TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BỘ MÔN NGỮ VĂN
--
CAO HẠ QUYÊN
MSSV: 6095885
TRƯỜNG TỪ VỰNG THIÊN NHIÊN
TRONG THƠ TỐ HỮU
Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Ngữ Văn
Cán bộ hướng dẫn: ThS. GVC. NGUYỄN THỊ THU THỦY
`
Cần Thơ, 5/2013
ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích, yêu cầu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Từ vựng
1.1.1. Khái niệm từ
1.1.2. Cấu tạo từ
1.1.2.1. Từ đơn
1.1.2.2. Từ ghép
1.1.2.3. Từ láy
1.1.3. Nghĩa của từ
1.1.3.1. Nghĩa biểu vật
1.1.3.2. Nghĩa biểu niệm
1.1.3.3. Nghĩa biểu thái
1.2. Trường từ vựng
1.2.1. Các quan niệm về trường
1.2.2. Khái niệm trường từ vựng
1.2.3. Phân loại trường từ vựng
1.2.3.1. Trường nghĩa trực tuyến
1.2.3.2. Trường nghĩa tuyến tính
1.2.3.3. Trường nghĩa liên tưởng
1.3. Vài nét về Tố Hữu
1.3.1. Cuộc đời
1.3.2. Sự nghiệp sáng tác
1.3.3. Quan niệm sáng tác
1.3.4. Đặc điểm phong cách thơ Tố Hữu
CHƯƠNG II
TRƯỜNG TỪ VỰNG THIÊN NHIÊN TRONG THƠ
TỐ HỮU
2.1. Khái niệm thiên nhiên
2.2. Khái niệm trường từ vựng thiên nhiên
2.3. Thống kê trường từ vựng thiên nhiên
2.3.1. Trường từ vựng thiên nhiên là vũ trụ, trời đất
2.3.2. Trường từ vựng thiên nhiên là thế giới thực vật
2.3.3. Trường từ vựng thiên nhiên là thế giới động vật
2.4. Giá trị biểu đạt của từ thuộc trường từ vựng thiên nhiên trong thơ
Tố Hữu
2.4.1. Giá trị biểu đạt của trường từ vựng thiên nhiên là vũ trụ, đất trời
2.4.2. Giá trị biểu đạt của trường từ vựng thiên nhiên là thế giới thực vật
2.4.3. Giá trị biểu đạt của trường từ vựng thiên nhiên là thế giới động vật
PHẦN KẾT LUẬN
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Tố Hữu là một trong những nhà thơ lớn, tiêu biểu của nền thơ ca Cách mạng Việt
Nam. Ông là người đã đem đời mình và thơ mình chiến đấu vì lí tưởng cao cả đem lại
độc lập, tự do cho Tổ quốc. Tố Hữu làm thơ không ngoài mục đích tuyên truyền trực
tiếp cho công tác Cách mạng, bộc lộ những suy nghĩ và tình cảm cao đẹp của mình với
quần chúng nhân dân với non sông, đất nước.
Từ khi xuất hiện, thơ Tố Hữu đã trở thành một bộ phận không thể tách rời của
đời sống tâm hồn Việt Nam. “Ông là người đem đến cho công chúng và rồi cũng nhận
lại từ họ sự đồng điệu, đồng cảm, đồng tình tuyệt diệu, đang là niềm mơ ước của mọi
sự nghiệp thơ ca, kể cả những nhà thơ lớn cùng thời với ông” [19; 20].
Thơ Tố Hữu mang đậm chất trữ tình, “là đỉnh cao thơ trữ tình chính trị Việt
Nam” (Trần Đình Sử). Đó là những vần thơ sắc bén, giàu sức chiến đấu và chan chứa
tình người. Là tiếng nói bình dị, gần gũi mà không kém phần sáng tạo, gắn với thực
tiễn cách mạng và bay lên với bao khát vọng và ước mơ. Đó là những bài ca đấu tranh
anh hùng và thắng lợi vẻ vang, bài ca về lẽ sống lớn, về ân tình cách mạng sâu nặng,
về niềm tin cách mạng mới mẻ, trong trẻo.
Thơ Tố Hữu không chỉ thể hiện sâu sắc tinh thần thời đại, mà còn đánh dấu một
bước phát triển mới của thơ ca dân tộc, đóng vai trò quan trọng trong công cuộc chiến
đấu và bảo vệ Tổ Quốc. Đồng thời, thơ ông góp phần thúc đẩy, khơi nguồn cho sự
phát triển của thơ ca dân tộc.
Trong những năm qua, thơ Tố Hữu đã được khảo cứu, phân tích, đánh giá từ nội
dung tư tưởng tới hình thức, phong cách, từ đề tài, chủ đề, hình tượng tới phương pháp
sáng tác, thể loại, ngôn ngữ. Hầu như không còn tập thơ, bài thơ nào có giá trị của ông
mà không được bàn đến, không có hình tượng thơ hoặc câu thơ hay nào mà không
được phát hiện. Nhưng, nghiên cứu tác phẩm của nhà thơ này từ góc độ tiếp cận của
trường từ vựng thì hầu như chưa được chú ý đến. Nghiên cứu “Trường từ vựng thiên
nhiên trong thơ Tố Hữu” là một hướng nghiên cứu có thể giúp tìm hiểu về cách sử
dụng ngôn ngữ của Tố Hữu trong sáng tác và lí giải tình yêu đất nước, thiên nhiên
trong thơ ông. Qua đó, người viết có thể mở rộng thêm vốn từ, bổ trợ thêm kiến thức
về ngôn ngữ cho việc học hiện tại cũng như làm việc sau này. Người viết cũng hi vọng
1
rằng bài nghiên cứu sẽ góp phần bổ sung vào nguồn tài liệu cho các công trình nghiên
cứu về ngôn ngữ nói chung, tìm hiểu phong cách ngôn ngữ trong thơ Tố Hữu nói
riêng.
2. Lịch sử vấn đề
Vấn đề trường từ vựng đã được các nhà ngôn ngữ học nghiên cứu từ rất lâu và để
lại những thành tựu nhất định. Trong khuôn khổ luận văn, người viết xin điểm qua một
số công trình được coi là tiêu biểu nhất và các bài nghiên cứu đã vận dụng khái niệm
và phương pháp của ngôn ngữ học vào việc nghiên cứu trường từ vựng trong một tác
phẩm cụ thể.
