Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thể loại khác Chưa phân loại Truyện kể dân gian của người dao quảng ninh...

Tài liệu Truyện kể dân gian của người dao quảng ninh

.PDF
159
166
141

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN THỊ DIỆU LINH TRUYỆN KỂ DÂN GIAN CỦA NGƯỜI DAO QUẢNG NINH LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM THÁI NGUYÊN - 2017 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN THỊ DIỆU LINH TRUYỆN KỂ DÂN GIAN CỦA NGƯỜI DAO QUẢNG NINH Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã ngành: 60.22.01.21 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: TS. BÙI THỊ THIÊN THAI THÁI NGUYÊN - 2017 i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác. Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017 Tác giả luận văn Nguyễn Thị Diệu Linh ii LỜI CẢM ƠN Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Bùi Thị Thiên Thai đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện tốt nhất trong suốt quá trình tôi tiến hành nghiên cứu và hoàn thành luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn Thạc sĩ Hoàng Quốc Thái - Phó chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Quảng Ninh, các trưởng bản, thầy cúng và những người cung cấp thông tin ở các xã Tân Dân, Bằng Cả (Hoành Bồ) tỉnh Quảng Ninh đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình sưu tầm tài liệu và cung cấp những thông tin quan trọng. Tôi xin tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô và cán bộ Khoa Văn học Việt Nam, trường Đại học Khoa học - Đại học Thái Nguyên đã tận tình dạy dỗ, chỉ bảo và truyền cho tôi niềm đam mê nghiên cứu khoa học. Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã nhiệt tình động viên cho tôi thêm động lực hoàn thành tốt quá trình học tập và nghiên cứu khoa học. Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017 Tác giả luận văn Nguyễn Thị Diệu Linh iii MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i LỜI CẢM ƠN ..................................................................................................... ii MỤC LỤC ......................................................................................................... iii MỞ ĐẦU............................................................................................................ 1 1. Lý do lựa chọn đề tài ..................................................................................... 1 2. Lịch sử nghiên cứu ........................................................................................ 1 3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ................................................................ 4 4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ......................................................... 4 5. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 5 6. Cấu trúc của luận văn .................................................................................... 6 7. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 6 ̉ ̉ ̀ Chương 1: TÔNG QUAN VỀ NGƯƠI DAO VÀ TRUYỆN KÊ DÂN ̉ ̉ ̀ GIAN CỦ A NGƯƠI DAO Ơ QUANG NINH .................................................... 7 1.1. Người Dao ở Việt Nam và người Dao ở Quảng Ninh ............................... 7 1.1.1. Người Dao ở Việt Nam ........................................................................... 7 1.1.2. Người Dao ở Quảng Ninh ..................................................................... 10 1.2. Truyện kể dân gian của người Dao và truyện kể dân gian của người Dao ở Quảng Ninh ................................................................................ 13 1.2.1. Truyện kể dân gian của người Dao ....................................................... 13 1.2.2. Diện mạo và phân loại của truyện kể dân gian người Dao ở Quảng Ninh.... 15 Tiểu kết chương 1............................................................................................ 17 ̉ Chương 2: NỘI DUNG CỦ A TRUYỆN KÊ DÂN GIAN NGƯỜI DAO Ở QUẢNG NINH ................................................................................................ 18 2.1. Nhóm truyện kể về nguồn gốc dân tộc .................................................... 18 2.2. Nhóm truyện kể các hiện tượng tự nhiên, nguồn gốc các sự vật ............. 28 2.3. Nhóm truyện kể về nguồn gốc các phong tục tập quán sinh hoạt nghệ thuật của người Dao ....................................................................... 