ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM THỊ HOA LỆ DIỄM
TRỌNG TÀI VỤ VIỆC THEO PHÁP LUẬT TRỌNG TÀI
THƢƠNG MẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành:
Luật Kinh tế
Mã ngành:
60 38 50
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
Hà Nội - 2010
GS.TSKH Đào Trí Úc
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu,
ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy
định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ
Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Phạm Thị Hoa Lệ Diễm
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng, đồ thị, biểu đồ
1.1.
Mở ĐầU
1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRỌNG TÀI
THƢƠNG MẠI.
Những vấn đề lý luận về Trọng tài thương mại.
5
5
1.1.1. Khái niệm Trọng tài và Trọng tài thương mại.
5
1.1.2. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài thương mại.
9
1.1.3. Các hình thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài.
15
1.1.4. So sánh hình thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài với các hình
thức giải quyết tranh chấp khác như: thương lượng, hòa giải, tòa án.
1.2.
Pháp luật Việt Nam về hình thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng
Trọng tài vụ việc.
20
28
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của Trọng tài vụ việc;
28
1.2.2. Thành lập và hoạt động hội đồng Trọng tài vụ việc;
31
1.2.3. So sánh hình thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài vụ việc với
Trọng tài thường trực.
1.2.4. Vai trò của Tòa án trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại
bằng Trọng tài vụ việc.
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VỀ TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA
TRỌNG TÀI VỤ VIỆC Ở VIỆT NAM
2.1.
Thực trạng về tình hình giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài.
2.2.
Các nguyên nhân dẫn đến thực trạng hoạt động trên của Trọng tài
thương mại Việt Nam.
44
49
59
59
67
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA TRỌNG TÀI VỤ VIỆC.
81
3.1.
Phương hướng nâng cao hiệu quả hoạt động của Trọng tài vụ việc.
84
3.2.
Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả hoạt động của Trọng tài vụ việc
85
KẾT LUẬN
92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
94
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
AAA
Hiệp hội Trọng tài Hoa Kỳ
ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á
BLTTDS
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004
GATS
Hiệp định chung về thương mại dịch vụ
GATT
Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch
GATFTA
Khu vực thương mại tự do ả Rập
HKIAC
Trung tâm Trọng tài Quốc tế Hồng Kong
ICC
Phòng thương mại quốc tế
TAND
Tòa án nhân dân
TTTM
Trọng tài thương mại
TTTT
Trung tâm trọng tài
TTTTKT
Trung tâm Trọng tài kinh tế
TTTTTM
Trung tâm Trọng tài thương mại
TRIMs
Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại
TRIPs
Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyển sở
hữu trí tuệ
UNCITRAL
ủy ban pháp luật thương mại quốc tế của Liên hợp quốc
VIAC
Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt nam bên cạnh Phòng thương
mại và Công nghiệp Việt Nam
WTO
Tổ chức thương mại quốc tế
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG, ĐỒ THỊ, BIỂU ĐỒ
Số hiệu
bảng, đồ
Tên bảng, đồ thị, biểu đồ
Trang
thị, biểu đồ
Bảng 2.1
Thống kê các vụ tranh chấp được giải quyết tại Trung tâm
Trọng tài quốc tế Việt Nam từ năm 1993 - 2002.
60
Thống kê các vụ giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài tại các
Bảng 2.2
trung tâm Trọng tài ở Việt Nam trong các năm 2004, 2005,
62
2006.
Đồ thị 2.1
Mức độ ưu tiên lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp
64
Biểu đồ 2.1
Thực trạng sử dụng Trọng tài để giải quyết tranh chấp
64
Biểu đồ 2.2
Nguyên nhân các bên tranh chấp ít sử dụng Trọng tài để giải
quyết tranh chấp.
65
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh Việt nam đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế và khu
vực, mà một trong những hệ quả của nó là sự tăng lên nhanh chóng các hoạt động kinh
tế, thương mại và đầu tư. Nền kinh tế phát triển, một vấn đề mang tính tất nhiên là các
tranh chấp kinh tế xảy ra dưới rất nhiều hình thức khác nhau: tranh chấp giữa các chủ
thể trong giao kết hợp đồng; tranh chấp phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh
như tranh chấp giữa các thành viên trong công ty, tranh chấp về cổ phần cổ phiếu, tranh
chấp giữa công ty và các thành viên trong công ty... Vậy khi phát sinh tranh chấp thì
vấn đề đặt ra là các doanh nghiệp lựa chọn hình thức nào để giải quyết các tranh chấp
đó.
Trên thế giới hiện nay có hai hình thức giải quyết tranh chấp cơ bản và phổ biến
nhất là: Tòa án và trọng tài, mỗi hình thức đó có những ưu điểm và hạn chế khác nhau.
ở Việt Nam cũng tồn tại hai hình thức giải quyết tranh chấp này, song hình thức giải
quyết bằng con đường Tòa án vẫn là chủ yếu. Ngày 10/3/2003 Pháp lệnh TTTM ra đời,
quy định một cách chi tiết, có hệ thống hơn về mặt thủ tục và tạo nhiều điều kiện thuận
lợi cho sự ra đời và hoạt động của các trung tâm trọng tài. Có thể nói pháp lệnh là một
bước tiến tích cực, đưa pháp luật Việt Nam từng bước xích lại các quy tắc và chuẩn
mực quốc tế. Đây là một điều đáng lẽ là rất vui mừng cho các doanh nghiệp và thương
nhân khi hệ thống Tòa án đã trở nên quá tải với việc giải quyết các loại tranh chấp.