Theo tác giả Đỗ Hữu Châu trong quyển Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt, quan niệm
rằng tính hệ thống về ngữ nghĩa của từ vựng thể hiện qua những tiểu hệ thống trong
lòng từ vựng và quan hệ ngữ nghĩa giữa các từ riêng lẻ thể hiện qua quan hệ giữa
những tiểu hệ thống ngữ nghĩa chứa chúng: “mỗi tiểu hệ thống là một trường ngữ
nghĩa. Đó là một tập hợp từ đồng nhất với nhau về ngữ nghĩa” [5; 145]. Ngoài việc
đưa ra khái niệm, cách phân loại từ vựng trong công trình nghiên cứu của mình, Đỗ
Hữu Châu còn nêu lên các tiêu chí để xác lập một trường từ vựng, chỉ ra mối quan hệ
về nghĩa giữa các từ thể hiện qua các hiện tượng như: từ đa nghĩa, từ đồng nghĩa, từ
trái nghĩa. Theo đó, ông chia ra bốn nhóm trường nghĩa là: Trường nghĩa biểu vật và
trường nghĩa biểu niệm (xét trên trục dọc), trường nghĩa tuyến tính (xét trên trục ngang
– trục ngữ đoạn) và trường nghĩa liên tưởng (xét trên việc sử dụng từ ngữ). Đây là
công trình nghiên cứu được rất nhiều người tin tưởng bởi tính đúng đắn và thiết thực.
Trong tạp chí Ngôn ngữ số 09 năm 2003, tác giả Vũ Thị Ân có bài viết nghiên
cứu về “Trường nghĩa của từ yêu trong thơ Xuân Diệu”. Bài viết này bàn đến trường
nghĩa của từ yêu trong thơ Xuân Diệu trước năm 1945, qua hai tập thơ tiêu biểu là Thơ
thơ và Gửi hương cho gió. Tác giả đã lấy từ “yêu” làm từ khóa và xác lập danh sách,
thống kê định lượng tần số xuất hiện, tỉ lệ phân bố (xét trên độ dài văn bản) của những
từ ngữ cùng trường nghĩa (so sánh với thơ tình của Nguyễn Bính) với từ “yêu” trên ba
phương diện cơ bản: những từ ngữ chỉ sự vật, đối tượng của tình yêu; những từ ngữ
biểu thị hành động, cảm xúc, trạng thái, kết quả của tình yêu; những từ ngữ chỉ cung
bậc, sắc thái của tình yêu. Qua kết quả thống kê, định lượng trường nghĩa của từ yêu
trong thơ Xuân Diệu, ta có thể khẳng định rằng những nhận định của các nhà nghiên
2
cứu lâu nay về cách bộc lộ tình yêu trong những vần tình ca thắm thiết của tác giả
trong làng thơ mới là có cơ sở.
Trần Thị Mai có bài nghiên cứu về “Trường từ vựng chỉ không gian trong tập thơ
Lửa thiêng của Huy Cận” in trong tạp chí Ngôn ngữ & đời sống số 1+2 năm 2010. Tác
giả đã khảo sát hai mươi bài thơ trong tập thơ Lửa thiêng của Huy Cận chủ yếu dựa
vào trường nghĩa biểu vật để phân tích và đưa ra các dẫn chứng, chứng minh các từ
thuộc trường nghĩa chỉ không gian và phân chúng thành từng nhóm nhỏ: từ chỉ không
gian chung, từ chỉ không gian trên cao, từ chỉ không gian dưới mặt đất… Với trường
từ vựng chỉ không gian, ta không chỉ nhận ra cảm quan nghệ thuật của Huy Cận trước
cuộc sống mà còn thấy một phần đặc điểm ngôn từ nghệ thuật của tập thơ Lửa thiêng
nói riêng và thơ Huy Cận nói chung.
Trong tạp chí Ngôn ngữ & đời sống số 09 năm 2010 tác giả Lưu Văn Din có bài
viết với nhan đề “Trường ngữ nghĩa các yếu tố ngôn ngữ liên quan đến nước trong ca
dao, tục ngữ người Việt”. Trong bài nghiên cứu, tác giả vận dụng lí thuyết trường
nghĩa liên tưởng để khảo sát và phân tích ngữ liệu ở ca dao, tục ngữ và đã chỉ ra năm
nhóm trường nghĩa lên quan đến nước và ở mỗi nhóm có các tiểu nhóm: nhóm trường
nghĩa chỉ trạng thái tự nhiên của nước và nhóm trường nghĩa chỉ sự sinh tồn của người
Việt trong môi trường nước. Bài viết đã cho thấy trường ngữ nghĩa liên quan đến nước
trong tiếng Việt rất phong phú, đa dạng, thể hiện tư duy liên tưởng về nước gắn với
môi trường sống, sự sinh tồn, biểu thị tư tưởng, tình cảm, triết lí nhân sinh của người
Việt. Văn hóa nước và các định danh liên quan đến nước xuất phát từ thực tiễn môi
trường sống và tư duy văn hóa của người Việt về lãnh thổ quốc gia.
Gần đây nhất, trong quyển Ngôn ngữ & đời sống số 09 (203) năm 2012 có bài
nghiên cứu với nhan đề: “Trường nghĩa về thiên nhiên trong thơ Hồ Chí Minh” của
tác giả Phạm Tất Thắng. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả đã dành thời gian
tìm hiểu về khái niệm trường từ vựng – ngữ nghĩa, từ đó vận dụng một cách nhuần
nhuyễn vào việc khảo sát, phân tích trường nghĩa về “thiên nhiên” trong thơ tiếng Việt
của Hồ Chí Minh. Bức tranh về thiên nhiên trong thơ Bác được thể hiện thật đa dạng,
sinh động và đầy đủ sắc màu khi được phân tích và mổ xẻ qua các nhóm trường nghĩa
theo các quan hệ: trực tuyến, tuyến tính, liên tưởng và hiện tượng chuyển trường
nghĩa. Trên đây là những công trình nghiên cứu về trường từ vựng đã góp phần đáng
3
kể vào việc bổ trợ thêm kiến thức cho người viết, giúp nâng cao khả năng nhận biết để
hoàn thành bài nghiên cứu của mình.