32 iv 2.4. Nhóm truyện kể thể hiện ước mơ của người Dao về xã hội công bằng, trừng trị kẻ xấu .............................................................................. 34 ̉ Chương 3: NGHỆ THUẬT CỦ A TRUYỆN KÊ DÂN GIAN NGƯỜI DAO Ở QUẢNG NINH............................................................................................. 39 3.1. Đặc điểm nhân vật trong truyện kể dân gian người Dao ở Quảng Ninh ......... 39 3.1.1 Nhân vật thần kỳ, ma quỷ ...................................................................... 39 3.1.2. Nhân vật là người bình thường ............................................................. 42 3.1.3. Nhân vật là động vật ............................................................................. 48 3.2. Kết cấu và motif trong truyện kể dân gian người Dao ở Quảng Ninh ..... 52 3.2.1. Kết cấu trong truyện kể dân gian người Dao ở Quảng Ninh ................ 52 3.2.2. Motif trong truyện kể dân gian người Dao ở Quảng Ninh ................... 55 ̉ ́ Chương 4: MÔI QUAN HỆ GIỮ A TRUYỆN KÊ DÂN GIAN VÀ ̉ ̉ ́ ̀ PHONG TỤC TẬP QUAN CỦ A NGƯƠI DAO Ơ QUANG NINH ................. 80 4.1. Mối quan hệ giữa các nhóm truyện kể về nguồn gốc tổ tiên, các vị thần với đời sống tín ngưỡng của người Dao ....................................... 80 4.2. Mối quan hệ giữa nhóm truyện kể về nguồn gốc các phong tục tập quán sinh hoạt - nghệ thuật với đời sống sinh hoạt - nghệ thuật của người Dao .............................................................................................. 86 4.3. Sự biến đổi của một số phong tục tập quán của người Dao ở Quảng Ninh hiện nay ........................................................................................ 93 Tiểu kết chương 4............................................................................................ 97 KẾT LUẬN...................................................................................................... 98 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 100 PHỤ LỤC ............................................................................................................ v DANH SÁCH CÁC PHỤ LỤC Phụ lục I: Tập hợp truyện kể dân tộc dao ...................................................................1 Phụ lục II: Truyện kể dân tộc dao sắp xếp theo nhóm truyện ...................................41 Phụ lục III: Tên các nghệ nhân kể truyện dao...........................................................42 Phụ lục IV: Bảng thống kê các loại hình nhân vật ....................................................44 Phụ lục V: Bảng thống kê các nhân vật là động vật .................................................47 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Trong tổng số 54 dân tộc ở Việt Nam, người Dao là một trong 3 dân tộc (Hmông, Dao và Pà Thẻn) thuộc nhóm ngôn ngữ Hmông - Dao. Theo số liệu Tổng điểu tra Dân số và Nhà ở Việt Nam ngày 1 tháng 4 năm 2009, dân tộc Dao có 751.067 người. Người Dao chủ yếu phân bố ở các vùng cao và trung du Bắc Bộ như: Lào Cai, Yên Bái, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh ... Không chỉ có số lượng đông đảo, dân tộc Dao còn đóng góp cho kho tàng văn hóa Việt Nam những giá trị đặc sắc, phong phú. Do tính chất phân bố rải rác và chia thành nhiều nhóm, ngành khác nhau (Dao Tiền, Dao Đỏ, Dao Thanh Y, Dao Thanh Phán, Dao Quần Chẹt ...), mỗi nhóm Dao lại có một số đặc điểm phân biệt với nhau bên cạnh các truyền thống căn bản. Điều này trở thành tài nguyên cho những nghiên cứu về dân tộc Dao, mà ở mỗi mặt, mỗi địa phương, mỗi nhóm Dao lại có những phát hiện độc đáo riêng. Quảng Ninh cũng là một trong số địa bàn có người Dao cư trú khá đông, có mặt ở hầu hết các đơn vị hành chính của tỉnh. Trong quá trình hình thành và phát triển của tỉnh Quảng Ninh, cộng đồng người Dao cũng có những đóng góp không nhỏ. Cùng với các dân tộc khác cùng tồn tại trong địa bàn tỉnh, tộc người Dao đã làm phong phú thêm bản sắc văn hóa của người dân vùng mỏ. Và cũng từ lâu, những câu chuyện kể dân gian của người Dao, như một mạch nước ngầm trong lành, đã xuyên suốt và thẩm thấu vào cuộc sống nhân dân. Dù vậy, vấn đề sưu tầm, tổng hợp, nghiên cứu về truyện kể dân gian của người Dao ở Quảng Ninh vẫn là một mảng bị bỏ trống từ lâu. Với hy vọng bổ sung phần khuyết thiếu đó, chúng tôi đã lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Truyện kể dân gian