Song sau bảy năm triển khai trên thực tiễn, kể từ khi Pháp lệnh ra đời, kết quả cho thấy
các doanh nghiệp vẫn rất thờ ơ với trọng tài, thậm chí có nhiều doanh nhân còn không
hiểu biết gì về hình thức giải quyết này.
Trọng tài vụ việc (hay còn gọi là Trọng tài ad hoc) là một trong những hình thức
giải quyết tranh chấp của TTTM được lập ra theo yêu cầu của các đương sự để giải
quyết một vụ tranh chấp cụ thể và tự giải thể khi tranh chấp đó đã được giải quyết. Bản
chất của hình thức Trọng tài này là đề cao thiện chí giải quyết vụ tranh chấp của các
bên đương sự. Do thủ tục tố tụng của Trọng tài vụ việc không bắt buộc phải tiến hành
1
theo quy tắc của một tổ chức Trọng tài nào mà do các bên tự thỏa thuận nên quyền tự
định đoạt của các bên tranh chấp là rất lớn, chỉ cần hai bên có thiện chí thì tranh chấp sẽ
được giải quyết nhanh gọn, thuận tiện. Trọng tài vụ việc có thể nói là phương thức giải
quyết rất thích hợp với các tranh chấp trong hoạt động thương mại.
ở Việt Nam tuy hình thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài đã được hình
thành khá lâu nhưng phải đến khi Pháp lệnh TTTM 2003 ra đời, Trọng tài vụ việc mới
chính thức được thừa nhận. Song các quy định trong pháp luật Việt Nam về hình thức
Trọng tài này vẫn còn sơ sài, chưa cụ thể chi tiết, vì vậy chưa thể hiện được hết những
tính năng ưu việt của loại hình này. Dẫn đến hình thức Trọng tài vụ việc vẫn là khá mới
mẻ với các doanh nghiệp và các vụ việc giải quyết bằng hình thức này vẫn còn rất ít ỏi,
chưa tương xứng với những tính năng ưu việt của nó.
Tác giả chọn đề tài này vì những lí do sau đây:
- Trên cơ sở đối chiếu các quy định với thực tiễn sử dụng Trọng tài trong giải
quyết tranh chấp, luận văn tìm ra những mặt hạn chế, tích cực của các quy định pháp
luật hiện hành, từ đó đưa ra những ý kiến đề xuất phù hợp để khắc phục những hạn
chế của pháp luật Việt Nam hiện hành về vấn đề TTTM với hình thức Trọng tài giải
quyết theo lựa chọn của các bên tranh chấp - Trọng tài vụ việc, góp phần xây dựng các
luận cứ khoa học cho việc đổi mới và hoàn thiện pháp luật về TTTM ở Việt Nam.
- Cho tới thời điểm hiện nay việc giải quyết các tranh chấp thương mại tại Trung
tâm TTTM là rất ít so với Tòa án. Theo thống kê của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt
Nam (VIAC) trong năm 2007 VIAC chỉ tiếp nhận khoảng 30 vụ trong khi Tòa án kinh
tế Hà Nội phải xử gần 300 vụ, trong đó việc sử dụng hình thức Trọng tài vụ việc lại
càng ít hơn. Thực tế này cho thấy loại hình “dịch vụ” này chưa thu hút được sự chú ý
của các khách hàng là các doanh nghiệp và các thương nhân. Nguyên nhân của tình
trạng này có thể do tính quá mới của hình thức giải quyết tranh chấp này, cũng có thể
do các quy định của pháp luật Trọng tài còn chưa phù hợp với thực tiễn. Việc nghiên
cứu một cách sâu sắc các quy định pháp luật về Trọng tài thương mại, đặc biệt là các
hình thức giải quyết của nó sẽ giúp cho việc lựa chọn các hình thức giải quyết tranh
2
chấp thương mại phù hợp hơn với thực tế các vụ tranh chấp và thói quen trong giải
quyết tranh chấp trong hoạt động thương mại của nước ta.
- Việc nghiên cứu đề tài nhằm góp phần nâng cao nhận thức của các chủ thể hoạt
động kinh doanh và của công dân về Trọng tài và sử dụng Trọng tài vào việc giải quyết
các tranh chấp thương mại.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu:
Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, những vấn đề pháp lý của TTTM
Việt nam theo Pháp luật về TTTM Việt nam, dựa trên những cơ sở sau đây:
1) Nghiên cứu, khái quát lý luận về Trọng tài thương mại.
2) Nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện các quy định của pháp luật
Việt Nam hiện hành điều chỉnh về các hình thức Trọng tài nói chung và Trọng tài vụ
việc nói riêng.
3) Phân tích thực trạng của việc sử dụng Trọng tài vụ việc trong giải quyết các
tranh chấp thương mại của các doanh nghiệp và thương nhân Việt Nam.
