1
A - Phần mở đầu:
Đất nước Việt Nam đã chuyển mình, cơ hội đã mở ra. Công cuộc đổi
mới và hội nhập đã được chứng minh là đúng đắn. Một quốc gia sẽ không
đứng vững nếu bị cô lập hoặc chỉ bó hẹp ứong khuôn khổ ngoại giao một
chiều. Ngày nay, một xã hội, một đất nước được coi là phát triển không thể
thiếu chiến lược ngoại giao đa phương, thiết lập quan hệ bang giao với nhiều
nước, nhiều khu vực để thông thương, giao lưu văn hóa, chính trị,... trên quan
điểm hòa nhập chứ không hòa tan và luôn phát huy đậm đà bản sắc dân tộc.
Để làm được điều đó, vai trò của người quản lý là không thể thiếu. Đặc biệt
vận dụng những tư tưởng quản lý trong lịch sử là một phương pháp để nhà
quản lý thành công, Đạo Nhân của Khổng Tử là một triết lý như thế.
B - Nội dung
I. Khái lược về Khổng Tử và đạo Nhân.
Khẳng Tử (551-479TCN): tên chữ Trọng Ni, sinh ở Khúc Phụ nước
Lỗ. Tổ tiên là quý tộc nước Tống (hậu duệ nhà An), cha làm quan nước Trâu.
Đến thời Khổng Tử, gia đình sa sút. Ông ham học, thích nghiên cứu thi, thư,
lễ, nhạc đời trước. Lúc trẻ làm quan coi kho và quan coi súc vật cho Quý Thị
(một quan khanh nước Lỗ) sau làm Đại tư khấu rồi làm Nhiếp tướng sự trong
3 tháng, lúc 54 tuổi. Nhưng tư tưởng của Khổng Tử không hợp với Quý Thị
nên Khổng Tử bỏ đi chu du qua các nước chư hầu (Vệ, Tống, Trần,...). Đường
lối của ông không được các nước này dụng. Đến 70 tuổi trở về, nước Lỗ coi
như bậc quốc lão, nhưng ông không ra làm quan. Hoạt động của ông là dạy
học, là người đầu tiên mở nền tư học. Học trò của ông đông, có tới ba ngàn
người, trong đó có tới 72 người nổi tiếng còn được thờ cùng Khổng Tử.
Trong trường Khổng Tử dạy: văn, hạnh, trung, tín. Học trò được chia
thành bốn loại: đức hạnh, chính sự, văn học, ngôn ngữ. Do nhu cầu dạy học,
2
Khổng Tử chỉnh đốn các sách thi, thư, lễ, nhạc là những điển sách trước đó
chỉ lưu hành trong công tộc và đem dạy ra ngoài.
Khổng Tử sống trong thời kì lịch sử loạn của đất nước Trung Hoa khi
mà “ Cha không ra cha, con không ra con, vua không ra vua, tôi không ra
tôi”. Trong xã hội loạn lạc đó Khổng Tử vẫn cho rằng bản tính của người là
thiện, sống gần nhau, muốn giúp đỡ nhau “tính tương cận dã, tương viễn dã”.
Xuất phát từ quan điểm đó với mục tiêu là đưa tất cả mọi người đến một xã
hội tốt đẹp lấy đạo đức làm cơ sở, Khổng Tử đã xây dựng nên thuyết “ Đức
trị” và cái “cốt” lý luận để xây dựng xã hội trên chính là đạo Nho - đạo Nhân
của Khổng Tử. Vì vậy tất cả các vấn đề về chính trị, giáo dục hay đạo đức thì
Khổng Tử đều xuất phát từ vấn đề Nhân.
II. Đạo nhân và mối quan hệ với các đạo khác
1. về đạo Nhân:
a. Khái niệm Nhâm
Theo Khổng Tử “Nhân là yêu người”. Nhân là giúp đỡ người khác
thành công “ Người nhân, mình muốn thành công thì cũng giúp người thành
công”. Biết từ bụng ta suy ra bụng người đó là phương pháp thực hành của
người Nhân”. Trong các phạm trù lý luận cơ bản của Khổng Tử gồm nhân, lễ,
trí... thì nhân là quan trọng nhất.
Theo góc độ quản lý, Nhân là nguyên tắc cơ bản của hoạt động quản
lý, vừa là đạo đức và hành vi của các chủ thể quản lý.