của người Dao Quảng Ninh”, từ đó khẳng định giá trị của truyện kể người Dao trong phong tục tín ngưỡng của người dân, góp phần bảo tồn kho tàng văn hóa đặc sắc này. 2. Lịch sử nghiên cứu Các công trình nghiên cứu về người Dao ở Việt Nam đã xuất hiện khá sớm. Có thể kể đến một số công trình từ thế kỷ 18 như nhà bác học Lê Quý Đôn (1726 1784) với tác phẩm “Kiến Văn tiểu lục” (1778), tiến sĩ Hoàng Bình Chính với tác 2 phẩm “Hưng Hóa xứ - Phong thổ lục” (1778), nhà sử học Phạm Thận Duật với tác phẩm “Hưng Hóa kỷ lược” (1856). Các văn bản này mới chỉ khái quát sơ lược, giới thiệu về phong tục tập quán của người Dao chứ chưa đi sâu vào thơ ca của họ. Phải đến đầu thế kỷ 20 mới có một loạt các công trình nghiên cứu về người Dao của các tác giả người Pháp. Trong đó, đáng chú ý có tác phẩm của A.Bonifacy. Ông đã công bố các chuyên khảo về người Dao “Mán quần cộc” 1904 - 1905, “Mán quần trắng” - 1905, “Mán chàm hoặc Lam Diên” - 1906, “Mán Tiểu Bản hay Đeo Tiền” - 1907, “Mán Đại Bản, Cộc hoặc Sừng” - 1908 ... ). Đặc biệt, trong tác phẩm của mình, lần đầu tiên, Bonifacy đã đề cập đến thơ ca dân gian dân tộc Dao ở Việt Nam. Tuy nhiên, phần thơ ca dân gian này xuất hiện khá hạn chế, chỉ đóng vai trò làm minh chứng cho các nhận định của tác giả. Thêm vào đó, dù có giá trị về mặt văn hóa và thể hiện sự quan tâm sâu sát của học giả nhưng các tác phẩm này vẫn mang nặng tư tưởng tuyên truyền cho công ơn của nước Pháp mẫu quốc với dân tộc thuộc địa. Từ sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, vào những thập kỷ đầu của thế kỷ 20, vấn đề nghiên cứu văn hóa dân tộc Dao cũng dần dần được chú ý hơn. Tiêu biểu như nghiên cứu của Trần Quốc Vượng (1963) với bài viết “Qua nghiên cứu Bình Hoàng Khoán Điệp thử bàn về gốc tích người Dao (Mán)” đăng trên Tạp chí Dân tộc. Ngoài ra còn có một số bài dân ca người Dao được ông Nguyễn Liễn cán bộ Ty Văn hóa Yên Bái sưu tầm đăng dài kỳ trên các tập san của Ty Văn hóa Yên Bái; các truyện thơ người Dao, tiêu biểu là truyện “Bàn Vương ca” và truyện “Đặng Hành và Bàn Đại Hộ” của ngành Dao quần chẹt do nhà nghiên cứu Triệu Hữu Lý sưu tầm. Truyện cổ dân tộc Dao cũng được nhắc đến và xuất hiện một số truyện trong công trình “Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam” của tập thể tác giả Bùi Văn Nguyên, Nguyễn Ngọc Côn sưu tầm, biên soạn, xuất bản năm 1963. Đến năm 1971, nhà nghiên cứu Nông Trung trong chương “Văn học nghệ thuật và tri thức dân gian” của tác phẩm “Người Dao ở Việt Nam” có đề cập đến một cách khái lược về văn học dân gian người Dao trong đó có thơ ca dân gian.Truyện cổ Dao được sưu tầm khá công phu trong cuốn sách cùng tên của các tác giả Doãn Thanh Lê Trung Vũ, ra đời năm 1978. Năm 1979, trong công trình “Hợp tuyển thơ văn Việt Nam văn học dân tộc ít người”, 18 bài dân ca giao duyên đã được giới thiệu; 3 công trình“Dân ca Dao” do nhà nghiên cứu Triệu Hữu Lý sưu tầm đã xuất bản công bố gần 100 trang thơ ca. Như vậy, văn học dân gian người Dao bước đầu đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều công trình khoa học, tuy nhiên còn thiếu tính hệ thống. Các công trình chỉ mới dừng lại ở mức giới thiệu, chưa có sự lý giải chuyên sâu, cũng như chỉ ra tính vùng miền của các văn bản được sưu tầm. Cho đến nay, với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước trong việc giữ gìn và phát triển các bản sắc dân tộc, đã có thêm nhiều công trình nghiên cứu công phu hơn về dân tộc Dao như: “Phong tục tập quán người Dao Thanh Hóa” của Đào Thị Vinh (2001), “Lễ cưới người Dao Tuyển” của Trần Hữu Sơn (2001); “Lễ cấp sắc người Dao Lạng Sơn” của Phan Ngọc Khuê (2002), “Các nghi lễ chủ yếu trong chu kỳ đời người của nhóm Dao Tiền ở Ba Bể, Bắc Cạn” của Lý Hành Sơn (2003), “Nghi lễ người Dao quần chẹt ở Tuyên Quang”của Mai Đức Thông chủ biên (2008) ... Các tác phẩm này dù chỉ đề cập đến phong tục tập quán nhưng đã góp phần cung cấp thêm hiểu biết về văn hóa truyền thống của người Dao nói chung và mở ra hướng nghiên cứu mới đối với văn học dân tộc Dao nói riêng. Nối tiếp xu hướng của những thập kỷ trước, bước vào những năm đầu của thế kỷ 21, ngày càng có nhiều công trình nghiên cứu về truyện thơ của dân tộc Dao ra đời. Đứng trước sự phân bố rộng rãi và đặc trưng chi ngành đa dạng của dân tộc này, các học giả, nhà nghiên cứu đã tập trung vào sưu tầm theo đặc trưng địa phương của từng nhóm Dao, kết hợp cùng việc lý giải, liên hệ với phong tục tập quán