4) Đưa ra những mặt hạn chế và tích cực của pháp luật hiện hành, qua đó đề ra
giải pháp khắc phục những hạn chế đó góp phần vào việc sửa đổi, bổ sung những quy
định pháp lý liên quan đến việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng Trọng tài vụ
việc nói riêng và Trọng tài nói chung.
3. Tình hình nghiên cứu vấn đề này ở Việt Nam và ý nghĩa lý luận của đề tài.
Hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu bao gồm: Luận văn tốt nghiệp đại
học, luận văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ...về vấn đề Trọng tài thương mại. Ví dụ một vài
công trình nghiên cứu như: Luận án thạc sỹ luật học “Giải quyết tranh chấp thương mại
có yếu tố nước ngoài bằng TTTM Việt Nam, những vấn đề lý luận và thực tiễn”, của Vũ
Thị Ngân Hà, Đại học Quốc gia Hà Nội (2006); Luận án thạc sỹ luật học “Giải quyết
tranh chấp đầu tư nước ngoài bằng Trọng tài ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập
quốc tế” của Nguyễn Thị Hường, Đại học Quốc Gia Hà Nội (2008); Luận án tiến sỹ
luật học, “Hoàn thiện pháp luật về tài phán kinh tế ở Việt Nam hiện nay”, của Nguyễn
Thị Hoài Phương, Viện Nhà nước và Pháp luật (2007); Luận án tiến sỹ luật học. Hoàn
thiện pháp luật về TTTM của Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế”, của Nguyễn
3
Đình Thơ, Đại học Luật Hà Nội (2007). Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hình
thức Trọng tài vụ việc đã được đề cập trong các công trình nghiên cứu nhưng chưa
chuyên sâu, còn rải rác trong các bài báo, bài viết của các luật gia, chưa có một công
trình nghiên cứu một cách sâu sắc và toàn diện về vấn đề này.
Trước thực trạng về sử dụng Trọng tài vụ việc trong giải quyết các tranh chấp
thương mại đã và đang diễn ra hiện nay, việc nghiên cứu một cách có hệ thống việc sử
dụng Trọng tài vụ việc trong giải quyết tranh chấp thương mại có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn sâu sắc. Đề tài mang ý nghĩa lý luận cho việc hoàn thiện các quy phạm pháp
luật đảm bảo sự thuận lợi, hợp lý trong việc chọn phương thức giải quyết tranh chấp
bằng Trọng tài của các doanh nghiệp và trong hoạt động tố tụng của các trung tâm
trọng tài.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Với đề tài này tác giả sẽ sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh các
quy định của pháp luật TTTM Việt Nam về vấn đề nghiên cứu, để từ đó rút ra kết luận
về những ưu điểm và những hạn chế của hình thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài
so với hình thức giải quyết tranh chấp khác, của hình thức Trọng tài vụ việc với Trọng
tài thường trực. Ngoài ra tham khảo các quy định trong luật mẫu về TTTM quốc tế của
ủy ban Liên hợp quốc về TTTM quốc tế để từ đó có thể thấy được sự tương đồng cũng
như khác biệt trong quy định pháp luật Trọng tài của Việt Nam để từ đó có những điều
chỉnh cho thích hợp khi hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
5. Bố cục của luận văn:
Trong luận văn này, ngoài phần Mở đầu, các nội dung chính của luận văn như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về Trọng tài thương mại.
Chương 2: Thực trạng về tình hình hoạt động của Trọng tài vụ việc ở Việt Nam.
Chương 3: Phương hướng và các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Trọng tài
vụ việc
Kết luận.
4
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG
MẠI
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI
1.1.1. Khái niệm Trọng tài và Trọng tài thƣơng mại.
Dưới góc độ ngữ nghĩa, theo Từ điển Tiếng Việt “Trọng tài” là người được cử,
đề ra để phân xử, giải quyết những vụ tranh chấp.[39] Còn theo Từ điển Hán Việt thì
“Khi hai bên tranh chấp đứng ở giữa để phân xử gọi là trọng tài”.
Kinh nghiệm nhiều nước cho thấy Trọng tài là phương thức giải quyết tranh
chấp “tư” lâu đời và thậm chí ra đời trước cả Tòa án (có thông tin về sự tồn tại của
Trọng tài từ thời Ai Cập, Hy Lạp cổ đại). Trọng tài được sử dụng rộng rãi nhất trong
quan hệ kinh doanh, thương mại nhưng cũng được sử dụng nhiều trong giải quyết các
tranh chấp khác như: lao động, dân sự, bảo vệ người tiêu dùng, gia đình và thậm chí
giải quyết các các tranh chấp giữa các quốc gia với nhà đầu tư nước ngoài. Hiện tại thì
Trọng tài được khuyến khích sử dụng tại hầu hết các nước trên thế giới vì những ưu
điểm của nó.
Theo WTO, Trọng tài là một trong những dịch vụ thương mại giống như nhiều
dịch vụ thương mại khác, tức là có yếu tố cạnh tranh và thị trường.[18]
Theo pháp lệnh TTTM Việt nam 2003 Trọng tài là phương thức giải quyết các
tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại được các bên thỏa thuận và được tiến
hành theo trình tự, thủ tục tố tụng do Pháp lệnh quy định.