“Nhân" được ông coi là cái quy định bản tính con người thông qua
"lễ", "nghĩa", quy định quan hệ giữa người và người từ trong gia tộc đến
ngoài xã hội. "Nhân" có quan hệ chặt chẽ với các phạm trù đạo đức khác
trong triết lý Khổng Tử để làm nên một hệ thống triết lý nhất quán, chặt chẽ
và do vậy, đã có người cho rằng, nếu coi các phạm trù đạo đức trong triết học
3
Khổng Tử như những vòng tròn đồng tâm thì "Nhân" là tâm điểm, bởi nó đã
chỉ ra cái bản chất nhất trong bản tính con người
b. Quan niệm về Nhân trong triết học Trung Hoa và Khẳng Tử
Nhân- Khái niệm bao trùm các quan niệm đạo đức khác
Trong bối cảnh xã hội loạn lạc, Khổng tử cho rằng dân cần điều nhân
hơn cả cần cứu khỏi hỏa tai, nước lũ, nghĩa là điều nhân phải thực hiên từ trên
xuống dưới. Nhân là một thuộc tính quan trọng của người quân tử, quân tử
không có đức nhân thì không còn là người quân tử nữa. Vì thế khi đánh giá về
mặt đạo đức của con người Khổng Tử cho rằng, quân tử có lúc không “nhân”
nhưng tiểu nhân thì không bao giờ “nhân” cả. Bởi lẽ, tiểu nhân trong quan
niệm của Đức Khổng, đó không chỉ là thứ dân trong mối quan hệ với tầng lớp
thống trị mà đó còn là những kẻ không có nhân cách, vô đạo đức. Nhân bao
gồm: Đức , Trí , Dũng , Thành , Mần , Tuệ . Để thực hành điều nhân, người
quân tử phải hội tụ đủ những yếu tố đó. Người làm điều nhân phải cung
khiêm, trung tín, thận hành, cẩn ngôn. Công phu ấy có được phải qua tu
dưỡng và có tính chất hướng nội, không lo buồn, chủ tĩnh, an bần lạc đạo.
Nhân là trung thứ và hiếu đễ là gốc của nhân
Thi hành nhân tức là trọng kẻ khác. Đó là phương diện tích cực trong
thi hành mà Khổng tử gọi là “Trung ” hay tính ngay thẳng đối với kẻ khác và
chính bản thân mình, gọi là “thứ” hay lòng vị tha. Trung thứ
là nguyên lý quán xuyến, đạt đạo của đức Khổng và là cái quan trọng suốt đời
ngài tuân theo.
Trong một cuộc nói chuyện với các học trò Khổng Tử đã nói: Đạo của
ta chỉ cỏ một lẽ mà thông suốt cả.
về
4
điều này, Tăng Tử - một học trò của
Khổng Tử cho rằng, Đạo của Khổng Tử là "trung thứ". "Trung" ở đây là làm
hết sức mình, còn "thứ" là suy từ lòng mình ra mà biết lòng người, mình
không muốn điều gì thì người cũng không muốn điều đó. "Trung thứ" là sống
đúng với mình và mang cái đó ứng xử tốt với người.
Trung thứ, đối với Khổng tử phải được xác lập trên sự phân biệt giữa
nhân và kỷ , tức là kẻ khác và ta. Đó là mối quan hệ bình đẳng, tôn trọng lẫn
nhau và được quy định bởi Lễ.
Lấy hiếu làm gốc cho nhân, là lấy tôn tộc làm co sở cho xã hội, nhằm
mục đích chính trị rõ rệt. “Quân tử hết lòng với cha mẹ thì dân theo điều
nhãn . Đối với Khổng tử, khái niệm Hiếu là một hình thức đặc thù, một biểu
hiện cao đẹp của khái niệm nhân. Dân hiếu ít sinh loạn, con hiếu ít sinh tệ,
hiếu đễ làm cho con người được phân biệt với cầm thú, xã hội an định, gia
đạo hài hòa, thúc đẩy con người vươn đến điều nhân. Tuy nhiên, lấy hiếu để
giáo dục dân, khiến dân tuân theo và dễ cai trị là một quan điểm chính trị khá
phiến diện của Khổng tử, song xét về mặt xã hội thì những ưu điểm của hiếu
đã vượt ra khỏi bản thân nó, làm cho con người biết tiết dục, kính thiên, tôn
quân, thủ lễ, sự phụ mẫu.
Khắc kỷ phục lễ vi nhần”
Trong quan niệm giáo dục của Khổng tử, tuy theo từng cá tính mà ông
có những phương pháp giáo huấn thích hợp. Song vượt lên trên tất cả, để
thiên hạ được ổn định, được chính danh, được theo mệnh, theo Khổng tử phải
trở về với Lễ và đó chính là nhân. Nhân phải được ước thúc, quy định bởi lễ.
Theo Khổng tử, lễ đặt con người vào quan hệ tôn tộc theo thứ bậc, đặt con
người vào quan hệ đẳng cấp. Lễ là con đường, là mục đích vươn đến và khả
5
năng hiện thực hóa điều nhân, đưa xã hội từ xã hội Tiểu Khang vươn đến xã
hội Đại Đồng .