Như đã biết, thơ Tố Hữu là đối tượng nghiên cứu của các nhà nghiên cứu, phê
bình trong và ngoài nước. Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều gặp gỡ và thống nhất
trong đánh giá Tố Hữu là một phong cách lớn trong sự phát triển của nền văn học dân
tộc. Thơ ông không chỉ đặc sắc ở nội dung, tư tưởng mà còn có giá trị đặc sắc về nghệ
thuật trên các phương diện về phong cách và ngôn ngữ thơ. Trong đó nổi bật nhất là ba
công trình: Thơ Tố Hữu của Lê Đình Kị (1979); Thơ Tố Hữu, Tiếng nói đồng ý, đồng
tình, tiếng nói đồng chí của Nguyễn Văn Hạnh (1985) và Thi pháp thơ Tố Hữu của
Trần Đình Sử (1987).
Nghiên cứu về thơ Tố Hữu từ phương diện ngôn ngữ đã có các công trình của tác
giả như: Về cách dùng từ chỉ màu sắc trong thơ Tố Hữu của Lê Anh Hiền (Tạp chí
Ngôn ngữ số 4- 1976 ), Tính dân tộc hiện đại của ngôn từ thơ Tố Hữu của Trần Đình
Sử (Báo Văn nghệ số 36 – 1985), Nhạc điệu thơ Tố Hữu của Nguyễn Trung Thu (Tạp
chí Văn học số 6 – 1968) và nhiều công trình khác.
Mặc dầu không có đề tài nghiên cứu cụ thể về “Trường từ vựng thiên nhiên trong
thơ Tố Hữu” nhưng những vấn đề mà các tác giả trên đề cập đều có liên quan và là
những tiền đề quan trọng giúp người viết có cơ sở triển khai, nghiên cứu đề tài.
3. Mục đích, yêu cầu
Nghiên cứu “Trường từ vựng thiên nhiên trong thơ Tố Hữu”, luận văn hướng vào
mục đích tiếp cận một hướng nhìn mới để khai thác thơ Tố Hữu. Trên cơ sở kế thừa,
tiếp thu những công trình nghiên cứu trước, luận văn này khai thác thơ Tố Hữu từ góc
độ trường từ vựng. Đề tài là sự kết hợp giữa lí thuyết và ứng dụng, kết hợp những kiến
thức ngôn ngữ học và văn học. Qua việc thực hiện đề tài, người viết sẽ có cơ hội được
rèn luyện và củng cố năng lực phân tích tác phẩm trữ tình và nghiên cứu về một tác gia
quan trọng trong nền văn học đương đại Việt Nam từ góc nhìn ngôn ngữ học.
Đây là một hướng tiếp cận mới, đầy lí thú và có sức thuyết phục đối với một
phong cách thơ đã ổn định. Yêu cầu trước hết là tập hợp các từ cùng trường nghĩa chỉ
thiên nhiên và phân loại theo các nhóm tiểu trường thích hợp. Cuối cùng là phân tích,
đánh giá thấy được hiệu quả sử dụng của các từ ngữ thuộc trường từ vựng về thiên
nhiên - một nhân tố dẫn đến thành công đặc sắc trong thơ Tố Hữu.
4
4. Phạm vi nghiên cứu
Với đề tài này người viết sẽ tìm hiểu vấn đề lí thuyết về từ tiếng Việt, từ đó sẽ đi
vào tìm hiểu những từ thuộc trường từ vựng về thiên nhiên trong thơ Tố Hữu. Với quy
mô của đề tài và kiến thức có hạn nên người viết không tìm hiểu hết sự nghiệp thơ của
Tố Hữu mà chỉ giới hạn trong ba tập thơ: Từ ấy, Việt Bắc và Gió lộng. Đây là những
tập thơ góp phần đưa tên tuổi Tố Hữu đến với bạn đọc trong và ngoài nước.
5. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu luận văn này, người viết sử dụng các phương pháp :
Phương pháp thống kê: Dựa vào các tập thơ, luận văn thống kê các từ thuộc
trường từ vựng về thiên nhiên trong thơ Tố Hữu.
Phương pháp so sánh đối chiếu: Để thấy được hiệu quả của việc sử dụng ngôn từ
trong thơ Tố Hữu, luận văn so sánh ngôn ngữ thơ của ông với một số nhà thơ cùng
thời theo chủ đề, đề tài như Xuân Diệu, Nguyễn Bính,… Từ đó thấy được những nét
riêng trong việc sử dụng từ để thể hiện tình cảm của Tố Hữu đối với thiên nhiên và
cuộc sống so với các nhà thơ khác.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Người viết vận dụng phương pháp này nhằm
làm sáng tỏ những nét độc đáo trong việc sử dụng từ, trường từ trong thơ Tố Hữu.
5
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Từ vựng
Vựng trong tiếng Hán có nghĩa là kho, nơi chứa. Từ vựng có nghĩa là kho từ, vốn
từ của một ngôn ngữ gồm các từ và các đơn vị tương đương với từ, tức thành ngữ.
Trong đó, từ là đơn vị từ vựng cơ bản nhất. Từ vựng là một hệ thống hữu hạn, là một
bộ phận quan trọng của hệ thống ngôn ngữ, phát triển liên tục cùng với sự phát triển
của xã hội. Mỗi từ trong hệ thống bao giờ cũng đối lập với các từ còn lại, đồng thời chỉ
có giá trị khi được xét trong mối tương quan với các từ khác trong hệ thống.
Từ vựng là một trong ba bộ phận cấu thành của ngôn ngữ, giữ vai trò quan trọng
và chiếm số lượng phong phú nhất. Hơn bộ phận nào hết, từ vựng phản ánh trực tiếp
và rộng rãi thực tế khách quan, nền văn hóa của dân tộc, nhanh chóng hưởng ứng mọi
sự thay đổi của xã hội trong mọi mặt sinh hoạt đời sống.