ở địa bàn đó theo hướng liên ngành. Nếu như trước đây mới chỉ có tác phẩm “Truyện cổ các dân tộc Hà Giang” do Hoàng Tuấn Cư tuyển chọn (1995) có nói đến truyện cổ Dao ở Hà Giang thì trong những năm gần đây, đã có thể kể đến một số công trình như: “Truyện cổ dân tộc Dao ở Lai Châu” của Đỗ Thị Tấc (2000), “Thơ ca dân gian người Dao Tuyển” của Trần Hữu Sơn (2000), “Truyện cổ Dao” của Tẩn Kim Phu (2000), “Truyện cổ dân tộc Dao” của Bàn Thị Ba (2011), “Thơ ca hôn lễ người Dao Đỏ ở Lào Cai” của Chảo Văn Lâm (2013) .... Như vậy, các vùng như Hà Giang, Tuyên Quang, Lai Châu, Lào Cai ... đều đã có công trình về truyện thơ người Dao, trong khi đó, tỉnh Quảng Ninh, nơi có người Dao phân bố khá rộng rãi lại chưa có tài liệu nghiên cứu chuyên sâu của riêng mình. Nếu không tính các bài 4 báo in rải rác thì đáng chú ý chỉ có cuốn “Một số vấn đề người Dao Quảng Ninh” do Nguyễn Quang Vinh chủ biên, xuất bản năm 1998. Dù đã khái quát được một số vấn đề cơ bản của người Dao Quảng Ninh nhưng các thông tin còn chung chung, đã quá cũ so với thời điểm hiện tại và phần giới thuyết về truyện cổ dân gian dân tộc Dao chỉ chiếm một dung lượng nhỏ không đáng kể. Thấy được sự thiếu hụt đó, chúng tôi đã lựa chọn đề tài: “Truyện kể dân gian của người Dao Quảng Ninh”, với mong muốn rằng, qua đó, có thể đóng góp chút tiếng nói của người Dao Quảng Ninh trong bản ca muôn sắc muôn màu của dân tộc Dao Việt Nam. 3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Về cơ bản, các truyện kể dân gian của dân tộc Dao ở các vùng miền gần như tương tự nhau. Tuy nhiên, tùy vào ngành Dao khác nhau, địa bàn khác nhau, có sự giao thoa với các dân tộc khác cũng như bị ảnh hưởng bởi xu thế phát triển địa phương nên nội dung truyện, số lượng truyện còn lưu truyền ... sẽ có sự khác biệt riêng. Vì vậy, luận văn tập trung đi sâu vào tìm hiểu, sưu tầm truyện kể dân gian của người Dao sinh sống trên tỉnh thành Quảng Ninh. 3.2. Mục tiêu nghiên cứu Dựa trên đối tượng nghiên cứu như vậy, chúng tôi cũng đề ra một số mục tiêu cần đạt được qua luận văn như sau: Hệ thống lại toàn bô ̣ truyê ̣n kể của người Dao ở Quảng Ninh theo cá c thể loa ̣i, các nhóm truyện; Phân tich giá trị nội dung và nghệ thuật của bộ phận văn học này; ́ Mố i liên hê ̣ của truyện kể người Dao ở Quảng Ninh vớ i đời số ng tin ngưỡng, từ ́ đó thấy được vai trò của nó trong đời sống tinh thần của tô ̣c người Dao ở Quảng Ninh. 4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu 4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục tiêu đã đề ra, bước đầu cần có sự tổng hợp các truyện cổ dân gian còn lưu truyền đến hiện nay trong các nhóm người Dao ở Quảng Ninh. Sau đó tiến hành sắp xếp, hệ thống lại theo nhóm truyện (nhóm truyện giải thích nguồn gốc, nhóm truyện phong tục, nhóm truyện giải thích sự vật, hiện tượng ...), theo thể 5 loại (truyền thuyết, cổ tích ...). Từ đó, phân tích một số truyện tiêu biểu để thấy được giá trị nội dung và nghệ thuật của bộ phận văn học này đối với người Dao cũng như mức độ ảnh hưởng tới các dân tộc khác cùng trong địa bàn Quảng Ninh. Bên cạnh đó, luận văn cần chỉ ra mối liên hệ giữa truyện dân gian với đời sống tín ngưỡng, phong tục tập quán để thấy được vai trò không thể thiếu của truyện cổ dân gian với đời sống tinh thần của tộc người Dao Quảng Ninh. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Để đạt hiệu quả khảo sát và nghiên cứu cao nhất, chúng tôi vận dụng phối hợp một số phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp thống kê, phân loại: vận dụng để tổng hợp, thống kê, phân loại các thể loại, nhóm truyện kể dân gian của người Dao Quảng Ninh. Phương pháp so sánh loại hình: vận dụng để so sánh với các nhóm truyện cùng loại của các nhóm dân tộc Dao nằm trên địa bàn khác. Phương pháp phân tích - tổng hợp: vận dụng để phân tích các yếu tố nội dung, nghệ thuật của từng nhóm truyện kể dân gian. Qua đó, thấy được mối liên hệ giữa truyện với phong tục tín ngưỡng của đồng bào Dao. Phương pháp điền dã: vận dụng để thu thập tài liệu làm minh chứng cho đề tài qua việc khảo sát các khu vực có người Dao sinh sống ở Quảng Ninh. Phương pháp điều tra xã hội học: vận dụng để điều tra và lấy thông tin cá nhân. Từ đó, thu thập được tư liệu về các truyện kể còn lưu hành cũng như ảnh hưởng của nó đến phong tục tín ngưỡng của tộc người Dao. 5. Phạm vi nghiên cứu Trong giới hạn của đề tài luận văn thạc sĩ “Truyện kể dân gian của người Dao Quảng Ninh”, chúng tôi tập trung khảo sát, tổng hợp các truyện kể dân gian còn lưu truyền trong cộng đồng người Dao ở Quảng Ninh, chỉ ra đặc điểm nội dung và nghệ thuật của các nhóm truyện kể trong mối quan hệ với đời sống tinh thần của tộc người. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu truyện Dao Quảng Ninh dựa trên 25 truyện kể dân gian, trong đó 24 truyện được sưu tầm từ các nghệ nhân người Dao Thanh Y và Thanh Phán thuộc địa bàn hai xã Bằng Cả và Tân Dân, huyện Hoành Bồ và một truyện sưu tầm trên trang web (Xem thêm Phụ lục số 3). Tuy số lượng chưa phải là 6 nhiều và phạm vi sưu tầm còn hạn chế, nhưng qua 25 truyện kể này, đặc điểm của truyện kể dân gian người Dao ở Quảng Ninh cũng đã hiện lên khá rõ nét. Trong tổng số 25 truyện, truyện thứ tự số 14 và số 16 (Xem Phụ lục số 3) mặc dù được nghệ nhân người Dao kể lại nhưng chúng tôi vẫn đặt nhiều nghi vấn về nguồn gốc của hai truyện do tính chất của người Dao không được thể hiện rõ ràng, và bản thân người kể, ông Đặng Văn Thương (59 tuổi, thôn 1, xã Bằng Cả, huyện Hoành Bồ) cũng không xác định được rõ nguồn. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn đưa vào danh sách như một nguồn tham khảo. 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài bài Mở đầu và Kết luận cùng các Phụ lục, luận văn được triển khai qua 3 chương: Chương 1: Tổ ng quan về người Dao và truyê ̣n kể dân gian củ a người Dao ở Quả ng Ninh Chương 2: Nô ̣i dung củ a truyê ̣n kể dân gian người Dao ở Quảng Ninh Chương 3: Nghệ thuật củ a truyê ̣n kể dân gian người Dao ở Quảng Ninh Chương 4: Mố i quan hê ̣ giữ a truyê ̣n kể dân gian và phong tu ̣c tâ ̣p quá n củ a người Dao ở Quả ng Ninh 7. Đóng góp của luận văn Dân tộc Dao là một dân tộc liên quốc gia có lịch sử và nền văn hóa độc đáo, bí ẩn vào bậc nhất thế giới. Truyện kể dân gian dân tộc Dao là một bộ phận văn học có nhiều giá trị, cả về nội dung nghệ thuật lẫn về khả năng bảo lưu các giá trị văn hóa tộc người. Trước đây, nhiều nhà nghiên cứu đã quan tâm đến văn hóa, văn học dân tộc Dao và đã có những đóng góp quan trọng, song việc khoanh vùng nghiên cứu truyện kể dân gian dân tộc Dao trong địa bàn Quảng Ninh, nêu bật giá trị nội dung và nghệ thuật của chúng, đặc biệt là chỉ ra mối quan hệ với các nghi lễ tương quan chưa được tiến hành và quan tâm đúng mức. Đề tài “Truyện kể dân gian của người Dao ở Quảng Ninh” của chúng tôi vì vậy có tính ứng dụng và thực tiễn cao, có thể trở thành nguồn tư liệu tham khảo hữu ích cho nghiên cứu truyện kể dân gian người Dao nói chung cũng như truyện kể dân gian về người Dao ở Quảng Ninh nói riêng đồng thời cũng có thể trở thành tài liệu tham khảo ở bậc phổ thông tại các trường có nhiều học sinh người Dao theo học. 7 Chương 1 ̉ ̉ ̀ TÔNG QUAN VỀ NGƯƠI DAO VÀ TRUYỆN KÊ DÂN GIAN ̉ ̉ ̀ CỦ A NGƯƠI DAO Ơ QUANG NINH 1.1. Người Dao ở Việt Nam và người Dao ở Quảng Ninh 1.1.1. Người Dao ở Việt Nam Dân tộc Dao là một trong 54 dân tộc anh em đang sống trên dải đất Việt Nam, phân bố chủ yếu ở các tỉnh vùng cao biên giới phía Bắc Việt Nam như Cao Bằng, Hà Giang, Tuyên Quang, Bắc Thái, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hà Bắc, Yên Bái, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La, Vĩnh Phú, Hà Tây, Hòa Bình, Thanh Hóa, Đắc Lắc, Sông Bé, Đồng Nai ... Dân tộc Dao có nhiều nhóm địa phương, như: Dao Quần trắng, Dao quần chẹt, Dao Tiền, Dao Thanh Y, Dao Lô Gang, Dao Đỏ...và có nhiều tên gọi khác: Mán, Động, Trại, Đại Bản, Tiểu Bản ... Hầu hết người Dao cư trú ở vùng núi đất, núi đá, có địa hình hiểm trở, phức tạp, các vùng xa xôi, hẻo lánh, các lưu vực sông lớn, các khu rừng già. Địa hình này thích nghi với việc phát triển nông, lâm, cây công nghiệp, chăn nuôi gia súc. Mặc dù địa bàn cư trú thường ở núi cao, xa xôi, còn nhiều khó khăn, nhưng đồng bào người Dao có truyền thống văn hoá phong phú và giàu bản sắc. Văn hoá dân tộc Dao đã hoà vào dòng chảy của văn hoá các dân tộc anh em, góp phần hình thành bản sắc văn hoá các dân tộc Việt Nam. Người Dao sống chủ yếu bằng nghề trồng trọt trên nương và ruộng nước. Ngoài lúa họ còn trồng màu. Nông cụ sản xuất thô sơ nhưng kỹ thuật canh tác đã có nhiều tiến bộ. Một số nghề thủ công đã phát triển như dệt vải, rèn, mộc, làm giấy, ép dầu... Họ nuôi nhiều lợn, gà, nhưng chủ yếu dùng trong những ngày ma chay, cưới xin, lễ tết. Nhà ở có 3 loại khác nhau: nhà sàn, nhà nửa sàn nửa đất, nhà đất (nhà trệt). Đàn ông Dao trước đây