Trong Luận ngữ, Khổng tử không nói đến nhân dục - một tính chất khá
quan trọng của tư cách tự nhiên của con người. Dục vọng cá nhân là những
đòi hỏi của chính bản thân nên phải khắc kỷ. Khắc kỷ là kiềm chế, là tiết dục.
Do đó, ông khuyến cáo: “Đừng nhìn cái phỉ lễ, đừng nghe cái phỉ lê, đừng nói
cái phỉ lê, đừng làm cái phỉ lê”. Bởi lẽ, dục vọng đưa con người đi đến chỗ
ham phú quý, mê danh lợi mà bỏ mất đi chính mình, trong xã hội có giai tầng,
con người phải giữ cho hợp “nghĩa ”, phải theo “lễ ”. Với Khổng tử, con
người chỉ được thực hiện những gì mà lễ cho phép, nghĩa là phải điều hòa
giữa nhân dục và lễ.
Lời khuyến cáo này bao hàm cả mục đích, con đường và khả năng
thực hiện điều nhân. Rõ ràng trong tư tưởng của mình, Khổng tử không phủ
nhận nhân dục, nhưng nhân dục ấy phải được quy ước, câu thúc bởi lễ, tức là
được thừa nhận trong phạm vi của lễ.
Khắc kỷ phục lễ là hành trình thiện hóa con người. Nhân là nội dung
của lễ, lễ là hình thức, là biểu hiện của nhân. Sự tương hỗ ấy đã đẩy quá trình
tìm hiểu khẳng định bản chất con người, khám phá về con người đạt đến
những điểm mới mà các triết gia trước thời Khổng tử chưa có được.
6
c. Nhân - Học thuyết về “đạo của người quân tử" của
Khổng Tử.
Nhân - nguyên tắc hành đạo của người quân tử.
Khảo chứng về chữ Nhân, sách “Trung dung” viết “Nhân giả, nhân dã
”(Nhân là người). Đối với Khổng Tử, để mọi việc đi vào chuẩn mực, duy trì
những nguyên tắc hành đạo, Khổng tử đã đề ra nguyên lý cao nhất, khái quát
nhất, là trung tâm của học thuyết của ông: Nhân.
Trong “Luận ngữ”, Khổng tử có 58 chỗ đề cập đến quan niệm về
Nhân với cả thảy là 109 chữ Nhân. Luận ngữ không định nghĩa Nhân một
cách rõ ràng như ở nơi khác. Học thuyết nhân, nội dung cốt lõi của tư tưởng
Khổng tử, chủ yếu đề cập đến quan hệ giữa người với người. Khổng tử quan
niệm mối quan hệ giữa người và người phải dựa trên cơ sở tình thương. Tình
thương còn được gọi là lòng nhân ái, nhân đạo. Khái niệm Nhân của Khổng
tử được củng cố trên nền tảng của đạo đức. Nhân hay nhân đạo trong quan
niệm của Khổng tử được xây dựng trên hai nguyên tắc:
- Nguyên tắc thứ nhất là “cái gì mình không muốn thì đừng làm cho
người khác” {Kỷ sở bất dục vật thỉ ư nhân - Nhan).
- Nguyên tắc thứ hai là “ mình muốn đứng vững thì làm cho người ta
đứng vững, mình muốn công việc của mình được thành đạt thì cũng làm cho
công việc của người khác thành đạt” {Kỷ dục lập nhỉ lập nhân, kỷ dục đạt nhỉ
đạt nhân - Ung dã)
Trung dung - hành trình vươn đến chỉ đức, cực thiện
Sự thật, Khổng tử không phải vì quá đề cao Trung dung mà quên đi địa vị cá
nhân. Tôn sùng lương thức, sự hợp tình lý, đó là điểm căn bản trong chủ nghĩa
nhân văn của đạo Khổng.
1
Trung dung là điểm tựa để điều tiết cuộc sống, là minh triết để bảo
thân, là cội nguồn của tư tưởng ôn hòa, giữ lấy trạng thái cân bằng của sự
sống. Trung dung trong tư tưởng Khổng tử không phải là cố chấp, nó phải có
điều kiện xuất phát là kiên định.
d. “Nhân” vói hành trình nhân bản hoá tư tưởng của Khổng tử
Vai trò của “Nhân99 trong sự vận động từ thần bản đến nhân bản
của triết học Trung Hoa
Trên đây, chúng ta đã bàn về nhân và những biểu hiện cụ thể của nó
trong triết học Khổng tử và Nho gia sơ kỳ. Khổng tử đã nêu cao tư tưởng
nhân trị, đề cao lễ, đưa xã hội từ loạn đến trị (dẫu rằng ở thời đại ông nó chỉ
tồn tại về mặt lý thuyết), nhưng công lao của đức Khổng được khẳng định bởi
từ trong nội tại của quan điểm xã hội, chính trị ông đã làm cho con người với
những thuộc tính vốn của nó được khẳng định hơn và trở thành đối tượng của
triết học theo đúng nghĩa của nó.
