cảnh,
bản năng ấy được che giấu trong sự hổ thẹn và sự sợ hãi.
3.1.2.2. Mặc cảm Oedipe (Complexe d’ Oedipe)
Khái niệm “mặc cảm Oedipe” có liên quan mật thiết với khái
niệm “tính dục ấu thơ”. Phân tâm học giải thích “mặc cảm Oedipe” là
một cảm tính đau khổ, day dứt, lo sợ phạm tội giết cha và yêu mẹ.
Trong truyện ngắn của các nhà văn nữ Việt Nam đương đại có mang
hơi hướng của mặc cảm Oedipe, mặc cảm Electra và biến thể của nó.
3.1.2.3. Mặc cảm khiếm khuyết, tàn phế (Complexe de
castration)
Mặc cảm khiếm khuyết, tàn phế hay còn gọi là mặc cảm
hoạn trong phân tâm học của Freud chưa thật sự rõ ràng. Việc con
người cắt bỏ bộ phận sinh dục chỉ bởi họ xem đó là những bộ phận
tội lỗi, xấu xa. Khái niệm mặc cảm hoạn được mở rộng đến trạng thái
tình cảm, cảm xúc có khả năng gây tổn thương cho tâm hồn và thể
xác mỗi con người. Truyện ngắn của các nhà văn nữ là thế giới
những mặc cảm về con người, như: mặc cảm phải chờ đợi, mặc cảm
không được bình yên, mặc cảm cô đơn, mặc cảm của người sống trôi
15
nổi trên sông nước, mặc cảm tự ti... Tất cả những mặc cảm đó, trong
cách thể hiện của các nhà văn nữ là nguyên nhân chính tạo ra bi kịch
cho con người.
3.2. Nhân vật với đời sống tình yêu và tính dục
3.2.1. Nhân vật với khao khát tình yêu
Thế giới tình yêu trong truyện ngắn các nhà văn nữ rất đa
dạng, phong phú, với nhiều cung bậc, nhiều cảm xúc nhưng nổi bật
nhất là thứ tình yêu đầy đam mê và liều lĩnh. Dấu ấn phân tâm học
còn được thể hiện ở chỗ, các nhà văn đã xây dựng nhân vật ở chiều
sâu tâm lý, nhằm thể hiện mối quan hệ tình yêu trong thời đại mới để
trình bày và khám phá trạng thái tình cảm của mỗi người một cách
chân thật và kì diệu nhất.
Các nhà văn nữ Việt Nam đương đại viết về đề tài tình yêu
với tất cả niềm ưu tư, khao khát muôn đời. Từ thế giới tình yêu tầm
thường, nhạt nhẽo, mệt mỏi đến tình yêu mãnh liệt, say đắm, táo bạo
đầy bi kịch đến những “khúc tình buồn” nhẹ nhàng sâu lắng… tất cả
như là cái gì đó vừa sờ mó được, vừa xa xôi hư ảo, chấp chới như
chiếc cầu vồng cuối chân trời. Nó gợi cho người đọc niềm khao khát
thật sự trong tình yêu và cuộc sống hạnh phúc gia đình.
3.2.2. Nhân vật với ẩn ức tính dục
Vấn đề tính dục (libido) là một trong những vấn đề trung tâm
của chủ nghĩa Freud. Các nhà văn nữ đương đại viết về vấn đề tính
dục với nhiều cách thức khác nhau, khai thác nó một cách cặn kẽ
mạnh bạo hơn bao giờ hết. Họ công khai mổ xẻ vấn đề tế nhị này một
cách thẳng thừng. Qua đó, các nhà văn nữ đã có cái nhìn mới mẻ
trong vấn đề tính dục với ý thức về sự giải thoát con người khỏi
những trói buộc và ẩn ức bị kiềm tỏa, những định kiến đã nhốt kín,
giam hãm, cầm tù con người suốt một khoảng thời gian rất dài.
16
Họ đã nói đến tính dục muốn khẳng định giá trị của tính dục
trong nhận thức, trong khát vọng bản năng của nhân vật. Đồng thời,
thông qua bản năng tính dục, các nhà văn nữ Việt Nam đương đại đã
lên tiếng đòi giải phóng giới mình thoát khỏi những quan niệm cổ hủ,
lạc hậu và gửi gắm những tâm sự của mình, những tư tưởng của mình
về cuộc sống, con người, xã hội.
3.3. Nhân vật với tâm lý đa phân qua môtíp và biểu tƣợng
3.3.1. Các môtíp
Xuất phát từ cuộc sống và gặp gỡ ở những vấn đề nóng bỏng
của xã hội nên truyện ngắn của các nhà văn nữ Việt Nam đương đại
có những môtíp quen thuộc như: con người cô đơn, ngoại tình, những
đứa trẻ tự lớn lên, nhân vật không có tên… Và tuy đồng điệu trong
cùng một môtíp cốt truyện nhưng với sự tìm tòi ở những khía cạnh
khác nhau và đặc trưng phong cách của nhà văn nên mỗi tác phẩm
đều có một khám phá mới mẻ.
3.3.2. Các biểu tượng
Theo Freud, biểu tượng là sự thể hiện dưới hình thức hình
ảnh của một ngôn ngữ giấu giếm, ngôn ngữ của những thèm muốn
trong chúng ta. Dù lãng mạn hay tầm thường, hình ảnh biểu tượng
vẫn chứa bên trong một hiện thực cuộc sống. Freud đã đưa ra một ví
dụ: một phụ nữ thường xuyên đánh rơi chìa khóa. Điều đó có nghĩa là
bà ta trong vô thức mong muốn ngoại tình và xâu chìa khóa vừa là
biểu tượng cho sự ràng buộc gia đình vừa là biểu tượng cho sự tò mò
mà bà ta không có được. Hướng giải mã cho những biểu tượng xuất
hiện trong truyện ngắn của các nhà văn nữ có thể vẫn mang tính chủ
quan của người viết và chưa thỏa đáng. Tuy nhiên, chúng tôi xem
đây là những gợi mở cho việc tiếp cận tính cách, tâm lý của nhân vật.
17
Chƣơng 4. PHƢƠNG THỨC BIỂU HIỆN
TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA CÁC NHÀ VĂN NỮ
VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI TỪ GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC
4.1. Ngôn ngữ và giọng điệu nghệ thuật
4.1.1. Ngôn ngữ
4.1.1.1. Ngôn ngữ đối thoại
Lời văn đối thoại của nhiều nhân vật trong truyện ngắn nữ
thể hiện sự dịu dàng, nữ tính. Đôi lúc, lời văn đối thoại lại có tính
chất giống như một lời độc thoại nội tâm của nhân vật. Bởi, những
lời đối thoại đó của nhân vật vừa hướng đến người đối thoại nhưng
cũng vừa hướng đến chính mình và những lời đối thoại đó chủ yếu là
để giãi bày, thổ lộ những nỗi niềm sâu kín của nhân vật.
4.1.1.2. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm
Sử dụng ngôn ngữ độc thoại trong sáng tác, chính là phương
thức để các tác giả ca ngợi vẻ đẹp đầy chất phồn thực của các nhân
vật nữ, với vẻ đẹp tự nhiên, đầy cám dỗ. Nó có sức gợi tình, sức thôi
miên mãnh liệt. Thân thể - tính dục vừa là đối tượng phản ánh, vừa là
cách thức tìm kiếm và biểu đạt đặc trưng tính nữ. Nhân vật trong
sáng tác của các nhà văn nữ phần lớn mang những nỗi bất hạnh, nỗi
đau của kiếp đàn bà, vì thế, họ thường sống thiên về nội tâm. Qua
những dòng nội tâm ấy, người đọc nhận diện rõ hơn về những niềm
vui, nỗi buồn của họ.
4.1.2. Giọng điệu
4.1.2.1. Giọng trữ tình, thương cảm
Việc lựa chọn điểm nhìn nội quan là một lựa chọn ưu việt
của các nhà văn nữ khi để nhân vật tự đánh giá mình, tự nhận ra mọi
hành vi của mình trong vô thức lẫn hữu thức, là cách nhà văn để cho
- Xem thêm -