Như vậy dù được xem xét ở góc độ nào đi nữa, Trọng tài trước hết được hiểu là
một phương thức để phân xử các tranh chấp. ở đây Trọng tài đóng vai trò người trung
gian (thứ ba) để dàn xếp giải quyết mâu thuẫn một cách hợp lý và công tâm. Người thứ
ba này có thể là tổ chức hoặc cá nhân nhưng nhất thiết phải được các bên tranh chấp tự
do lựa chọn.
Thể chế Trọng tài luôn thể hiện tính chất hai mặt đó là thỏa thuận và tài phán,
tính chất hai mặt này làm nên sự khác biệt của hình thức giải quyết tranh chấp bằng
Trọng tài so với các hình thức giải quyết tranh chấp khác. Trong nhiều lĩnh vực của đời
sống đều có thể áp dụng hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Tuy nhiên với
5
những đặc điểm của Trọng tài làm cho nó đặc biệt phù hợp với các tranh chấp trong
kinh doanh thương mại.
Thuật ngữ “Thương mại” theo Bách khoa toàn thư mở - thương mại được hiểu là
hoạt động trao đổi của cải, hàng hóa, dịch vụ, kiến thức, tiền tệ vv… giữa hai hay nhiều
đối tác, và có thể nhận lại một giá trị nào đó (bằng tiền thông qua giá cả) hay bằng hàng
hóa, dịch vụ khác như trong hình thức thương mại hàng đổi hàng. Trong quá trình này,
người bán là người cung cấp của cải, hàng hóa, dịch vụ...cho người mua, đổi lại người
mua sẽ phải trả cho người bán một giá trị tương đương nào đó.
ở Việt Nam thuật ngữ “Thương mại” được sử dụng khá rộng rãi trong đời sống
xã hội và trong nhiều các văn bản quy phạm pháp luật như: Luật Công ty và Luật
Doanh nghiệp tư nhân năm 1990. Theo Luật Thương mại Việt Nam 1997, khái niệm
“thương mại” được hiểu theo nghĩa hẹp, bao gồm 14 hành vi điều chỉnh các quan hệ
mua bán hàng hoá và dịch vụ liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hoá. Đối tượng của
việc mua bán hàng hoá bị giới hạn ở các động sản, chủ yếu là các máy móc, thiết bị,
nguyên liệu, vật liệu phục vụ sản xuất, tiêu dùng, các động sản khác được lưu thông
trên thị trường, nhà ở dùng để kinh doanh dưới hình thức cho thuê, mua bán (Điều 5
Luật Thương mại 1997). Các bất động sản như nhà máy, công trình xây dựng (không
phải là nhà ở), các quyền tài sản như cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các hành vi liên
quan trực tiếp đến mua bán hàng hoá như vận chuyển hàng, thanh toán tiền mua hàng
qua hệ thống ngân hàng... không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật thương mại 1997.
Việc xác định phạm vi điều chỉnh theo diện hẹp của Luật Thương mại 1997 trên thực tế
đã phát sinh nhiều vấn đề, không chỉ trong quá trình thực hiện các giao dịch thương
mại mà còn ảnh hưởng đến việc giải quyết các tranh chấp thương mại, tiếp sau đó là
việc công nhận và cho thi hành các bản án, phán quyết của Trọng tài nước ngoài. Thực
tế cho thấy nhiều bản án của toà án và phán quyết của Trọng tài nước ngoài, đặc biệt là
các vụ tranh chấp liên quan đến đầu tư, xây dựng... đã không được thực thi ở Việt Nam
do nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của Luật Thương mại.
Trong khi đó, ở các nước trên thế giới, khái niệm thương mại ngày càng được
mở rộng ra với một nội hàm rộng lớn, bao gồm tất cả các hoạt động nhằm mục đích tìm
6
kiếm lợi nhuận. Chẳng hạn như, Bộ luật thương mại số 48 của Nhật Bản ngày
9/3/1899, thuật ngữ thương mại được dùng để chỉ những hoạt động mua bán nhằm mục
đích lợi nhuận và hầu hết các dịch vụ trên thị trường như dịch vụ vận tải, cung ứng điện
hay khí đốt, uỷ thác, bảo hiểm, ngân hàng. Luật Thương mại của Philippin tuy không
đưa ra các hành vi thương mại cụ thể mà quy định phạm vi điều chỉnh là các hoạt động
nhằm thúc đẩy sự trao đổi hàng hoá và dịch vụ với mục đích thu lợi nhuận. Bộ luật
thương mại của Thái Lan cũng đưa ra khái niệm thương mại khá rộng không chỉ bao
gồm việc mua bán hàng hoá mà cả các hoạt động thuê tài sản, thuê mua tài sản, tín
dụng, thế chấp, đại diện, môi giới, bảo hiểm, công ty, hợp danh... Cách hiểu khái niệm
thương mại nêu trên cũng tương đồng với cách hiểu trong một số Hiệp định quan trọng
của ASEAN, Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại quốc tế gồm nhiều Hiệp định
cấu thành như Hiệp định GATT, GATS, TRIMs, TRIPs,... [40]
Luật Thương mại 2005 được ban hành ngày 14 /6/2005 thay thế Luật Thương
mại 1997 đã cho ra đời khái niệm “ Hoạt động thương mại”. Theo đó hoạt động thương
mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch
vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác. (Điều 3,
khoản 1, Luật thương mại 2005). Khái niệm hoạt động thương mại theo Luật thương
mại 2005 của Việt Nam đã được mở rộng theo quan niệm thương mại của UNCITRAL