Trong thực tiễn tư tưởng của Khổng phu tử, ý niệm “nghĩa” có phần
thiên về hình thức, ý niệm nhân mới có tính chất cụ thể và có những ảnh
hưởng to lớn đến đời sống con người, đưa con người nói chung và tầng lớp trí
thức nói riêng trở về với bản tính tự nhiên, trách nhiệm và bổn phận của mình
đối với xã hội. Nhưng bản tính thực chất của những bổn phận kia là “thương
người ”, tức là “nhân”, nhân có thể hiểu là “toàn đức ”. Giá trị thiết thực của
nó đối với đương thời hết sức to lớn. Gạt bỏ những yếu tố tiêu cực, việc đề
cao lý tuởng của Nhân cùng với những biểu hiện cụ thể của nó đã đánh dấu sự
chuyển biến rõ rệt của triết học Nho gia sơ kỳ trên con đường từ thần bản đến
nhân bản của triết học Trung Hoa cổ đại, khẳng định bản chất xã hội sâu rộng
8
và tính chất đạo đức cao khiết của tư tưởng Khổng Tử trong tiến trình phát
triển của lịch sử triết học Trung Hoa.
Nhân với chủ trương đức trị của Khổng Tử
về
mặt chính trị, quan điểm cơ bản của ngài là đề cao đức trị. Đó
không chỉ là sự đề cao lễ giáo mà còn đề cập đến quá trình khẳng định tính
toàn mỹ trong nhân cách của con người mà hạt nhân của nó là nhân văn, tính
nhân đạo và từ đó đi đến quá trình khám và nhìn nhận hành vi của con người.
Con người tồn tại trong xã hội sẽ phải tuân thủ theo một số quy định nào đó,
tức là phải theo pháp chế, luật định
Bên cạnh chủ trương đức trị, Khổng Phu Tử còn quan tâm đến “thứ ,
phú , giáo ” . Ông cho rằng “tòm chính sự bằng đức ví như sao Bắc Thần cứ
đứng nguyên một chỗ mà các sao khác phải hướng vể...” . Người nắm giữ
chính quyền không chỉ làm cho dân thêm đông đúc (tức Thứ) mà phải còn làm
cho dân giàu có (tức Phú) và cuối cùng là phải dạy dỗ họ (tức Giáo). Dạy cho
dân biết liêm sỉ, biết hiếu trung, biết nhân nghĩa, biết khắc kỷ. ấy là hướng
đến điều nhân vậy.
“Chủ trương đức trị và lễ giáo, một mặt nhằm ổn định trật tự xã hội,
thuần hoả dần chủng, mặt khác nhằm phản đối chỉnh sự hà khắc, tàn bạo”
9
.
Đồng thời, quan niệm này cũng đã đề cập đến tư tưởng dân bản, một
chủ trương tích cực của Đức Khổng trong diễn trình phát triển minh triết
Trung Hoa. Và trong giới hạn của lịch sử, Khổng Tử đã vượt qua chính mình
và đặt những viên gạch đầu tiên cho các học thuyết chính trị, đạo đức của hậu
nho.
Khổng Tử bàn về điều nhân trong một bối cảnh xã hội nhà Chu đang
suy thoái, lễ nhạc đảo điên, điển chương băng hoại. Nghiên cứu hệ thống triết
học của Khổng tử từ góc độ chữ Nhân, chúng ta có thể lý giải được nhiều vấn
đề cốt lõi mà bản thân nó đã đặt ra, đặc biệt là vai trò của nhân trong quá trình
thúc đẩy sự vận động hợp lý từ thần bản đến nhân bản của tư tưởng triết học
Trung Hoa và những đóng góp to lớn của Khổng Tử. Chúng ta không nên tìm
ở Khổng Tử một triết hệ, tức là một hệ thống toàn thể mạch lạc bao gồm
nhiều quan điểm, nhưng bao quát và nổi trội hơn cả trong tư tưởng của ngài là
một nhu cầu trở về với những lý tưởng nhân bản, thông qua lễ, khẳng định
bằng ngũ thường, nêu cao bằng những phẩm chất cần có của bậc quân tử,
quan điểm Nhân cùng với những đặc điểm và biểu hiện của nó như một cú
hích vĩ đại đưa Khổng tử đến với triết học con người - lý tưởng nhân bản,
đánh dấu một sự trưởng thành mới trong diễn trình phát triển của minh triết
Trung Hoa
2. Mối quan hệ giữa đạo Nhân với các đạo khác,
a. Nhân và Lễ.
Lễ
Ban đầu khi mới xuất hiện, lễ chỉ có nghĩa là cũng tế.