để tóc dài búi sau gáy, hoặc để chỏm tóc trên đỉnh đầu. Ngày nay, hầu hết đã cắt tóc ngắn. Y phục thường gồm quần và áo ngắn, áo dài. Trang phục của phụ nữ phong phú hơn, giữ được nhiều nét trang trí hoa văn 8 truyền thống. Phụ nữ Dao để tóc dài. Cô dâu trong ngày cưới đội mũ. Dưới chế độ cũ, cưới xin gồm nhiều nghi lễ phức tạp. Có hai hình thức ở rể: có thời hạn và vĩnh viễn. Tuy nhiên phổ biến là sau lễ cưới, vợ về nhà chồng. Ma chay phản ánh nhiều tục lệ xa xưa. Ở một vài vùng có tục hoả táng cho người chết từ 12 tuổi trở lên. Người Dao có nhiều tín ngưỡng về thần linh, ma quỷ, có một số tục lệ thờ cúng phức tạp và tốn kém. Người Dao có quan hệ họ hàng chặt chẽ và thông qua tên đệm để xác định dòng họ, vai vế của người đó trong quan hệ dòng họ. Người Dao có nền văn hóa và lịch sử lâu đời. Mặc dù cơ sở kinh tế nói chung còn thấp kém, nhưng tri thức dân gian rất phong phú, đặc biệt là y học dân tộc cổ truyền. Tiếng nói của người Dao thuộc nhóm ngôn ngữ Hmông - Dao, họ không có văn tự riêng mà sử dụng chữ Hán đã được Dao hoá, gọi là chữ Nôm Dao. Người Dao có hai hình thức thờ cúng chính là cúng tổ tiên và cúng Bàn Vương. Trong cúng tổ tiên, người ta cúng đến 9 đời và bàn thờ tổ tiên đặt ở nơi tôn nghiêm nhất. Họ cho rằng tổ tiên không ở thường trực trên bàn thờ mà chỉ ghé thăm họ vào ngày mồng một hoặc ngày rằm. Còn cúng Bàn Vương là thờ cúng một nhân vật huyền thoại, không cần lập bàn thờ riêng mà khấn chung với tổ tiên, tông tộc trong các dịp lễ tết. Người Dao tin rằng, Bàn Vương có liên quan đến số phận từng gia đình, từng tông tộc, nên có cúng bái tốt thì mọi người mới khoẻ mạnh, gia tộc mới hưng thịnh. Tuy nhiên, hình thái tín ngưỡng vạn vật hữu linh tồn tại rộng rãi ở người Dao. Đó là quan niệm đa thần, cho rằng vạn vật đều có linh hồn. Vì vậy, người Dao tin là có thần gió, thần mưa, thần trông coi lúa gạo, hoa màu và thần chăn nuôi. Người Dao có rất nhiều nghi lễ như lễ cúng nương, lễ cúng cơm mới, cúng thóc giống, cúng hồn gia súc, lễ cấp sắc … Trong đó, lễ cấp sắc khá phổ biến và rất quan trọng đối với người đàn ông Dao. Tết cổ truyền của người Dao diễn ra cùng dịp với Tết Nguyên đán của người Việt, thường sớm hơn nửa tháng. Vào những ngày giáp Tết (tháng 12 âm lịch), dân 9 bản tập trung tại nhà trưởng bản hoặc một nhà nào đó theo phiên để cùng nhau tiến hành "Tết Nhảy". Từ bao đời nay, Tết nhảy đã trở thành nét sinh hoạt văn hóa đặc sắc không thể thiếu của người Dao trong mỗi dịp tết đến, xuân về. Để chuẩn bị cho "Tết Nhảy", các thanh niên trong làng phải tập các điệu múa, điệu nhảy và phải chuẩn bị gươm đao bằng gỗ để múa. Trong "Tết Nhảy", mỗi người phải nhảy múa đến hàng trăm lượt trong tiếng chuông, tiếng trống giục giã. Người tham dự Tết, nhảy múa liên tục cả ngày cả đêm, ai mệt thì ra, người khác sẽ thay thế. "Tết Nhảy" của người Dao là tết của gia đình nhưng lại được cả bản coi như là tết của chung. "Tết Nhảy" của người Dao là nét sinh hoạt văn hóa mang tính tổng hợp của các loại hình nghệ thuật dân gian như nhảy múa, âm nhạc, ngôn ngữ... tất cả đã làm nên vũ điệu sắc màu độc đáo riêng của người Dao. Trang phục của người phụ nữ Dao gồm: áo, yếm, xà cạp, cùng đồ trang sức vàng bạc, khăn vấn đầu... Đối với trang phục của nam giới thì rất đơn giản, đó là những chiếc áo ngắn, xẻ ngực, cài cúc trước ngực và thường cài 5 cúc. Quần rất rộng đũng, có thể cử động trong mọi tư thế. Cả nam, nữ và trẻ con người Dao đều thích đeo trang sức như vòng cổ, chân, tay. Ngoài việc làm đẹp thì chúng còn mang giá trị nhân văn, tín ngưỡng. Theo truyền thuyết kể lại, người đeo trang sức bằng bạc thì sẽ trừ tà ma, tránh gió và thậm chí là được thần linh phù hộ. Dân tộc Dao có một nền văn hóa rất phong phú và đậm đà bản sắc, phản ánh nhiều lĩnh vực của đời sống. Ca hát và sáng tác thơ là nhu cầu sinh hoạt văn nghệ phổ biến của người Dao. Người Dao hát, sáng tác hoặc ứng tác lời hát vào các dịp trai gái đến chơi làng, trong đám cưới, dịp vào nhà mới, những ngày hội và chợ phiên... Có hai hình thức thể hiện là hát đơn và hát đối đáp, nhưng hát đối đáp là thông dụng hơn. Hát đối đáp thường áp dụng khi làm quen, tìm hiểu nhau. Theo đó, người ta chia làm hai bên, một bên nam, một bên nữ, tối thiểu mỗi bên có một người. Lời ca tiếng hát cũng như tục ngữ, ca dao của người Dao phản ánh nhiều lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là các kinh nghiệm sản xuất và sinh hoạt xã hội. Câu đối của người