và của WTO. Việc mở rộng này tạo cơ sở cho việc thích ứng pháp luật thương mại Việt
Nam với pháp luật trong nước hiện hành và pháp luật thương mại quốc tế, đáp ứng
được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Trọng tài - tuy là một hình thức giải quyết tranh chấp có lịch sử phát triển khá
lâu dài ở nước ta (từ những năm 60), song khái niệm “Trọng tài thương mại” chỉ mới
được ghi nhận năm 2003 với sự ra đời của Pháp lệnh Trọng tài thương mại. Bởi hệ
thống Trọng tài trước đó là “Trọng tài kinh tế” - một cơ quan hành chính nhà nước có
chức năng giải quyết các tranh chấp trong hợp đồng kinh tế giữa các doanh nghiệp nhà
nước. Cùng với sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, Trọng tài đã dần trở thành
một tổ chức phi chính phủ có chức năng tài phán. Pháp lệnh TTTM là mốc quan trọng
trong lịch sử phát triển của pháp luật Trọng tài của Việt Nam. Đó là nền tảng pháp lý
7
cho Trọng tài hoạt động tiếp cận, hoà nhập với Trọng tài của các nước phát triển, khẳng
định bản chất pháp lý và vai trò quan trọng của Trọng tài trong giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại. Khái niệm TTTM được thay thế cho khái niêm Trọng tài kinh
tế hay Trọng tài phi chính phủ trước đây và bản chất pháp lý của khái niệm này được
xác định đầy đủ trong Pháp lệnh Trọng tài Thương mại.
Theo Pháp lệnh TTTM 2003 thì Trọng tài là “phương thức giải quyết tranh chấp
phát sinh trong hoạt động thương mại” và hoạt động thương mại được hiểu là “Việc
thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm
mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý thương mại; ký gửi;
thuê; cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li - xăng; đầu tư; tài chính, ngân
hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường
hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và các hành vi thương mại khác theo quy
định của pháp luật”. Như vậy theo quy định của Pháp lệnh thì TTTM chỉ giải quyết các
tranh chấp trong lĩnh vực thương mại, giữa các chủ thể là cá nhân và tổ chức kinh
doanh. Tuy nhiên trong quá trình triển khai trên thực tế khái niệm này đã bộc lộ nhiều
điểm bất cập với thực tế cũng như với các quy định pháp luật hiện hành như: khó phân
biệt tranh chấp dân sự với tranh chấp thương mại dẫn đến phán quyết của Trọng tài dễ
bị Tòa án tuyên hủy, nhiều tranh chấp không được giải quyết vì không xuất phát từ
hành vi thương mại hay các bên không phải là “cá nhân, tổ chức kinh doanh”...
Khắc phục hạn chế trên, Luật Trọng tài thương mại 2010 ra đời thay thế Pháp
lệnh đã có cách nhìn nhận mở rộng về khái niệm này, theo đó Trọng tài thương được
hiểu là “phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thoả thuận và được tiến hành
theo quy định của Luật này”, và mở rộng thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của
TTTM không chỉ giới hạn trong lĩnh vực thương mại mà cả các tranh chấp khác mà
pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài. (Điều 2).
Có thể nói Luật TTTM hiện hành đã xây dựng được khái niệm “Trọng tài
thương mại” một cách hoàn chỉnh nhất, đáp ứng được nhu cầu thực tiễn giải quyết
tranh chấp kinh doanh hiện nay và tương thích với hệ thống pháp luật hiện hành của
trong nước cũng như trên thế giới.
8
1.1.2. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài thƣơng mại.
Thẩm quyền của Trọng tài được hiểu là giới hạn của những vụ việc mà Trọng tài
được quyền giải quyết, thể hiện ở hai nội dung cơ bản: Phạm vi các loại việc Trọng tài
được giải quyết và thẩm quyền của các Trung tâm Trọng tài về giải quyết tranh chấp
theo sự lựa chọn của các bên tranh chấp.
- Thẩm quyền theo phạm vi các loại việc đƣợc gải quyết
Mặc dù hoạt động của Trọng tài là theo sự thoả thuận của các bên nhưng nếu
tranh chấp đó không được pháp luật quy định thuộc thẩm quyền Trọng tài thì Trọng tài
không được giải quyết, nếu giải quyết thì quyết định của Trọng tài sẽ bị Toà án huỷ khi
có yêu cầu.
Pháp luật các nước thường xác định phạm vi thẩm quyền của Trọng tài theo hai
cách. Cách thứ nhất liệt kê những tranh chấp có thể giải quyết bằng trọng tài. Theo cách
này, những tranh chấp nằm ngoài phạm vi được liệt kê Trọng tài không thể giải quyết.
Cách quy định này tạo thuận lợi cho người nghiên cứu nhưng có điểm hạn chế là không
bao quát, dự liệu được các tranh chấp có thể giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài nên
sẽ hạn chế quyền lựa chọn của các bên tranh chấp và hạn chế hiệu quả hoạt động của
Trọng tài. Phương pháp này sẽ không phù hợp với những nước có nền kinh tế thị
trường đa dạng về chủ thể và các loại tranh chấp.