Đen đời Chu Công, lễ có nghĩa:
• Nghĩa cũ Lễ là tế lễ, có tính chất tôn giáo.
• Nghĩa mới là pháp điển phong kiến do Chu Công chế định, có tính
cách chính trị, để duy trì trật tuej xã hội.
• Rồi lần lần, ý nghĩa của lễ mở rộng ra, chỉ cả phong tục tập quán.
• Và sau này, qua đời Chu Công, nhất là Khổn Tử, nó có một nội dung
mới, nội dung luân lí, chỉ sự chỉ sự kỉ luật về tinh thần, nguời có lễ là
người biết tự chủ, khắc kỉ.
Khổng Tử chủ trương tong Chu giữ phép điển ,lễ nhạc, rất trọng
lễ.Thời Khổng Tử trọng lễ cũng cần thiết như thời sau trọng luật, hiến pháp,
có phần hơn nữa.
Quan hệ giữa nhân và lễ:
Nhân có thể đạt được qua lễ, lễ là hình thức biểu hiện của nhân-“ khắc
kỉ phục lễ vi nhân”( ép mình theo lễ là nhân): ra cửa phải như tiếp khách quý,
trị dân phải như làm lễ lớn, điều gì mình không muốn ai làm cho mình thì
mình thì không nên làm cho ai
Và cái gì mình muốn thì làm cho người “ mình muốn tự lập thì cũng thành lập
cho người, mình muốn thành công thì cũng giúp người thành công” Tóm lại là
biết từ bụng ta suy ra bụng người, đó là phương pháp của thực hành của người
dân”
Không có nhân thì nghĩa chỉ là hình thức giả dối:” không có đức nhân
thì lế để mà làm gì”
Nhà cầm quyền không có đức nhân thì càng trọng lễ, càng thủ cựu,
càng dễ hóa ra tàn khốc.Lễ là để giữ sự tôn ti trật tự, phân biệt trên, dưới, giai
cấp. Người Trung Hoa có từ ngũ” nội thánh ngoại vương”nghĩa là trong (thể)
có cái đức của ông thánh, đem dùng ra ngoài.
Nhân là thể, lễ là dụng, gọi là nội nhân ngoại lễ nghĩa là trong phải có
long nhân thì ngôn hành ở ngoài mới hợp lễ được.
Tinh thần của lễ, nhạc ở cả trong đức nhân. Phải có long nhân, phải
yêu người, trọng người rồi sau đó mới them lễ và nhạc, cũng như phải có sẵn
nền trắng và sau đó mới vẽ hình đẹp lên được. Thiếu long nhân thì lễ, nhạc
chỉ là giả dối, lễ mà làm gì, nhạc mà làm gì. Càng khéo nói càng niềm nở( xảo
ngôn lệch sắc) càng khả 0, mà nhạc càng ‘mĩ’ càng hay , lôi cuốn bao nhiêu ,
nếu không ‘thiện’thì chỉ gây them sự chia rẽ, căm thù hoặc dâm loạn.
Lễ ngược lại cũng góp cho đức nhân, vì cử chỉ, ngôn ngữ tác động tới
tâm lí. Chưa có đức nhân mà muốn có đức nhân thì ta cữ khắc hỉ, gắng có
những cử chỉ ngôn ngữ, hành vi thân ái với người khác rồi ta cũng sẽ có được
đức nhân. Đó là ý nghĩa câu” khắc kỉ phục lễ vi nhân”
Tóm lại trong quản lí nếu chỉ dung lễ thì chính sách sẽ là lễ trị, không
khác pháp trị là bao nhiêu, pbaừ có” nhân” nữa thì mới thành được đức trị.
b. Nhân và Nghĩa.
Nhân gắn liền với nghĩa, vì theo nghĩa là thấy việc gì đáng làm thì
phải làm, không mưu tính lợi của cá nhân mình.
Bá Di, Thúc Tế được Khổng Tử khen là “ hiền” , muốn được điều
nhân mà được điều nhân”, vì bỏ ngôi vua, để giữ nghĩa, nhất là vì can đảm
can Võ vương, nhà chu đừng đánh Trụ, mắng võ vương là bất hiếu, bất nhân,”
cha mất không chôn mà dấy việc can qua, có đáng gọi là hiếu không? Võ
Vương muốn giết Thái công, vọng can mới thôi . Khi võ vương làm thiên tử
rồi, Bá Di, Thúc tề, giữ nghĩa khí, không chịu ăn lúa nhà Chu, ẩn ở núi Thái
Dương, hái rau vi mà ăn, chịu chết đói.