1.1.1. Khái niệm từ
Trong tất cả các ngôn ngữ, mặc dù các nhà nghiên cứu chưa nhất trí với nhau về
từ, song có thể nói rằng trong mỗi ngôn ngữ đều có đơn vị nhỏ nhất mà người nói có
thể kết hợp chúng lại với nhau để tạo nên câu hay chuỗi lời nói trong khi trò chuyện,
trao đổi tình cảm với nhau trong giao tiếp. Những đơn vị này được gọi là “từ”.
Nói khác đi, từ là đơn vị nhỏ nhất của ngôn ngữ, có nghĩa, mang tính sẵn có, cố
định, bắt buộc, được dùng để trực tiếp tạo câu.
1.1.2. Các kiểu cấu tạo từ
1.1.2.1. Từ đơn: Là những từ được cấu tạo bởi một tiếng độc lập. Thí dụ: nhà,
xe, viết, xanh, đỏ, vàng,…
- Xét về mặt lịch sử, hầu hết từ đơn là những từ đã có từ lâu đời. Một số từ có
nguồn gốc thuần Việt, một số từ vay mượn từ các ngôn ngữ nước ngoài như: tiếng
Hán, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga,…
- Xét về mặt ý nghĩa, từ đơn biểu thị những khái niệm cơ bản trong sinh hoạt
của đời sống hàng ngày của người Việt, biểu thị các hiện tượng thiên nhiên, quan hệ
gia đình, xã hội, các số đếm,…
6
- Xét về mặt số lượng, tuy không nhiều bằng từ ghép và từ láy nhưng đây là
những từ cơ bản nhất, giữ vai trò quan trọng nhất trong việc biểu thị các khái niệm có
liên quan đến đời sống và là cơ sở để tạo từ mới cho tiếng Việt.
1.1.2.2. Từ ghép: Là những từ có hai hoặc hơn hai tiếng được ghép lại với
nhau dựa trên quan hệ ý nghĩa.
Dựa vào quan hệ ngữ pháp giữa các yếu tố, có thể phân từ ghép ra làm hai loại
chính:
Từ ghép đẳng lập
Từ ghép đẳng lập có đặc trưng chung là:
- Quan hệ ngữ pháp giữa các thành tố trong từ là quan hệ bình đẳng. Thí dụ:
nhà cửa, sách vở, tư duy,…
- Xét về mặt ý nghĩa giữa các thành tố có thể thấy:
+ Hoặc các thành tố đồng nghĩa nhau, trong đó:
o Có thể có một yếu tố thuần Việt và một yếu tố Hán Việt. Ví dụ:
bạn hữu, bụng dạ, máu huyết,...
o Có thể cả hai yếu tố đều là Hán Việt. Ví dụ: thổ địa, tiện lợi, tư
duy, cốt nhục,…
o Có thể cả hai yếu tố đều là thuần Việt. Ví dụ: xinh đẹp, đợi chờ,
máu mủ,…
o Có thể có một yếu tố toàn dân và một yếu tố là từ địa phương. Ví
dụ: chợ búa, chân cẳng, bát đọi,…
+ Hoặc các thành tố gần nghĩa nhau. Thí dụ: thương nhớ, nhà cửa, ăn uống, đi
đứng,…
+ Hoặc các thành tố trái nghĩa nhau. Thí dụ: đầu đuôi, sống chết, già trẻ, gần
xa,…
- Xét về mặt nội dung nói chung, từ ghép đẳng lập thường gợi lên những phạm
vi sự vật mang ý nghĩa phi cá thể hay tổng hợp (tức biểu thị sự vật, tính chất hay hành
động chung, mang tính chất khái quát).
Tuy có quan hệ bình đẳng về mặt ngữ pháp, nhưng không đưa đến hệ quả là ý
nghĩa từ vựng của các thành tố trong từ đều có giá trị ngang nhau trong mọi trường
hợp.
7
Từ ghép chính phụ: Là những từ ghép mà ở đó có ít nhất một thành tố cấu tạo
nằm ở vị trí phụ thuộc vào một thành tố cấu tạo khác, tức trong kiểu từ ghép này
thường có một yếu tố chính và một yếu tố phụ về mặt ngữ pháp. Loại này có những
đặc điểm sau:
- Xét về mặt ý nghĩa, nếu từ ghép đẳng lập có xu hướng gợi lên các sự vật, tính
chất có ý nghĩa khái quát, tổng hợp, thì kiểu cấu tạo này có khuynh hướng nêu lên các
sự vật mang ý nghĩa cụ thể.
- Trong từ ghép chính phụ, yếu tố chính thường giữ vai trò chỉ loại sự vật, đặc
trưng hoặc hoạt động lớn, yếu tố phụ thường được dùng để cụ thể hóa loại sự vật, hoạt
động và đặc trưng đó.
- Căn cứ vào vai trò của các thành tố trong việc tạo nghĩa, có thể chia từ ghép
chính phụ thành hai tiểu loại:
+ Từ ghép chính phụ dị biệt: là từ ghép trong đó yếu tố phụ có tác dụng phân
chia loại sự vật, hoạt động, đặc trưng cụ thể. Vì vậy có thể nói tác dụng của yếu tố phụ
ở hiện tượng này là tác dụng phân loại. Thí dụ:
Máy may, máy bơm, máy điện, máy nổ,…
Làm dâu, làm duyên, lầm việc, làm thợ,…
Vui tính, vui tay, vui miệng, vui mắt,…
+ Từ ghép chính phụ sắc thái hóa: là những từ ghép trong đó thành tố phụ có
tác dụng bổ sung một sắc thái ý nghĩa nào đó khiến cho cả từ ghép này khác với thành
tố chính khi nó đứng một mình như một từ rời, hoặc khiến cho từ ghép sắc thái hóa
này khác với từ ghép sắc thái khác về ý nghĩa. Thí dụ: so sánh xanh lè với xanh và
xanh biếc,…
1.1.2.3. Từ láy: Là những từ gồm nhiều tiếng, các tiếng được ghép lại dựa trên
quan hệ ngữ âm, có tác dụng tạo nghĩa. Đặc điểm của từ láy:
- Giữa các tiếng trong từ láy có quan hệ với nhau về mặt ngữ âm, biểu hiện ở
một trong các dạng sau:
+ Hoặc giống nhau ở phần phụ âm đầu (láy phụ âm đầu): vi vu, lau lách, vắng
vẻ,...
+ Hoặc giống nhau ở phần vần (láy vần): lác đác, đìu hiu, âm thầm, lúng
túng,…
8
+ Hoặc giống nhau ở cả phần phụ âm đầu lẫn phần vần (láy toàn phần – láy
tiếng): hao hao, xanh xanh, đo đỏ, tím tím,…
Riêng thanh điệu, ở từ láy đôi thường tuân theo quy tắc biến thanh:
Cao
-
/
?
Thấp
\
.
~
- Mối quan hệ về mặt ngữ âm trong từ láy tạo nên “sự hòa phối ngữ âm, có tác
dụng biểu trưng hóa” (Hoàng Văn Hành), tức là tạo ra một ý nghĩa biểu trưng, ý nghĩa
ấn tượng mà người bản ngữ tỏ ra nhạy cảm với nó hơn so với người không thuộc bản
ngữ.
- Trong từ láy có ít nhất một yếu tố không độc lập, nghĩa không còn đủ rõ. Như
vậy, từ láy trong tiếng Việt có thể xảy ra hai trường hợp:
+ Từ láy có một yếu tố độc lập và một yếu tố không độc lập. Thí dụ: sạch sẽ,
vắng vẻ,…
+ Từ láy có cả hai yếu tố đều không độc lập. Thí dụ: bâng khuâng, lác đác,…
Phân loại từ láy:
Kết hợp tiêu chí số lượng tiếng với các bộ phận giống nhau trong từ, có thể
phân từ láy thành các loại sau:
- Từ láy đôi: là từ láy gồm có hai tiếng . Có các dạng láy đôi như sau:
+ Từ láy bộ phận: là từ giống nhau ở phần vần hoặc phụ âm đầu. Ví dụ: sạch sẽ,
dễ dàng, chói lọi, khéo léo,..
+ Từ láy hoàn toàn: ngoại trừ những từ láy bộ phận, còn lại là các từ láy hoàn
toàn. Ví dụ: đùng đùng, lù lù, đu đủ, cỏn con,…
- Từ láy ba: chủ yếu dựa trên cơ chế láy hoàn toàn.
Ví dụ: cỏn còn con, khí khìn khit, xốp xồm xộp,...
- Từ láy tư: phần lớn dựa trên cơ sở láy đôi, một số ít phần gốc là từ ghép. Ví
dụ:
Hì hục...hì hà hì hục
Ấm ớ...ấm a ấm ớ
9
1.1.3. Nghĩa của từ
1.1.3.1. Nghĩa biểu vật
Những sự vật, quá trình, tính chất hoặc trạng thái mà từ biểu thị được gọi là
nghĩa biểu vật của từ. Hay nói khác đi, nghĩa biểu vật của từ là các ánh xạ của các sự
vật, thuộc tính ngoài ngôn ngữ vào ngôn ngữ.
Có một điều cần chú ý là các ánh xạ của các sự vật, hiện tượng trong thực tế
khách quan được phản ánh vào trong ngôn ngữ không hoàn toàn đồng nhất với các ánh
xạ được phản ánh trong tự nhiên. Ánh xạ trong ngôn ngữ có sự cải tạo lại, sáng tạo
những cái có trong thực tế theo cách nhận thức của từng dân tộc. Ta có thể chứng
minh điều này dựa vào phạm vi biểu vật của các thực từ trong một ngôn ngữ cụ thể và
dựa vào so sánh, đối chiếu phạm vi biểu vật giữa các ngôn ngữ.
Biểu hiện thứ nhất của việc không trùng nhau đó là: trong thực tế, sự vật luôn
luôn tồn tại trong dạng cá thể và cụ thể, còn nghĩa biểu vật trong ngôn ngữ lại mang
tính đồng loạt, khái quát,...
Biểu hiện thứ hai của sự không trùng nhau đó là sự chia cắt hiện thực khách
quan về nghĩa biểu vật của các ngôn ngữ.
1.1.3.2. Nghĩa biểu niệm
Sự vật hiện tượng trong thực tế khách quan có các thuộc tính, các thuộc tính đó
phản ánh vào tư duy hình thành các khái niệm. Hay nói cách khác, khái niệm là phạm
trù của tư duy, được hình thành từ những biểu hiện trong thực tế. Đấy là những dấu
hiệu bản chất về sự vật, hiện tượng.
Các thuộc tính đó phản ánh vào ngôn ngữ hình thành các nét nghĩa. Tập hợp
các nét nghĩa đó trong ngôn ngữ, hình thành nghĩa biểu niệm. Như vậy, nghĩa biểu
niệm một mặt thông qua các nghĩa biểu vật mà liên hệ với hiện thực khách quan, mặt
khác lại có quan hệ với khái niệm, qua khái niệm mà liên hệ với hiện thực ngoài ngôn
ngữ.
Vậy, nghĩa biểu niệm của từ là tập hợp một số nét nghĩa chung và riêng, khái
quát và cụ thể theo một tổ chức, một trật tự nhất định. Giữa các nét nghĩa có quan hệ
nhất định. Tập hợp này ứng với một số nghĩa biểu vật của từ. Chính vì nghĩa biểu niệm
của từ là một tập hợp có tổ chức, có quan hệ cho nên còn có thể gọi nó là cấu trúc biểu
niệm.
10
1.1.3.3. Nghĩa biểu thái
Thuộc phạm vi nghĩa biểu thái của từ bao gồm những nhân tố đánh giá như: to
nhỏ, mạnh yếu....Nhân tố cảm xúc như: dễ chiu, khó chịu, sợ hãi,...Nhân tố thái độ
như: trọng, khinh, yêu, ghét,...mà từ gợi ra cho người nói và người nghe.
Sự vật hiện tượng được biểu thị trong ngôn ngữ đều là những sự vật hiện tượng
đã được nhận thức, được thể nghiệm bởi con người. Do đó, cùng với tên gọi, con
người thường gửi kèm theo những cách đánh giá của mình. Chính vì vậy mà trong ý
nghĩa của từ còn có nghĩa biểu thái.
1.2. Trường từ vựng
1.2.1. Các quan niệm về trường
Cho đến nay vẫn chưa có sự nhất trí về các đối tượng và các tiêu chí xác định các
đối tượng ứng với thuật ngữ “trường”. Ngay cả tên gọi có khi là “trường từ”, “trường
từ vựng”, “trường nghĩa”,... Trường nghĩa là một khái niệm mới, xuất hiện vào những
năm 20 - 30 của thế kỉ này. Đến nay, có hai khuynh hướng chủ yếu:
Khuynh hướng 1: Đại diện là L.Weisgerber và J.Trier. Chịu ảnh hưởng của học
thuyết Humboldt cho rằng ngôn ngữ là các phản ánh tinh thần của một dân tộc và tư
tưởng của Saussure về tính hệ thống của ngôn ngữ. Hai ông quan niệm, trường từ vựng
là phạm vi các khái niệm mà các từ trong ngôn ngữ biểu hiện, người ta có thể tập hợp
các khái niệm thành trường bằng các đơn vị từ vựng của ngôn ngữ từng dân tộc. Tuy
nhiên, khái niệm và nghĩa của từ không hoàn toàn đồng nhất, thực chất của việc tập
hợp các khái niệm để lập thành các trường từ vựng của trường phái J.Trier không liên
quan gì đến nghĩa của từ nói riêng hay ngôn ngữ họ nói chung.
Khuynh hướng 2: Khuynh hướng này gồm nhiều nhiều hướng quan niệm nhưng
đều dựa vào các tiêu chí ngôn ngữ học.
- Hướng dựa vào hình thái và chức năng của từ: Ipsen đã thành lập các trường từ
vựng ngữ pháp. Đây là các trường cấu tạo từ, là tập hợp các từ có cùng căn tố. Thí dụ:
Measure
Measured
Measurable
Measurement
Measuredness
Measureless
Measurelessness
Measurablility...
Các từ trên cùng trường cấu tạo từ.
- Hướng dựa vào quan hệ ngữ pháp của từ: Theo hướng này, Muller và Porrig tập
hợp các từ có ngữ pháp giống nhau, nghĩa là có khả năng kết hợp giống nhau với các
11
từ khác để thành lập trường từ vựng – cú pháp. Thí dụ: trường từ vựng – cú pháp gồm
các từ có khả năng kết hợp ở phía trước với the hoặc a, an hoặc this, that trong tiếng
Anh; trường từ vựng – cú pháp gồm các từ có khả năng kết hợp ở phía trước rất, hơi,
khá và các từ ở phía sau như với, lắm, quá trong tiếng Việt...
- Hướng dựa vào các nét nghĩa phạm trù, các nét nghĩa loại: Theo hướng này,
người ta dựa vào các nét nghĩa phạm trù, nét nghĩa loại để lập các trường từ vựng –
ngữ nghĩa. Đây là tập hợp các từ có quan hệ về mặt ngữ nghĩa. Thí dụ như việc dựa
vào các nét nghĩa: màu sắc, thời gian, phương hướng hoặc thức ăn, phương tiện đi lại
trên bộ, dưới nước,…để lập thành các trường – ngữ nghĩa chỉ màu sắc, thời gian,
phương tiện đi lại,…
- Hướng dựa vào các từ mà người nghe liên tưởng tới khi nghe được một từ nào
đó. Theo hướng này, người ta lập các trường ngữ nghĩa liên tưởng. Thí dụ nghe từ lài,
trường liên tưởng ngữ nghĩa của người Việt có thể gồm các từ như: hoa, trắng trong,
thơm mát, người trồng hoa, người mà bạn đã có lần gặp khi có mùi lài, kĩ nữ, gái ăn
sương,..
1.2.2. Khái niệm trường từ vựng
Theo Đỗ Hữu Châu trong giáo trình Từ vựng học tiếng Việt thì “Trường từ vựng
ngữ nghĩa là tập hợp các từ và ngữ cố định trong từ vựng của một ngôn ngữ dựa vào
sự đồng nhất nào đấy về ngữ nghĩa”.
Quyển Từ vựng ngữ nghĩa học tiếng Việt đề cập “chúng ta thấy giữa các từ có
không ít những sự đồng nhất về hình thức và về ý nghĩa. Căn cứ vào những cái chung
giữa các từ, chúng ta sẽ tiến hành phân lập toàn bộ từ vựng của tiếng Việt thành
những hệ thống nhỏ hơn và phát hiện ra những quan hệ giữa các từ trong từ vựng”.
Từ vựng là tập hợp các từ và các đơn vị tương đương với từ của một ngôn ngữ.
Song, từ vựng không phải một tập hợp ngẫu nhiên các đơn vị này. Từ vựng là một hệ
thống. Do đó, giữa các đơn vị của hệ thống từ vựng tồn tại những mối quan hệ nhất
định. Một trong những mối quan hệ từ vựng cơ bản giữa các đơn vị từ vựng là quan hệ
về nghĩa. Các đơn vị từ vựng đồng nhất với nhau về nghĩa được tập hợp thành trường
từ vựng.
Hoạt động giao tiếp gồm hai quá trình cơ bản là quá trình tạo lập (sản sinh) và
quá trình tiếp nhận (lĩnh hội) diễn ngôn. Để tạo lập diễn ngôn, người giao tiếp phải biết
huy động vốn từ ngữ có liên quan đến hiện thực được nói tới, trên cơ sở đó lựa chọn
12
các từ ngữ phản ánh chính xác nội dung cần diễn đạt. Quá trình huy động các từ ngữ
để tạo lập diễn ngôn là quá trình xác lập trường từ vựng.
1.2.3. Phân loại trường từ vựng
Như đã thấy có nhiều hướng quan niệm về trường từ vựng và ứng với các hệ
thống ấy là cách phân loại trường khác nhau. Tổng hợp các ý kiến, người viết nhận
thấy có thể phân trường từ vựng ra thành ba loại: trường nghĩa trực tuyến (trường
nghĩa dọc) hay còn gọi là trường nghĩa biểu vật, trường nghĩa biểu niệm; trường nghĩa
tuyến tính (xét trên trục ngang – trục ngữ đoạn) và trường nghĩa liên tưởng (xét trong
việc sử dụng từ ngữ).
1.2.3.1. Trường nghĩa trực tuyến (trường nghĩa dọc)
Trường nghĩa trực tuyến là tập hợp các từ có cùng nghĩa biểu vật hay cấu trúc
biểu niệm khái quát. Vốn từ biểu niệm của một ngôn ngữ được chia thành các trường
nghĩa trực tuyến thuộc nhiều cấp độ lớn nhỏ khác nhau dựa vào nét nghĩa phạm trù
chung nhất đến các nét nghĩa loại, hạng và các nét nghĩa riêng biệt. Đây là lối sắp xếp
vốn từ của một ngôn ngữ theo các trường nghĩa biểu vật và biểu niệm, rất có lợi cho
người sử dụng. Nó tạo cơ sở cho việc soạn từ điển không sắp xếp theo trật tự chữ cái
đầu như cách tập hợp truyền thống mà theo các lĩnh vực khác nhau của cuộc sống hay
khái niệm. Thí dụ:
Màu: xanh, đỏ, tím, vàng,...
Cá: rô, lóc, chép, mè, phi,..
1.2.3.2. Trường nghĩa tuyến tính (trường nghĩa ngang)
Trường nghĩa tuyến tính là tập hợp các từ có khả năng kết hợp với một từ trung
tâm nào đó. Các từ trong hoạt động còn kết hợp với nhau theo trật tự trước sau, nghĩa
là theo chiều ngang, chiều tuyến tính. Như thế, ngoài các trường nghĩa trực tuyến lại
có thể tập hợp các từ có chung khả năng kết hợp với một từ nào đó.
Thí dụ như các trường nghĩa ngang của từ bàn:
Làm, đóng, chế tạo, sửa chữa, dọn, lau,...+ Bàn
Bàn + to, nhỏ, tốt, xấu/ gỗ, sắt, đá, nhựa,…
1.2.3.3. Trường nghĩa liên tưởng
Theo Charles Bally, mỗi từ phát ra là một kích thích có thể làm trung tâm của
một trường liên tưởng ngữ nghĩa. Từ “bò” trong tiếng Việt có thể làm ta liên tưởng tới
nhiều ý nghĩa ngoài nghĩa về con bò cụ thể hay khái niệm bò với các thuộc tính: động
13
vật có vú, loài nhai lại, có sừng, cho sữa, thịt, sức kéo, tính chịu đựng, sự nhẫn nại,
chậm chạp,...
Theo Đỗ Hữu Châu thì “khi từ ngữ của cả dân tộc hay của một người có sức
gợi liên tưởng như vậy mỗi từ sẽ thành trung tâm của một trường liên tưởng” [4; 142].
Như vậy, khi một từ được phát ra, người nghe một mặt được lĩnh hội ý nghĩ của riêng
từ ấy, mặt khác có thể liên tưởng tới nhiều sự kiện xã hội và cá nhân phong phú, sinh
động. Toàn bộ các từ được gợi lên do sự liên tưởng ấy hợp lại thành trường liên tưởng
ngữ nghĩa của từ. Lí thuyết về trường liên tưởng ngữ nghĩa có tác dụng tốt trong việc lí
giải cái gọi là thơ trừu tượng của một số tác gia văn chương. Trường liên tưởng có
hiệu lực lớn, giải thích được cách dùng từ, nhất là các từ trong tác phẩm văn học, giải
thích những hiện tượng sáo ngữ, sự ưa thích, sự né tránh hoặc kiêng kị từ ngữ. Thí dụ:
Với hình ảnh “cây tùng” ta có thể liên tưởng tới nhiều ý nghĩa khác như: người
anh hùng, đấng nam nhi, sự hùng vĩ, hiên ngang,...
“Mùa thu”: nắng, lá vàng, khai trường, Cách mạng tháng Tám, hoa cúc, hương
cốm, tết trung thu,...
Đặc điểm của trường liên tưởng:
- Tính dân tộc: về ý nghĩa, những từ ngữ được gợi ra chung quanh một trung
tâm nào đó dĩ nhiên có thể trùng nhau nhưng cũng khác nhau trong các ngôn ngữ.
Những chỗ khác nhau này là do hoàn cảnh sống, lịch sử, tâm lí,… của các dân tộc
quyết định.
- Tính thời đại: Biểu hiện trong các trường ở hai mặt:
+ Thứ nhất: Số lượng và tính chất các yếu tố thường được gợi ra trong trường.
Có thể trong giai đoạn này xuất hiện những trường mà giai đoạn kia không có, hoặc
cùng một trường nhưng số lượng và tính chất các đơn vị của nó lại khác nhau trong
từng giai đoạn.
+ Thứ hai: Ở màu sắc tình cảm, nội dung cảm xúc mà từ ngữ có thể gợi ra. Ở
mỗi thời đại, từ ngữ thường được viền quanh một vùng cảm xúc riêng không lẫn với
các thời đại khác.
- Tính cá nhân: Ngôn ngữ tuy là của chung của cả dân tộc nhưng lại tồn tại
trong từng người cho nên các trường liên tưởng ngoài những yếu tố dân tộc, thời đại
còn nhuộm màu sắc riêng tư. Lí do đó là: hoàn cảnh giai cấp, lứa tuổi, trình độ văn
hóa, sự giáo dục,… của từng người không giống nhau. Nổi bật lên là kinh nghiệm
14
sống. Sự từng trải sẽ làm cho trường liên tưởng của từng người phong phú, chứa đựng
nhiều cái bất ngờ và sẽ làm cho từ ngữ của họ có tâm hồn.
1.3. Vài nét về Tố Hữu
1.3.1. Cuộc đời
Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh ngày 04 – 10 - 1920 tại làng Phù
Lai, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Quê hương xứ Huế thơ mộng, truyền thống nho học của gia đình và làn điệu dân
ca Quan họ của quê mẹ Bắc Ninh là yếu tố quan trọng góp phần nuôi lớn hồn thơ Tố
Hữu.
Tố Hữu mồ côi mẹ từ năm 12 tuổi, cha đi làm ăn xa. Năm 13 tuổi, ông vào học
trường Quốc học Huế. Lớn lên giữa lúc phong trào cách mạng do Đảng Cộng sản
Đông Dương lãnh đạo đang phát triển mạnh mẽ, trong thời kì Cách mạng Dân chủ, Tố
Hữu sớm được giác ngộ cách mạng. Năm 1936, ông gia nhập đoàn thanh niên và trở
thành người lãnh đạo Đoàn thanh niên Dân chủ ở Huế.
Năm 1937, ông bắt đầu có thơ đăng báo.
Năm 1938, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương.
Tháng 4 – 1939, Tố Hữu bị thực dân Pháp bắt và bị đày đi nhiều nhà lao ở các
tỉnh miền Trung và Tây Nguyên. Trong tù, người chiến sĩ cộng sản luôn giữ vững khí
tiết, vừa rèn luyện ý chí vừa làm nhiều thơ cách mạng.
Tháng 3 – 1942, Tố Hữu vượt ngục Đắc Lay, trở về gây dựng cơ sở và hoạt động
bí mật tại Thanh Hóa.
Tháng 8 – 1945, làm Chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa Thừa Thiên Huế và sau đó trở
thành Bí thư Xứ ủy Trung kì.
Năm 1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Tố Hữu trở lại Thanh Hóa hoạt động
và được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa.
Năm 1947, Tố Hữu được Trung ương Đảng điều động phụ trách công tác văn
nghệ và là Trưởng tiểu ban văn nghệ Trung ương.
Năm 1948, thành lập Hội văn nghệ Việt Nam, Tố Hữu tham gia vào Ban chấp
hành Hội.
Năm 1951, tại Đại hội Đảng lần II (02/1951), ông được bầu làm Ủy viên dự
khuyết Trung ương Đảng; năm 1955, là ủy viên chính thức Trung ương Đảng.
15
Năm 1960, Đại hội Đảng lần III (9/1960), ông được bầu vào Ban Bí thư Trung
ương Đảng; tại Đại hội Đảng lần IV (1976), là Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, Bí thư
Ban chấp hành Trung ương, Trưởng ban Tuyên truyền Trung ương, Phó Ban Nông
nghiệp Trung ương. Năm 1980, là Ủy viên chính thức Bộ Chính trị; năm 1981, là Phó
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và giữ các chức vụ này cho đến năm 1986.
Với những cống hiến to lớn cho nền văn học, cho sự nghiệp Cách mạng, Tố Hữu
được Nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt 1 –
1996). Ông mất ngày 19 - 12 - 2002, thọ 82 tuổi.
1.3.2. Sự nghiệp sáng tác
Tố Hữu bắt đầu sáng tác từ rất sớm. Tác phẩm của Tố Hữu gồm 07 tập thơ và 03
tập tiểu luận:
Thơ: Từ ấy (1946), Việt Bắc (1954), Gió Lộng (1961), Ra trận (1972), Máu và
hoa (1977), Một tiếng đờn (1993), Ta với ta (2000).
Tiểu luận: Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta, với thời
đại ta (1973), Cuộc sống Cách mạng và văn học nghệ thuật (1981), Phấn đấu vì một
nền văn nghệ xã hội chủ nghĩa (1982).
Từ ấy là tập thơ đầu tay của Tố Hữu, gồm 72 bài, sáng tác trong 10 năm (1936 1946). Trong Từ ấy, không chỉ có tiếng chim rộn rã và hương hoa của niềm vui vừa
bắt gặp lí tưởng mà còn có tiếng nói cảm thông, lời an ủi, động viên chân tình đối với
những số phận bất hạnh. Hơn thế nữa, Từ ấy còn là tiếng thét căm hờn trước tội ác dã
man của thực dân và tay sai, là lời kêu gọi đoàn kết và là hồi kèn xung trận thôi thúc
mọi người tiến lên chiến đấu. Nói như Hoài Thanh: “Tố Hữu không bao giờ có cái
nhìn từ trên xuống. Tình yêu của anh là tình cưu mang lẫn nhau giữa những người bị
cuộc đời hắt hủi… Tình yêu thương ấy trong bài thơ đầu rất rõ ràng là tình hữu ái giai
cấp” [18; 77].
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ
(Từ ấy)
Việt Bắc là tập thơ gồm 24 bài, được sáng tác chủ yếu trong thời kì kháng chiến
chống Pháp (trong đó có 06 bài dịch và 03 bài sáng tác sau 1954). Nếu Từ ấy là khúc
16
ca trữ tình sôi nổi, quyết liệt của một thanh niên yêu nước vừa giác ngộ lí tưởng Cách
mạng thì Việt Bắc là bản đại hợp xướng về nhân dân, đất nước ta trong kháng chiến, là
khúc ca ngọt ngào về nghĩa tình và lòng thủy chung cách mạng. Việt Bắc là bức tranh
chân thực và sinh động về hiện thực cuộc kháng chiến: gian khổ, vất vả, thiếu thốn
trăm bề mà chan chứa nghĩa tình (tình quân dân, tình đồng chí đồng bào, tình hữu ái
giai cấp). Ở đó, các hình ảnh, nhân vật trở nên gần gũi, thân thương và tươi đẹp vô
ngần:
Bầm yêu con, Bầm yêu đồng chí
Bầm quý con, Bầm quý anh em
(Bầm ơi!)
Nhà em con bế con bồng
Em cũng theo chồng đi phá đường quan
(Phá đường)
Bác ngồi đó lớn mênh mông
Trời cao, biển rộng, ruộng đồng, núi non
(Sáng tháng năm)
Gió lộng gồm 25 bài, sáng tác trong 06 năm (1955 – 1961), tập trung vào hai
mảng đề tài lớn: công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và phong trào đấu
tranh chống Mĩ Ngụy ở miền Nam để thống nhất đất nước. Tập thơ mở ra niềm vui lớn
vì một nửa đất nước được giải phóng, cuộc sống mới với những mối quan hệ xã hội tốt
đẹp đang từng bước được khẳng định:
Một vùng trời đất trong tay
Dẫu chưa toàn vẹn, đã bay cờ hồng
(Bài ca xuân năm 1961)
Nhưng niềm vui đó chưa trọn vẹn vì đồng bào niền Nam còn đang trong kiếp đời
nô lệ. Vì thế, Gió lộng còn nung nấu niềm căm uất và quyết tâm giải phóng miền Nam:
Đường giải phóng mới đi một nửa
Nửa mình còn trong nước lửa sôi
…
Căm hờn lại giục căm hờn
Máu kêu trả máu, đầu van trả đầu
(Ba mươi năm đời ta có Đảng)
17
- Xem thêm -