Cách thứ hai liệt kê các loại việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của Trọng
tài. Theo phương pháp loại trừ này, thẩm quyền của Trọng tài được xác định ở phạm vi
mở, tạo khả năng thích ứng và linh hoạt trong tố tụng trọng tài. Nhiều quốc gia áp dụng
cách thứ hai, theo đó về nguyên tắc không cho phép Trọng tài giải quyết các vấn đề liên
quan về: quyền nhân thân; tình trạng cá nhân, quan hệ hôn nhân, gia đình; tranh chấp
về phá sản, vỡ nợ công ty, về sở hữu trí tuệ; tranh chấp liên quan đến trật tự công cộng,
lợi ích công... [40]
Pháp lệnh TTTM năm 2003 xác định phạm vi thẩm quyền theo cách liệt kê các
loại việc Trọng tài được giải quyết (Khoản 3 Điều 2 Pháp lệnh Trọng tài Thương mại).
So với các quy định trước đây cách liệt kê này cũng đã mở rộng phạm vi Trọng tài ở rất
nhiều lĩnh vực. Theo quy định tại Pháp lệnh thì thỏa thuận Trọng tài chỉ có giá trị pháp
9
lý đối với các tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại. Điều đó có nghĩa, bất cứ
hoạt động thương mại nào theo quy định của pháp luật chung, các bên có thể bắt đầu
định hướng việc giải quyết tranh chấp bằng việc ký kết hợp đồng có điều khoản về thỏa
thuận trọng tài. Tuy nhiên qua 6 năm áp dụng và thi hành trên thực tế đã bộc lộ một số
hạn chế nhất định về vấn đề này.
Thứ nhất, đã có cách hiểu khác nhau về thuật ngữ “Thương mại” trong Pháp
lệnh. Điều này dẫn đến tranh cãi trong việc xác định phạm vi giải quyết tranh chấp của
trọng tài. Đó là các tranh chấp phát sinh trong nội bộ doanh nghiệp liên quan đến việc
góp vốn, cổ phần, cổ phiếu...liệu có được giải quyết bằng Trọng tài khi trong Điều 3
khoản 2 không liệt kê. Có ý kiến cho rằng các loại tranh chấp này đương nhiên thuộc
thẩm quyền của Trọng tài bởi vì việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu cũng như việc góp
vốn chính là hoạt động đầu tư, tài chính vì có bản chất kinh doanh thu lợi nhuận. Hơn
nữa, cần phải hiểu tính “mở” của khái niệm thuật ngữ thương mại trong Pháp lệnh.
Theo đó, ngoài việc liệt kê các hành vi thương mại, Pháp lệnh còn quy định “các hành
vi thương mại khác theo quy định của pháp luật”. Do vậy, bất kỳ quy định nào của
pháp luật xác định lĩnh vực hoạt động là thương mại thì Trọng tài đều có thẩm quyền
giải quyết.
Tuy nhiên, có ý kiến khác cho rằng Trọng tài không có thẩm quyền giải quyết
các loại tranh chấp trên bởi vì các tranh chấp này không được liệt kê cụ thể tại Khoản 3
Điều 2 của Pháp lệnh. Do vậy, chỉ có Tòa án mới có thẩm quyền giải quyết các tranh
chấp này theo quy định tại Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004.
Từ sự hiểu khác nhau về thuật ngữ “Thương mại” trong Pháp lệnh dẫn đến sự
khác nhau về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Tòa án và Trọng tài. Cụ thể, dựa
theo quan điểm “mở” Trọng tài có thể thụ lý giải quyết các tranh chấp thuộc Điều 29
nêu trên. Tuy nhiên, nếu áp dụng một cách máy móc và dựa theo nguyên tắc “chỉ được
làm những gì luật pháp cho phép”, Tòa án sẽ cho rằng Trọng tài vượt quá thẩm quyền.
Điều này dẫn đến hậu quả là các quyết định Trọng tài có nguy cơ không được Tòa án
công nhận và cho thi hành.
10
Thứ hai, đó là phạm vi các chủ thể được giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài.
Điều 2 khoản 1 Pháp lệnh quy định “Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp
phát sinh trong hoạt động thương mại được các bên thỏa thuận và được tiến hành theo
trình tự, thủ tục tố tụng do Pháp lệnh này quy định”. Theo quy định trên, thuật ngữ
“các bên” sẽ có hàm ý rất rộng, các bên có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Trong khi đó,
Nghị định của Chính phủ số 25/2004/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của
Pháp lệnh lại giới hạn phạm vi chủ thể chỉ bao gồm “cá nhân kinh doanh hoặc tổ chức
kinh doanh”. Cụ thể, Điều 2 của Nghị địn h quy định “ TTTM có thẩm quyền giải
quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại quy định tại khoản 3 Điều 2
của Pháp lệnh mà các bên tranh chấp là cá nhân kinh doanh hoặc tổ chức kinh doanh”.
Như vậy, trong khi tinh thần của Pháp lệnh thì “mở” nhưng văn bản hướng dẫn
thi hành, tuy có hiệu lực thấp hơn, lại đưa ra quy định “đóng”. Điều này khiến các
Trung tâm Trọng tài đã phải từ chối rất nhiều vụ tranh chấp do chủ thể ký thoả thuận
Trọng tài không phải là “tổ chức, cá nhân kinh doanh”.