Vậy nhân bao gồm cả nghĩa
Khổng Tử ít nói đến nghĩa nhưng ông hành động theo nghĩa là thấy
việc gì đáng làm thì làm, không hề mưu tính tới lợi cho mình, mà cũng không
cần biết hậu quả ra sao. Ông trái hẳn Mặc Tử không nói tới lợi, dù là lợi công,
cho nên bảo:” người quân tử hiểu rõ về nghĩa , kẻ tiểu nhân hiểu rõ về lợi” và
“ cách xử xụ của người quân tử không nhất định phải như vậy mới được,
không nhất định như kia là không được, cứ họp nghĩa thì làm, như vậy là “ vô
khả, vô bất khả” không cố chấp. Những việc gì đáng làm, họp nghĩa thì dù có
mời không làm được, ông vẫn cứ làm khi nào hết sức rồi mới thôi, mặc lờ chê
của thiên hạ ” tri kì bất khả vi nhi vi chi”( biết là không thể làm mà vẫn làm).
Tư tưởng nhân ái của Khổng Tử có thể so sánh với tình bác ái của
chúa Giê Su và Đức phật.Nhưng ông khác với các vị kia ở chỗ trong tình cảm
có sự phân biệt theo mối quan hệ: trước hết là ruột thịt, sau đến thân, quen và
xa hơn là người ngoài.
c. Nhân và Trí.
Trí trước hết là “biết người”. Có hiểu biết sáng suốt mới biết cách giúp
người mà không làm hại cho người, cho mình: “Trí giả lợi Nhân”.
Rõ ràng là người Nhân không được để cho kẻ xấu lạm dụng lòng tốt
của mình: “Không đón trước là người ta dối mình, không đoán phỏng là người
ta không tin mình, thế mà làm đến có điều lừa đảo, thì biết được ngay, thế là
giỏi vậy”.
Trí có lợi cho Nhân, cho nên khi Khổng Tử nói đến người Nhân - quân
tử, bao giờ cũng chú trọng đến khả năng hiểu người, dùng người của họ.
Trí còn có thể hiểu như là tài năng, kiến thức; là cái sự hiểu rộng biết
nhiều của người quân tử, làm được nhiều việc, chứ không phải như một đồ vật
chỉ dùng được vào một việc. Người có trí phải hiểu được mệnh trời. Tóm
được tài đức của người quân tử cần cho việc trị dân: “Tài trí đủ để trị dân mà
không biết dùng đức nhân để giữ dân thì tất sẽ mất dần”.
Tài trí đủ để trị dân, biết dùng nhân đức mà đối đãi với dân không
trang nghiêm, thì dân không kính.
Tài trí đủ để trị dân, biết dùng nhân đức giữ dân, lại biết đối đãi với
dân mà không biết dùng lễ để cổ vũ dân thì chưa hoàn toàn tốt.
Trí trong luận ngữ là trí của người biết được đạo. Trí mà như ngu vậy:
Ninh Vũ tử ở trong nước có đạo thì thể hiện là bậc trí, ở trong nước vô đạo thì
thể hiện như người ngu. Chỗ trí của ông ấy người ta có thể kịp theo,nhưg vẻ
ngu của ông ấy thì không ai có thể theo được vậy” (Công Dã Tràng, V.20).
Trí trong Luận ngữ theo quan điểm của Khổng Tử, có một nội hàm rất
rộng : lo về nghĩa, kính quỷ thần...: “Chăm lo để dân hiểu về nghĩa,kính quỷ
thần mà cho giữ cho có khoảng cách, như thế có thể gọi là trí vậy”. Khổng tử
buồn về thực tế : người đời không tu theo đức,học không giảng giải đạo lý:
“Đức hạnh không trau dồi, học vấn không giảng cứu, nghe đạo nghĩa không
giảng theo, bản thân lỗi lầm mà không thể sửa đổi, quả đó là những điều khiến
ta lo lắng” (Thuật nhi,VII.3).
Theo Khổng Tử thì ham đức nhân mà không ham học thì bị sự che lấp
là ngu muội; ham đức trí mà không ham học thì bị sự che lấp là phóng đãng;
ham đức tín mà không ham học thì bị sự che lấp là bị tổn hại; ham đức ngay
thẳng mà không ham học thì bị sự che lấp là gắt gao, mất lòng người; ham
đức dũng mà không ham học thì bị sự che lấp là loạn động; ham cương cường
mà không ham học thì bị sự che lấp là cuồng bạo.
Tử Hạ hiểu được đạo của thầy, khi bảo : “Học rộng mà giữ vững chí
hướng, hỏi điều thiết thực mà nghĩ đến điều gần (tức việc thực hành những
điều thiết thực), đạo nhân ở trong đó”. Như vậy “trí” cũng cần phải học, phải
rèn luyện. Người quân tử phải tu dưỡng bản thân, không chỉ có nhân mà còn
phải có trí, tránh bị sự không hay làm cho tinh thần không yên, dẫn đến rối
loạn rồi không lo được cho người mà cũng là hại đến bản thân mình. Thiết
nghĩ việc trị quốc cần đến những bậc hiền nhân quân tử như vậy. Vừa dùng
cái đức của mình nhưng cũng dùng lý trí sáng suốt để thực thi công việc sẽ
đem lại hiệu quả.