Dao cũng đa dạng và phản ánh nhiều khía cạnh của cuộc sống lao động 10 và thiên nhiên xung quanh con người. Nhạc cụ dân tộc của người Dao chủ yếu được sử dụng trong các nghi lễ tôn giáo, tín ngưỡng, gồm có trống, thanh la, chũm choẹ, chuông nhạc và tù và. Ngoài ra, người Dao còn có các loại nhạc cụ khác như nhị, sáo, đàn môi... Trò chơi của người Dao cũng rất đa dạng, gồm nhiều thể loại khác nhau; có trò mang tính nghi lễ như trò tập lên đồng, tập bói, nhảy múa...; có trò chơi trong lúc uống rượu như trò chỉ ngón tay, hát đối đáp...; có trò chơi trong ngày tết và những lúc rảnh rỗi khác như trò bắt dây bằng các ngón tay, đu dây, đánh quay, đánh còn... Hiện nay, xã hội ngày càng phát triển, nhiều tục lệ đã bị mai một dần theo thời gian. Bảo tồn những giá trị văn hoá người Dao là việc làm cần thiết để góp phần bảo tồn và phát huy vốn văn hóa phi vật thể đặc sắc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. 1.1.2. Người Dao ở Quảng Ninh 1.1.2.1. Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên và dân cư của tỉnh Quảng Ninh Quảng Ninh là tỉnh ven biển thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam. Trong quy hoạch phát triển kinh tế, Quảng Ninh vừa thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc vừa thuộc vùng duyên hải Bắc Bộ. Đây là tỉnh khai thác than đá chính của Việt Nam. Di sản thế giới vịnh Hạ Long và Cửa khẩu quốc tế Móng Cái nằm ở tỉnh này. Quảng Ninh là tỉnh có nhiều đô thị nhất Việt Nam với bốn thành phố Hạ Long, Móng Cái, Uông Bí, Cẩm Phả và một thị xã Quảng Yên. Quảng Ninh có toạ độ địa lí khoảng từ 106°26' - 108°31' E và từ 20°40' 21°40' B.Điểm cực bắc thuộc thôn Mỏ Toòng, xã Hoành Mô, huyện Bình Liêu. Điểm cực nam ở đảo Hạ Mai thuộc xã Ngọc Vừng, huyện Vân Đồn. Điểm cực tây thuộc xã Bình Dương và xã Nguyễn Huệ, huyện Đông Triều. Điểm cực đông trên đất liền là mũi Gót ở đông bắc phường Trà Cổ, thành phố Móng Cái, ngoài khơi là mũi Sa Vĩ. Phía tây giáp tỉnh Lạng Sơn và tỉnh Bắc Giang, phía đông giáp vịnh Bắc Bộ, phía tây nam giáp tỉnh Hải Dương và Thành phố Hải Phòng, phía bắc giáp huyện Phòng Thành và thị trấn Đông Hưng (tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc) với cửa khẩu Móng Cái và Trinh Tường. Đường biên giới với Trung Quốc dài 132,8 km. 11 Biển Quảng Ninh có hơn 2.000 hòn đảo, chiếm 2/3 số đảo cả nước (2078/2779), trong đó có 1.030 đảo có tên. Tổng diện tích các đảo là 619,913 km². Duyên hải Quảng Ninh chạy dài gần 200 hải lí từ lãnh hải Trung Quốc ở phía đông đến địa giới thành phố Hải Phòng. Quảng Ninh phần lớn là đồi núi cùng vị trí địa lí đáng ra phải được xếp vào vùng núi và trung du phía bắc nhưng do kinh tế đặc biệt phát triển và là một cực của tam giác kinh tế nên chính phủ xếp Quảng Ninh vào nhóm các tỉnh đồng bằng sông Hồng. Hơn 80% diện tích Quảng Ninh là địa hình đồi núi, tập trung ở phía Bắc. Một phần năm diện tích ở phía Đông Nam tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng. Quảng Ninh còn có rất nhiều đảo ven biển. Địa hình đáy biển Quảng Ninh không bằng phẳng, độ sâu trung bình là 20 m, có nhiều lạch sâu làm nơi cư trú của các rạn san hô. Dân số tỉnh Quảng Ninh có 1.144.381 người với 22 thành phần dân tộc, trong đó: 21 thành phần dân tộc thiểu số cư trú trên địa bàn rộng lớn (hơn 85% diện tích của tỉnh), trong đó: dân tộc đa số (dân tộc Kinh) có 1.001.103 người, chiếm 87,47% dân số toàn tỉnh; dân tộc thiểu số (21 thành phần dân tộc còn lại trong tỉnh) có 143.278 người, chiếm 12.53% dân số toàn tỉnh. Trong 21 thành phần dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Ninh, có 05 thành phần dân tộc sống tập trung thành cộng đồng làng bản, gồm: + Dân tộc Dao 68.540 người, chiếm 47,80% dân tộc thiểu số toàn tỉnh; + Dân tộc Tày: 29.849 người, chiếm 20,80% dân tộc thiểu số toàn tỉnh; + Dân tộc Sán Dìu: 20.899 người, chiếm 14.60% dân tộc thiểu số toàn tỉnh; + Dân tộc Sán Chay (gồm Cao Lan và Sán Chỉ): 16.107 người, chiếm 11.20% dân tộc thiểu số toàn tỉnh; + Dân tộc Hoa: 5.503 người, chiếm 3,80% dân tộc thiểu số toàn tỉnh; + Còn lại là các thành phần dân tộc thiểu số khác như: Nùng, Mường, Thái, Khơme, Hmông, Thổ, Giáy…chiếm 1,80% dân tộc thiểu số toàn tỉnh. 12 Các dân tộc thiểu số ở Quảng Ninh phân bố, cư trú trên địa bàn 14/14 huyện, thị xã, thành phố của tỉnh. Địa phương có tỷ lệ đồng bào dân tộc thiểu số cao là Bình Liêu (chiếm 95,8% dân số toàn huyện), Ba Chẽ (79,8%), Tiên Yên (47,2%), tiếp đến là