Trong thực tế, có rất nhiều tổ chức, như các ban quản lý dự án, tham gia đấu
thầu hoặc giao kết các hợp đồng, trong đó sử dụng Trọng tài theo khuyến nghị của các
nhà tài trợ, định chế tài chính như Ngân hàng thế giới, Ngân hàng Phát triển Châu á...
Tuy nhiên, khi phát sinh tranh chấp, các trung tâm Trọng tài của Việt Nam sẽ phải từ
chối giải quyết vì các chủ thể này không phải là tổ chức kinh doanh. Điều này không
phù hợp với pháp luật và thực tiễn Trọng tài quốc tế vốn chỉ nhấn mạnh tiêu chí thoả
thuận, nghĩa là khi có thoả thuận của các bên chọn Trọng tài thì Trọng tài sẽ có thẩm
quyền. Còn tiêu chí chủ thể ký thoả thuận Trọng tài không có ý nghĩa quan trọng, thậm
chí trong một số trường hợp chủ thể ký thoả thuận Trọng tài là Nhà nước thì thoả thuận
Trọng tài vẫn có giá trị bởi vì bằng việc tự nguyện ký kết thoả thuận trọng tài, Nhà
nước đã “từ bỏ” quyền miễn trừ của mình. [40]
Do những bất cập trên Luật TTTM 2010 đã mở rộng phạm vi thẩm quyền của
Trọng tài cả về lĩnh vực tranh chấp và các bên tranh chấp. Về lĩnh vực tranh chấp:
Trọng tài được quyền giải quyết tranh chấp không chỉ trong thương mại mà cả các
11
tranh chấp khác. Vì trên thực tiễn giải quyết tranh chấp tại Tòa án và Trọng tài ở Việt
nam cho thấy việc phân biệt các vụ việc tranh chấp dân sự và tranh chấp kinh doanh
thương mại là rất khó, dẫn đến nhiều vụ việc không được thụ lý, nhiều phán quyết
Trọng tài dễ dàng bị Tòa án tuyên hủy vô hiệu do không đúng thẩm quyền vì cho rằng
vụ tranh chấp không xuất phát từ hành vi thương mại, cũng như khó khăn của Tòa án
và Trọng tài trong việc xác định thế nào là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi. Về các
bên tranh chấp: TTTM được giải quyết tranh chấp phát sinh giữa các bên mà ít nhất
một trong các bên có hoạt động thương mại mà không nhất thiết phải là các tổ chức, cá
nhân kinh doanh như phân tích ở trên. Quy định này của Luật TTTM góp phần bảo
đảm cho thỏa thuận Trọng tài không bị vô hiệu, phán quyết Trọng tài không có nhiều
nguy cơ bị Tòa án tuyên hủy, tạo hành lang pháp lý rộng rãi, an toàn, vững chắc hơn
cho cơ chế giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài.
- Thẩm quyền theo sự thỏa thuận lựa chọn của các bên tranh chấp
Thẩm quyền của các Trung tâm Trọng tài không được pháp luật phân định theo
vụ việc hay lãnh thổ mà hoàn toàn phụ thuộc vào sự lựa chọn của các bên. Nói đúng
hơn thẩm quyền của các Trung tâm Trọng tài giống nhau nhưng nơi nào chưa được lựa
chọn thì có quyền giải quyết tranh chấp. Quy định này của Luật TTTM đã tạo nên một
mặt bằng pháp lý bình đẳng cho tất cả các Trung tâm Trọng tài trên cả nước.
Căn cứ pháp lý để xác định vụ việc thuộc thẩm quyền của mỗi Trung tâm Trọng
tài là thoả thuận Trọng tài do các bên thành lập. Các bên tranh chấp có quyền thoả
thuận lựa chọn bất cứ Trung tâm Trọng tài nào mà không phụ thuộc vào quốc tịch, nơi
cư trú hoặc nơi đặt trụ sở của các bên. Trên cơ sở quy định của pháp luật về thẩm
quyền vụ việc của Trọng tài, các Trung tâm Trọng tài có quyền xác định lĩnh vực hoạt
động theo khả năng chuyên môn của các Trọng tài viên của mình.
- Về hình thức của Thỏa thuận trọng tài: Theo quy định tại Điều 16 Luật TTTM
thì “thỏa thuận Trọng tài có thể được xác lập dưới hình thức điều khoản Trọng tài trong
hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng”. Và yêu cầu bắt buộc của hình thức
Trọng tài là phải được xác lập dưới dạng văn bản. Tuy nhiên khái niệm “văn bản” có
nội hàm rất rộng, nó bao gồm “a) Thoả thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên
12
bằng telegram, fax, telex, thư điện tử và các hình thức khác theo quy định của pháp
luật; b) Thỏa thuận được xác lập thông qua trao đổi thông tin bằng văn bản giữa các
bên; c) Thỏa thuận được luật sư, công chứng viên hoặc tổ chức có thẩm quyền ghi chép
lại bằng văn bản theo yêu cầu của các bên; d) Trong giao dịch các bên có dẫn chiếu
đến một văn bản có thể hiện thỏa thuận Trọng tài như hợp đồng, chứng từ, điều lệ công
ty và những tài liệu tương tự khác; đ) Qua trao đổi về đơn kiện và bản tự bảo vệ mà
trong đó thể hiện sự tồn tại của thoả thuận do một bên đưa ra và bên kia không phủ
nhận”.[40]
Như vậy so với luật Trọng tài ở một số nước tiên tiến trên thế giới và Luật mẫu
UNCITRAL thì khái niệm “văn bản” của Luật TTTM nước ta đã có sự tương thích.
Theo Luật Mẫu thỏa thuận được coi là bằng văn bản nếu nó nằm trong một văn bản
được các bên ký kết hoặc bằng sự trao đổi qua thư từ, telex, điện tín hoặc các hình thức
trao đổi về đơn kiện và bản biện hộ mà trong đó thể hiện sự tồn tại của thỏa thuận do
một bên đưa ra và bên kia không phản đối.
Luật Trọng tài Anh còn tiến một bước rất xa trong việc quy định phạm vi thỏa
thuận bằng văn bản. Theo đó, có một thỏa thuận bằng văn bản khi: thỏa thuận được lập
bằng văn bản (cho dù nó có được các bên ký hay không); thỏa thuận được lập thông
qua việc trao đổi các thông tin bằng văn bản, hoặc thỏa thuận được chứng minh bằng
văn bản. Thậm chí, trong quá trình tố tụng Trọng tài hoặc tố tụng tư pháp, nếu nếu một
thoả thuận không được xác lập bằng văn bản nhưng được một bên viện dẫn và bên kia
không phủ nhận thì việc trao đổi đó tạo thành một thỏa thuận bằng văn bản có giá trị
pháp lý. [35]
Và so với Pháp lệnh 2003 thì quy định về hình thức “văn bản” của Trọng tài
cũng có rất nhiều tiến bộ. Theo quy định của Pháp lệnh, nội hàm của khái niệm “văn
bản” còn khá chung chung, chưa cụ thể, chi tiết. Các hình thức được coi là thỏa thuận
bằng văn bản gồm: “thư, điện báo, telex, fax, thư điện tử hoặc các hình thức văn bản
khác thể hiện rõ ý chí của các bên giải quyết tranh chấp bằng trọng tài” (Điều 9 khoản
1). Như vậy, quy định của Pháp lệnh về hình thức của thỏa thuận Trọng tài chưa tương
thích với Luật Mẫu và Luật Trọng tài các nước.
13
Từ sự đổi mới đó Luật TTTM đang xích lại gần pháp luật Trọng tài các nước
trên thế giới, điều này tạo thuận lợi cho hoạt động của Trọng tài trong giải quyết các
tranh chấp có yếu tố nước ngoài.
- Về nội dung của thỏa thuận trọng tài:
Nội dung thoả thuận Trọng tài phụ thuộc vào hình thức trọng tài. Đối với Trọng
tài vụ việc các bên thường phải thoả thuận rất nhiều nội dung như: cách thức lựa chọn
Trọng tài viên, địa điểm trọng tài, thời hạn trọng tài, luật áp dụng, ngôn ngữ, trình tự
trọng tài... Đối với Trọng tài thường trực do các trung tâm đã có bản Quy tắc tố tụng
nên các bên không cần thoả thuận các nội dung này trừ khi họ muốn thoả thuận khác
với quy định trong bản Quy tắc của Trung tâm. Vì vậy, đa số các thoả thuận Trọng tài
trong trường hợp này chỉ ghi tên Trung tâm Trọng tài sẽ giải quyết nếu tranh chấp phát
sinh là đủ.
-
Về các trường hợp vô hiệu của thỏa thuận trọng tài:
Luật TTTM quy định các trường hợp thỏa thuận Trọng tài vô hiệu khi: “1. Tranh
chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của Trọng tài quy định tại
Điều 2 của Luật này. 2. Người xác lập thoả thuận Trọng tài không có thẩm quyền theo
quy định của pháp luật. 3. Người xác lập thoả thuận Trọng tài không có năng lực hành
vi dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự. 4. Hình thức của thoả thuận Trọng tài
không phù hợp với quy định tại Điều 16 của Luật này. 5. Một trong các bên bị lừa dối,
đe doạ, cưỡng ép trong quá trình xác lập thoả thuận Trọng tài và có yêu cầu tuyên bố
thoả thuận Trọng tài đó là vô hiệu. 6. Thỏa thuận Trọng tài vi phạm điều cấm của pháp
luật”.
Luật TTTM đã bỏ quy định thỏa thuận Trọng tài vô hiệu do “không xác định rõ
tổ chức Trọng tài có thẩm quyền giải quyết tranh chấp” như quy định tại Pháp lệnh
(Điều 10, khoản 4) vì không hợp lý và không phù hợp với pháp luật và thực tiễn Trọng
tài quốc tế. Nguyên tắc giải quyết bằng Trọng tài là phải dựa trên ý chí của các bên. Vì
vậy, bằng việc dẫn chiếu đến Trọng tài, các bên đã có chủ ý và thể hiện ý định đưa ra
giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, các
bên đã diễn đạt chưa chuẩn xác tên một tổ chức Trọng tài cụ thể. Do đó, trong mọi
14
- Xem thêm -