Phải sáng suốt (trí) mới biết yêu người đáng yêu, ghét người đáng
ghét, đề bạt người chính trực, bỏ người cong queo. Đó là một phẩm chất và
năng lực rất quan trọng của nhà quản lý.
d. Nhân và Dũng.
Dũng là tính kiên cường, quả cảm, dám hi sinh cả bản thân mình vì
nghĩa lớn. Khổng Tử khen Bá Di, Thúc Tề thà chết đói chứ không thèm cộng
tác với kẻ bất nhân, là người Nhân. Dũng còn thể hiện ở ý chí dám vượt qua
mọi khó khăn để đạt tới mục đích. Khi bị bao vây, thầy trò Khổng Tử đói,
“mặt xanh như tàu lá”, ông vẫn thản nhiên đọc sách, gảy đàn và động viên học
trò: “Người quân tử có khi cùng khốn là lẽ dĩ nhiên, kể tiểu nhân cùng khốn
thì phóng túng làm càn”.
Nhưng Dũng không ngang hàng với Nhân, mà chỉ là một bộ phận tính
cách của Nhân. Người Nhân tất có Dũng “Nhân giả tất hữu Dũng”, nhưng
những người Dũng chưa chắc có Nhân “Dũng giả bất tất hữu Nhân”. Nhân là
phương thuốc chữa cơn loạn đang bồng bột khắp xã hội. “Những kẻ hiếu dũng
lại ghét nghèo sẽ gây bạo loạn” (Thái bá, VIII. 10); “Duy chỉ có ai dốc chí vào
nhân mới không làm điều gì xấu” (Lý nhân, IV.4). Khổng Tử rất ghét những
kẻ hữu Dũng bất Nhân, vì họ là nguyên nhân của loạn.
Đạo của Khổng Tử không quá xa cách với đời. Nhân - Trí - Dũng là
những phẩm chất cơ bản của người quân tử, là tiêu chuẩn của các nhà quản lý
e. Nhân và Lợi.
•
Khổng Tử không đặt chữ Lợi ngang bằng chữ Nhân. Với ông “Người
quân tử hiểu rõ về Nghĩa, tiểu nhân hiểu rõ về Lợi”.Như vậy, theo Khổng Tử
chữ Lợi còn bị phụ thuộc vào chữ Nghĩa nữa. Hãy xem ông lý giải các mối
quan hệ này.
Lợi và Nghĩa: con đường mà Khổng Tử chọn không phải để trở thành
một doanh nhân; giàu có cũng không phải là lý tưởng của ông, nhưng ông biết
lợi ích kinh tế, hướng tới giàu sang là một mục tiêu, là động cơ có tính khách
quan của mọi người : “Giàu sang là điều ai cũng muốn, nhưng nếu được giàu
sang mà trái với đạo lý thì người quân tử không thèm, nghèo hèn là điều ai
cũng ghét, nhưng nếu sự nghèo hèn mà không ừái đạo lý thì người quân tử
cũng không bỏ” (Lý Nhân)
Khổng Tử cũng mong phú quý, nhưng ông chỉ thừa nhận nó trở thành lợi ích
cho xã hội khi nó “không trái với đạo lý” và phải đạt được bằng những
phương tiện thích đáng: “Giàu nếu có thể cầu được, thì tuy làm kẻ
cầm roi là việc rất ti tiện, ta cũng chịu làm, nếu không thể cầu được, thì ta cứ
làm theo sở thích của ta” (Thuật Nhi).
Biết là giàu sang “không thể cầu được”, Khổng Tử đã an tâm với sứ
mạng “làm mõ gỗ”, giáo hoá thiên hạ và thanh thản chấp nhận cảnh nghèo:
“ăn gạo nấu, uống nước lã, co cánh tay mà gối đầu, trong cảnh đó cũng có cái
vui. Nhưng làm điều bất nghĩa mà được giàu sang thì ta coi như mây nổi”.
Khổng Tử không phản đối chuyện làm giàu, không coi chuyện làm
giàu, tính toán lợi ích kinh tế là chuyện tiểu “tiểu nhân”, là điều cấm kỵ và trái
với đạo Nhân, như những hủ nho sau này gán cho ông. Thậm chí ông còn
đánh giá cao những người biết làm giàu đúng Lễ Nghĩa. Ồng khen công tử
Kinh nước Vệ “khéo léo cư xử ở nhà, khi mới có một ít thì nói rằng : tạm
được rồi, khi có một ít thì nói rằng: tạm đủ rồi, khi đã giàu có thì nói rằng:
tạm đựoc tốt đẹp rồi” (Tử Lộ). Ông chỉ coi thường những kẻ giàu có nhưng
bất nhân, như trên đã nói, với ông Nhân cao hơn Lợi, “Vua Cảnh Tông nước
Te có đủ ngựa kéo một nghìn cỗ xe, lúc chết nhân dân không thấy công đức gì
đáng khen; Bá Di, Thúc Te chết đói dưới núi Thái Dương, đến nay nhân dân
còn khen ngợi, có thể vì lẽ đó”. (Quý Thị).