Hoành Bồ, Đầm Hà, Hải Hà, Cẩm Phả, Vân Đồn. Hiện nay, tỉnh Quảng Ninh là một trọng điểm kinh tế, một đầu tàu của vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc đồng thời là một trong bốn trung tâm du lịch lớn của Việt Nam với di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long đã hai lần được UNESCO công nhận về giá trị thẩm mĩ và địa chất, địa mạo. Quảng Ninh có nhiều khu kinh tế , Trung tâm thương mại Móng Cái là đầu mối giao thương giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc và các nước trong khu vực. Năm 2010, Quảng Ninh là tỉnh có chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh đứng thứ 7 ở Việt Nam. 1.1.2.2. Đặc điểm về lịch sử và văn hóa xã hội của người Dao Quảng Ninh Ở Quảng Ninh, người Dao sinh sống, làm ăn khắp tất cả 14 đơn vị hành chính của tỉnh. Cũng giống như đại bộ phận dân tộc Dao ở Việt Nam, người Dao Quảng Ninh cũng nhận Bàn Hồ tức Bàn Vương là thủy tổ của mình, và vốn có nguồn gốc từ Trung Quốc. Tuy nhiên, khoảng thời gian di cư vào Việt Nam thì không thống nhất giữa các câu chuyện lưu truyền lại, có nguồn cho rằng xuất phát từ Mông Cổ trong khi nhiều bản kể khác lại cho rằng khởi sự dưới thời nhà Minh do loạn lạc binh đao mà di cư sang. Đặc trưng của đời sống kinh tế của người Dao trước đây mang nặng tính khép kín, sản xuất tự cung tự cấp. Nguồn sống chính là trồng lúa và làm nghề rừng. Nghề phụ có chăn nuôi gia súc, làm thủ công như kéo sợi, dệt vải, đóng đồ gỗ, làm nghề rèn, đồ trang sức … Trước đây, người Dao sống du canh du cư trong điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt nên rất khổ cực, thiếu thốn. Ngày nay, người Dao Quảng Ninh đã bắt đầu đi vào cuộc sống định cư, đời sống đã khá lên và có nhiều hộ thuộc loại giàu. Do điều kiện cư trú và nghề nghiệp, sản xuất tự cung tự cấp nên người Dao đã sáng tạo ra những công cụ sản xuất phù hợp với hoàn cảnh lao động của mình như chiếc cày chìa vôi, chiếc gậy nhọn để chọc lỗ tra hạt … Ngày nay các công cụ cổ truyền này vẫn được sử dụng bên cạnh những công cụ hiện đại. 13 Phong tục, tập quán của người Dao Quảng Ninh cũng giống như người Dao ở các nơi khác, rất phong phú, đa dạng, bao gồm các quy ước, kiêng kỵ trong tế lễ, hôn nhân, cưới xin, sinh đẻ, nuôi con, ma chay, dựng nhà mới, mừng thọ … Người Dao Quảng Ninh vẫn bảo lưu tục thờ cúng tổ tiên. Tổ tiên được thờ tới 9 đời. Tuy nhiên, hàng ngày người Dao chỉ cầu khấn tới ông tổ 3 đời. Bàn thờ tổ tiên được coi là nơi tôn nghiêm nhất trong nhà. Lễ cúng Bàn Vương - vị thủy tổ của người Dao - thường được bà con tổ chức trong khoảng từ ngày 20 đến 30 tháng Chạp. Người Dao có nhiều dòng họ. Trong đó, họ Bàn được tôn trọng nhất và suy tôn làm anh cả. Các họ khác là bậc anh em. Tập tục truyền thống này có ý nghĩa giáo dục con cháu người Dao đoàn kết dân tộc, cùng nhau chống thiên tai, địch họa, bảo vệ và xây dựng quê hương. Hôn nhân của người Dao là một vợ một chồng, theo xã hội văn minh. Đặc biệt, luật tục về hôn nhân của người Dao Quảng Ninh quy định cấm hai nhóm người Dao Thanh Y và Dao Thanh Phán không được lấy nhau. Người trong hai nhóm dân tộc này chỉ kết hôn với người dân tộc khác. Ngoài ra, ở một số xã, huyện trong tỉnh còn giữ tục lệ cũ, thách cưới quá cao, rất tốn kém.Tín ngưỡng của người Dao còn tồn tại nhiều hủ tục mê tín, lạc hậu. Người Dao cúng ma để cầu mong mùa màng bội thu, hy vọng ma khỏi bắt tội, chữa khỏi bệnh tật … Văn hóa, nghệ thuật của người Dao khá phong phú về thể loại. Bà con rất tự hào và trân trọng về truyền thống và giá trị văn hóa nghệ thuật của dân tộc mình. Người Dao Quảng Ninh còn lưu truyền nhiều điệu hát dân ca như hát ghẹo, hát mời rượu, hát ru con, hát ở đám tang, đám chay … và các điệu múa. Thông qua các điệu hát, người Dao Quảng Ninh cũng lưu giữ các câu chuyện kể dân gian của dân tộc mình. Bên cạnh đó, người Dao còn có rất nhiều bài ca dao, câu tục ngữ với nội dung chủ yếu là răn dạy các bài học đạo đức, dạy cách đối nhân xử thế, giải thích ý nghĩa của các phong tục truyền thống. Qua đó, nhắc nhở và truyền lại cho con cháu đời sau cội nguồn của tổ tiên mình. 1.2. Truyện kể dân gian của người Dao và truyện kể dân gian của người Dao ở Quảng Ninh 1.2.1. Truyện kể dân gian của người Dao Người Dao ưa thích các hoạt động văn nghệ, trong đó có việc kể chuyện. Người dân hay kể các truyện cổ vào các dịp Tết, ngày lễ, khi đi đường, lúc lao động
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan