ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM THỊ HOA LỆ DIỄM
TRỌNG TÀI VỤ VIỆC THEO PHÁP LUẬT TRỌNG TÀI
THƢƠNG MẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành:
Mã ngành:
Luật Kinh tế
60 38 50
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TSKH Đào Trí Úc
Hà Nội - 2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM THỊ HOA LỆ DIỄM
TRỌNG TÀI VỤ VIỆC THEO PHÁP LUẬT TRỌNG TÀI
THƢƠNG MẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành:
Mã ngành:
Luật Kinh tế
60 38 50
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TSKH Đào Trí Úc
Hà Nội - 2010
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số
liệu,
ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo
quy
định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ
Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Phạm Thị Hoa Lệ Diễm
MỤC LỤC Trang
Lời cam đoan
Mục lục Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng, đồ thị, biểu đồ 1.1.
Mở ĐầU 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG
MẠI. Những vấn đề lý luận về Trọng tài thương mại. 5 5
1.1.1. Khái niệm Trọng tài và Trọng tài thương mại. 5
1.1.2. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài thương mại. 9
1.1.3. Các hình thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài. 15
1.1.4. So sánh hình thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài với các hình thức
giải quyết tranh chấp khác như: thương lượng, hòa giải, tòa án.
1.2. Pháp luật Việt Nam về hình thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng Trọng
tài vụ việc. 20 28
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của Trọng tài vụ việc; 28
1.2.2. Thành lập và hoạt động hội đồng Trọng tài vụ việc; 31
1.2.3. So sánh hình thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài vụ việc với Trọng tài
thường trực.
1.2.4. Vai trò của Tòa án trong quá trình giải quyết tranh chấp thương mại bằng
Trọng tài vụ việc.
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VỀ TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA TRỌNG TÀI
VỤ VIỆC Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng về tình hình giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài.
2.2. Các nguyên nhân dẫn đến thực trạng hoạt động trên của Trọng tài thương mại
Việt Nam. 44 49 59 59 67
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG CỦA TRỌNG TÀI VỤ VIỆC. 81
3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả hoạt động của Trọng tài vụ việc. 84
3.2. Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả hoạt động của Trọng tài vụ việc 85
KẾT LUẬN 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 94
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
AAA Hiệp hội Trọng tài Hoa Kỳ
ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á
BLTTDS Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004
GATS
Hiệp định chung về thương mại dịch vụ
GATT Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch
GATFTA Khu vực thương mại tự do ả Rập
HKIAC Trung tâm Trọng tài Quốc tế Hồng Kong
ICC
Phòng thương mại quốc tế
TAND Tòa án nhân dân
TTTM Trọng tài thương mại
TTTT Trung tâm trọng tài
TTTTKT Trung tâm Trọng tài kinh tế
TTTTTM Trung tâm Trọng tài thương mại
TRIMs
Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại
TRIPs Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyển sở
hữu trí tuệ
UNCITRAL ủy ban pháp luật thương mại quốc tế của Liên hợp quốc
VIAC Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt nam bên cạnh Phòng thương
mại và Công nghiệp Việt Nam
WTO Tổ chức thương mại quốc tế
XHCN Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG, ĐỒ THỊ, BIỂU ĐỒ
Số hiệu
bảng, đồ
thị, biểu đồ
Tên bảng, đồ thị, biểu đồ
Trang
Bảng 2.1
Thống kê các vụ tranh chấp được giải quyết tại Trung tâm
Trọng tài quốc tế Việt Nam từ năm 1993 - 2002.
60
Bảng 2.2
Thống kê các vụ giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài tại các
trung tâm Trọng tài ở Việt Nam trong các năm 2004, 2005,
2006.
62
Đồ thị 2.1
Mức độ ưu tiên lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp
64
Biểu đồ 2.1
Thực trạng sử dụng Trọng tài để giải quyết tranh chấp
64
Biểu đồ 2.2
Nguyên nhân các bên tranh chấp ít sử dụng Trọng tài để giải
quyết tranh chấp.
65
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh Việt nam đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế và khu
vực, mà một trong những hệ quả của nó là sự tăng lên nhanh chóng các hoạt động
kinh
tế, thương mại và đầu tư. Nền kinh tế phát triển, một vấn đề mang tính tất nhiên là
các
tranh chấp kinh tế xảy ra dưới rất nhiều hình thức khác nhau: tranh chấp giữa các
chủ
thể trong giao kết hợp đồng; tranh chấp phát sinh trong quá trình sản xuất kinh
doanh
như tranh chấp giữa các thành viên trong công ty, tranh chấp về cổ phần cổ phiếu,
tranh
chấp giữa công ty và các thành viên trong công ty... Vậy khi phát sinh tranh chấp
thì
vấn đề đặt ra là các doanh nghiệp lựa chọn hình thức nào để giải quyết các tranh
chấp
đó.
Trên thế giới hiện nay có hai hình thức giải quyết tranh chấp cơ bản và phổ biến
nhất là: Tòa án và trọng tài, mỗi hình thức đó có những ưu điểm và hạn chế khác
nhau.
ở Việt Nam cũng tồn tại hai hình thức giải quyết tranh chấp này, song hình thức
giải
quyết bằng con đường Tòa án vẫn là chủ yếu. Ngày 10/3/2003 Pháp lệnh TTTM ra
đời,
quy định một cách chi tiết, có hệ thống hơn về mặt thủ tục và tạo nhiều điều kiện
thuận
lợi cho sự ra đời và hoạt động của các trung tâm trọng tài. Có thể nói pháp lệnh là
một
bước tiến tích cực, đưa pháp luật Việt Nam từng bước xích lại các quy tắc và chuẩn
mực quốc tế. Đây là một điều đáng lẽ là rất vui mừng cho các doanh nghiệp và
thương
nhân khi hệ thống Tòa án đã trở nên quá tải với việc giải quyết các loại tranh chấp.
Song sau bảy năm triển khai trên thực tiễn, kể từ khi Pháp lệnh ra đời, kết quả cho
thấy
các doanh nghiệp vẫn rất thờ ơ với trọng tài, thậm chí có nhiều doanh nhân còn
không
hiểu biết gì về hình thức giải quyết này.
Trọng tài vụ việc (hay còn gọi là Trọng tài ad hoc) là một trong những hình thức
giải quyết tranh chấp của TTTM được lập ra theo yêu cầu của các đương sự để
giải
quyết một vụ tranh chấp cụ thể và tự giải thể khi tranh chấp đó đã được giải quyết.
Bản
chất của hình thức Trọng tài này là đề cao thiện chí giải quyết vụ tranh chấp của
các
bên đương sự. Do thủ tục tố tụng của Trọng tài vụ việc không bắt buộc phải tiến
hành
theo quy tắc của một tổ chức Trọng tài nào mà do các bên tự thỏa thuận nên quyền
tự
định đoạt của các bên tranh chấp là rất lớn, chỉ cần hai bên có thiện chí thì tranh
chấp sẽ
được giải quyết nhanh gọn, thuận tiện. Trọng tài vụ việc có thể nói là phương thức
giải
quyết rất thích hợp với các tranh chấp trong hoạt động thương mại.
ở Việt Nam tuy hình thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài đã được hình
thành khá lâu nhưng phải đến khi Pháp lệnh TTTM 2003 ra đời, Trọng tài vụ việc
mới
chính thức được thừa nhận. Song các quy định trong pháp luật Việt Nam về hình
thức
Trọng tài này vẫn còn sơ sài, chưa cụ thể chi tiết, vì vậy chưa thể hiện được hết
những
tính năng ưu việt của loại hình này. Dẫn đến hình thức Trọng tài vụ việc vẫn là khá
mới
mẻ với các doanh nghiệp và các vụ việc giải quyết bằng hình thức này vẫn còn rất
ít ỏi,
chưa tương xứng với những tính năng ưu việt của nó.
Tác giả chọn đề tài này vì những lí do sau đây:
- Trên cơ sở đối chiếu các quy định với thực tiễn sử dụng Trọng tài trong giải
quyết tranh chấp, luận văn tìm ra những mặt hạn chế, tích cực của các quy định
pháp
luật hiện hành, từ đó đưa ra những ý kiến đề xuất phù hợp để khắc phục những
hạn
chế của pháp luật Việt Nam hiện hành về vấn đề TTTM với hình thức Trọng tài
giải
quyết theo lựa chọn của các bên tranh chấp - Trọng tài vụ việc, góp phần xây dựng
các
luận cứ khoa học cho việc đổi mới và hoàn thiện pháp luật về TTTM ở Việt Nam.
- Cho tới thời điểm hiện nay việc giải quyết các tranh chấp thương mại tại Trung
tâm TTTM là rất ít so với Tòa án. Theo thống kê của Trung tâm Trọng tài Quốc tế
Việt
Nam (VIAC) trong năm 2007 VIAC chỉ tiếp nhận khoảng 30 vụ trong khi Tòa án
kinh
tế Hà Nội phải xử gần 300 vụ, trong đó việc sử dụng hình thức Trọng tài vụ việc lại
càng ít hơn. Thực tế này cho thấy loại hình “dịch vụ” này chưa thu hút được sự chú
ý
của các khách hàng là các doanh nghiệp và các thương nhân. Nguyên nhân của
tình
trạng này có thể do tính quá mới của hình thức giải quyết tranh chấp này, cũng có
thể
do các quy định của pháp luật Trọng tài còn chưa phù hợp với thực tiễn. Việc
nghiên
cứu một cách sâu sắc các quy định pháp luật về Trọng tài thương mại, đặc biệt là
các
hình thức giải quyết của nó sẽ giúp cho việc lựa chọn các hình thức giải quyết
tranh
chấp thương mại phù hợp hơn với thực tế các vụ tranh chấp và thói quen trong
giải
quyết tranh chấp trong hoạt động thương mại của nước ta.
- Việc nghiên cứu đề tài nhằm góp phần nâng cao nhận thức của các chủ thể hoạt
động kinh doanh và của công dân về Trọng tài và sử dụng Trọng tài vào việc giải
quyết
các tranh chấp thương mại.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu:
Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, những vấn đề pháp lý của TTTM
Việt nam theo Pháp luật về TTTM Việt nam, dựa trên những cơ sở sau đây:
1) Nghiên cứu, khái quát lý luận về Trọng tài thương mại.
2) Nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện các quy định của pháp luật
Việt Nam hiện hành điều chỉnh về các hình thức Trọng tài nói chung và Trọng tài
vụ
việc nói riêng.
3) Phân tích thực trạng của việc sử dụng Trọng tài vụ việc trong giải quyết các
tranh chấp thương mại của các doanh nghiệp và thương nhân Việt Nam.
4) Đưa ra những mặt hạn chế và tích cực của pháp luật hiện hành, qua đó đề ra
giải pháp khắc phục những hạn chế đó góp phần vào việc sửa đổi, bổ sung những
quy
định pháp lý liên quan đến việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng Trọng tài vụ
việc nói riêng và Trọng tài nói chung.
3. Tình hình nghiên cứu vấn đề này ở Việt Nam và ý nghĩa lý luận của đề tài.
Hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu bao gồm: Luận văn tốt nghiệp đại
học, luận văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ...về vấn đề Trọng tài thương mại. Ví dụ một
vài
công trình nghiên cứu như: Luận án thạc sỹ luật học “Giải quyết tranh chấp thương
mại
có yếu tố nước ngoài bằng TTTM Việt Nam, những vấn đề lý luận và thực tiễn”,
của Vũ
Thị Ngân Hà, Đại học Quốc gia Hà Nội (2006); Luận án thạc sỹ luật học “Giải
quyết
tranh chấp đầu tư nước ngoài bằng Trọng tài ở Việt Nam trong điều kiện hội
nhập
quốc tế” của Nguyễn Thị Hường, Đại học Quốc Gia Hà Nội (2008); Luận án tiến
sỹ
luật học, “Hoàn thiện pháp luật về tài phán kinh tế ở Việt Nam hiện nay”, của
Nguyễn
Thị Hoài Phương, Viện Nhà nước và Pháp luật (2007); Luận án tiến sỹ luật học.
Hoàn
thiện pháp luật về TTTM của Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế”, của
Nguyễn
Đình Thơ, Đại học Luật Hà Nội (2007). Giải quyết tranh chấp thương mại bằng
hình
thức Trọng tài vụ việc đã được đề cập trong các công trình nghiên cứu nhưng
chưa
chuyên sâu, còn rải rác trong các bài báo, bài viết của các luật gia, chưa có một
công
trình nghiên cứu một cách sâu sắc và toàn diện về vấn đề này.
Trước thực trạng về sử dụng Trọng tài vụ việc trong giải quyết các tranh chấp
thương mại đã và đang diễn ra hiện nay, việc nghiên cứu một cách có hệ thống việc
sử
dụng Trọng tài vụ việc trong giải quyết tranh chấp thương mại có ý nghĩa lý luận
và
thực tiễn sâu sắc. Đề tài mang ý nghĩa lý luận cho việc hoàn thiện các quy phạm
pháp
luật đảm bảo sự thuận lợi, hợp lý trong việc chọn phương thức giải quyết tranh
chấp
bằng Trọng tài của các doanh nghiệp và trong hoạt động tố tụng của các trung
tâm
trọng tài.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Với đề tài này tác giả sẽ sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh các
quy định của pháp luật TTTM Việt Nam về vấn đề nghiên cứu, để từ đó rút ra kết
luận
về những ưu điểm và những hạn chế của hình thức giải quyết tranh chấp bằng
Trọng tài
so với hình thức giải quyết tranh chấp khác, của hình thức Trọng tài vụ việc với
Trọng
tài thường trực. Ngoài ra tham khảo các quy định trong luật mẫu về TTTM quốc tế
của
ủy ban Liên hợp quốc về TTTM quốc tế để từ đó có thể thấy được sự tương đồng
cũng
như khác biệt trong quy định pháp luật Trọng tài của Việt Nam để từ đó có những
điều
chỉnh cho thích hợp khi hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
5. Bố cục của luận văn:
Trong luận văn này, ngoài phần Mở đầu, các nội dung chính của luận văn như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về Trọng tài thương mại.
Chương 2: Thực trạng về tình hình hoạt động của Trọng tài vụ việc ở Việt Nam.
Chương 3: Phương hướng và các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Trọng
tài
vụ việc
Kết luận.
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG
MẠI
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI
1.1.1. Khái niệm Trọng tài và Trọng tài thƣơng mại.
Dưới góc độ ngữ nghĩa, theo Từ điển Tiếng Việt “Trọng tài” là người được cử,
đề ra để phân xử, giải quyết những vụ tranh chấp.[39] Còn theo Từ điển Hán Việt
thì
“Khi hai bên tranh chấp đứng ở giữa để phân xử gọi là trọng tài”.
Kinh nghiệm nhiều nước cho thấy Trọng tài là phương thức giải quyết
tranh
chấp “tư” lâu đời và thậm chí ra đời trước cả Tòa án (có thông tin về sự tồn tại của
Trọng tài từ thời Ai Cập, Hy Lạp cổ đại). Trọng tài được sử dụng rộng rãi nhất
trong
quan hệ kinh doanh, thương mại nhưng cũng được sử dụng nhiều trong giải quyết
các
tranh chấp khác như: lao động, dân sự, bảo vệ người tiêu dùng, gia đình và thậm
chí
giải quyết các các tranh chấp giữa các quốc gia với nhà đầu tư nước ngoài. Hiện tại
thì
Trọng tài được khuyến khích sử dụng tại hầu hết các nước trên thế giới vì những
ưu
điểm của nó.
Theo WTO, Trọng tài là một trong những dịch vụ thương mại giống như nhiều
dịch vụ thương mại khác, tức là có yếu tố cạnh tranh và thị trường.[18]
Theo pháp lệnh TTTM Việt nam 2003 Trọng tài là phương thức giải quyết các
tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại được các bên thỏa thuận và được
tiến
hành theo trình tự, thủ tục tố tụng do Pháp lệnh quy định.
Như vậy dù được xem xét ở góc độ nào đi nữa, Trọng tài trước hết được hiểu là
một phương thức để phân xử các tranh chấp. ở đây Trọng tài đóng vai trò người
trung
gian (thứ ba) để dàn xếp giải quyết mâu thuẫn một cách hợp lý và công tâm. Người
thứ
ba này có thể là tổ chức hoặc cá nhân nhưng nhất thiết phải được các bên tranh
chấp tự
do lựa chọn.
Thể chế Trọng tài luôn thể hiện tính chất hai mặt đó là thỏa thuận và tài phán,
tính chất hai mặt này làm nên sự khác biệt của hình thức giải quyết tranh chấp
bằng
Trọng tài so với các hình thức giải quyết tranh chấp khác. Trong nhiều lĩnh vực của
đời
sống đều có thể áp dụng hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Tuy nhiên
với
những đặc điểm của Trọng tài làm cho nó đặc biệt phù hợp với các tranh chấp
trong
kinh doanh thương mại.
Thuật ngữ “Thương mại” theo Bách khoa toàn thư mở - thương mại được hiểu là
hoạt động trao đổi của cải, hàng hóa, dịch vụ, kiến thức, tiền tệ vv… giữa hai hay
nhiều
đối tác, và có thể nhận lại một giá trị nào đó (bằng tiền thông qua giá cả) hay bằng
hàng
hóa, dịch vụ khác như trong hình thức thương mại hàng đổi hàng. Trong quá trình
này,
người bán là người cung cấp của cải, hàng hóa, dịch vụ...cho người mua, đổi lại
người
mua sẽ phải trả cho người bán một giá trị tương đương nào đó.
ở Việt Nam thuật ngữ “Thương mại” được sử dụng khá rộng rãi trong đời sống
xã hội và trong nhiều các văn bản quy phạm pháp luật như: Luật Công ty
và Luật
Doanh nghiệp tư nhân năm 1990. Theo Luật Thương mại Việt Nam 1997, khái
niệm
“thương mại” được hiểu theo nghĩa hẹp, bao gồm 14 hành vi điều chỉnh các quan
hệ
mua bán hàng hoá và dịch vụ liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hoá. Đối tượng
của
việc mua bán hàng hoá bị giới hạn ở các động sản, chủ yếu là các máy móc, thiết
bị,
nguyên liệu, vật liệu phục vụ sản xuất, tiêu dùng, các động sản khác được lưu
thông
trên thị trường, nhà ở dùng để kinh doanh dưới hình thức cho thuê, mua bán (Điều
5
Luật Thương mại 1997). Các bất động sản như nhà máy, công trình xây dựng
(không
phải là nhà ở), các quyền tài sản như cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các hành vi liên
quan trực tiếp đến mua bán hàng hoá như vận chuyển hàng, thanh toán tiền mua
hàng
qua hệ thống ngân hàng... không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật thương mại
1997.
Việc xác định phạm vi điều chỉnh theo diện hẹp của Luật Thương mại 1997 trên
thực tế
đã phát sinh nhiều vấn đề, không chỉ trong quá trình thực hiện các giao dịch
thương
mại mà còn ảnh hưởng đến việc giải quyết các tranh chấp thương mại, tiếp sau đó
là
việc công nhận và cho thi hành các bản án, phán quyết của Trọng tài nước ngoài.
Thực
tế cho thấy nhiều bản án của toà án và phán quyết của Trọng tài nước ngoài, đặc
biệt là
các vụ tranh chấp liên quan đến đầu tư, xây dựng... đã không được thực thi ở Việt
Nam
do nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của Luật Thương mại.
Trong khi đó, ở các nước trên thế giới, khái niệm thương mại ngày càng được
mở rộng ra với một nội hàm rộng lớn, bao gồm tất cả các hoạt động nhằm mục
đích tìm
kiếm lợi nhuận. Chẳng hạn như, Bộ luật thương mại số 48 của Nhật Bản
ngày
9/3/1899, thuật ngữ thương mại được dùng để chỉ những hoạt động mua bán nhằm
mục
đích lợi nhuận và hầu hết các dịch vụ trên thị trường như dịch vụ vận tải, cung ứng
điện
hay khí đốt, uỷ thác, bảo hiểm, ngân hàng. Luật Thương mại của Philippin tuy
không
đưa ra các hành vi thương mại cụ thể mà quy định phạm vi điều chỉnh là các hoạt
động
nhằm thúc đẩy sự trao đổi hàng hoá và dịch vụ với mục đích thu lợi nhuận. Bộ
luật
thương mại của Thái Lan cũng đưa ra khái niệm thương mại khá rộng không chỉ
bao
gồm việc mua bán hàng hoá mà cả các hoạt động thuê tài sản, thuê mua tài sản,
tín
dụng, thế chấp, đại diện, môi giới, bảo hiểm, công ty, hợp danh... Cách hiểu khái
niệm
thương mại nêu trên cũng tương đồng với cách hiểu trong một số Hiệp định quan
trọng
của ASEAN, Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại quốc tế gồm nhiều Hiệp
định
cấu thành như Hiệp định GATT, GATS, TRIMs, TRIPs,... [40]
Luật Thương mại 2005 được ban hành ngày 14 /6/2005 thay thế Luật Thương
mại 1997 đã cho ra đời khái niệm “ Hoạt động thương mại”. Theo đó hoạt động
thương
mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng
dịch
vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.
(Điều 3,
khoản 1, Luật thương mại 2005). Khái niệm hoạt động thương mại theo Luật
thương
mại 2005 của Việt Nam đã được mở rộng theo quan niệm thương mại của
UNCITRAL
và của WTO. Việc mở rộng này tạo cơ sở cho việc thích ứng pháp luật thương mại
Việt
Nam với pháp luật trong nước hiện hành và pháp luật thương mại quốc tế, đáp
ứng
được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Trọng tài - tuy là một hình thức giải quyết tranh chấp có lịch sử phát triển khá
lâu dài ở nước ta (từ những năm 60), song khái niệm “Trọng tài thương mại” chỉ
mới
được ghi nhận năm 2003 với sự ra đời của Pháp lệnh Trọng tài thương mại. Bởi
hệ
thống Trọng tài trước đó là “Trọng tài kinh tế” - một cơ quan hành chính nhà nước
có
chức năng giải quyết các tranh chấp trong hợp đồng kinh tế giữa các doanh nghiệp
nhà
nước. Cùng với sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, Trọng tài đã dần trở
thành
một tổ chức phi chính phủ có chức năng tài phán. Pháp lệnh TTTM là mốc quan
trọng
trong lịch sử phát triển của pháp luật Trọng tài của Việt Nam. Đó là nền tảng pháp
lý
cho Trọng tài hoạt động tiếp cận, hoà nhập với Trọng tài của các nước phát triển,
khẳng
- Xem thêm -