Lợi và Thành: Với tầng lớp “Sĩ’ và các nhà cai trị, Khổng Tử rất khắt
khe khi xem xét “Lợi”. Không bao giờ ông đánh giá sự thành công và thành
đạt của họ chỉ dựa vào mức thu nhập, phú quý và vinh hoa của cá nhân nhà
quản lý mà ở chính sự thành đạt của đối tượng quản lý của họ - người dân.
Ông đòi hỏi họ làm giàu cho “phải đạo”, và khi đã có rồi cũng vẫn giữ được
đạo Nhân, tuy rằng đó là điều không dễ, Khống Tử tin, một niềm tin khá ngây
thơ, những người có Nhân tất có ngày thành đạt vì họ làm theo “mệnh ười”.
Trong số các học ưò của ông, Tử cống là ngưòi biết buôn bán giỏi, nhưng ông
nhận xét “Tử không thuận theo mệnh trời” vì lo làm giàu mà không ham đạo
lý. Nhan Hồi là một nguời ngheò khó, nhưng luôn giữ đạo Nhân nên được
ông khen là “người hiền”. Khi bị bao vây và tuyệt lương ở Trần, Thái, thầy trò
ông đều bị đói, nhiều người hoang mang không tin vào lẽ phải của đạo Nhân,
chỉ riêng Nhan hồi không mất đức tin, Khổng Tử hớn hở bảo : “Hỡi con người
họ Nhan, nếu anh giàu thì ta sẽ quản lý của cải cho”. Thế đấy, ông dám bỏ qua
sự cách biệt theo lễ , sẵn sàng làm quản lý, làm lợi cho học trò của mình, vì
vững tin rằng làm cho người Nhân cũng là thực hiện đạo Nhân.
Bổng lộc là phần thưởng trong công việc: Lợi là nhu cầu, lợi ích cơ
bản của người quản lý và kẻ bị quản lý, Khổng Tử muốn tầng lớp cai trị
hướng tới Lợi, nhưng đó là thứ lợi lâu bền giành được bằng tài năng và đức
hạnh của họ - thứ lợi hợp Nhân, chứ không phải thứ của cải “ăn xổi, ở thì”,
tạm bợ như như “mây nổi”hoặc bổng lộc giành được bằng cách làm xảo trá, ti
tiện, bất nhân.
Cái tinh tế của đạo Nhân là ở chỗ Khổng Tử khuyên các nhà cai trị
không nên chỉ dựa vào lợi để ra quyết định quản lý: “nương tựa vào điều lợi
mà làm là hay sinh ra nhiều điều oán”. Ông biết họ có nhiều ưu thế để tranh
lợi với cấp dưới và những người lao động luôn phải chịu mức sống thấp hơn,
cho nên, điều quan trọng với nhà quản lý là phải nghiêm khắc với mình, rộng
lượng với người và lo trước nỗi lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ,
Chỉ như vậy xã hội mới có cái lợi dài lâu là môi trường chính trị-xã hội ổn
định, các giai cấp hợp tác cùng làm ăn vì mục tiêu chung: kinh tế thịnh vượng,
tinh thần tốt đẹp.
Khổng Tử khuyên các nhà quản lý phải “khắc phục được tư dục”,
không nên cầu lộc cho cá nhân mình, cứ chuyên tâm làm tốt công việc thì
“bổng lộc tự khắc đến”. Cách chúng ta hơn 2,5 ngàn năm, ông đã hiểu được
“đầu ra” và hiệu quả của lao động quản lý. Nếu các nhà quản lý chỉ lo tìm lợi
cho bản thân họ thì nhất định tổ chức sẽ rối loạn, môi trường bên trong của nó
sẽ bị nhiễm độc bởi bầu không khí ích kỉ và dối trá.
Làm cho dân giàu là mục tiêu đầu tiên, cơ bản của quản lý: đối với
những người nông dân nghèo khổ đương thời, Khổng Tử biết lợi ích kinh tế là
nhu cầu thiết yếu của họ, nên ông biết đạo Nhân sẽ khó thực hiện khi quần
chúng còn nghèo khổ: “Nghèo mà không oán là khó, giàu mà không kiêu là
dễ”. Khổng Tử sang nước Vệ, Nhiễm Hữu đánh xe, Khổng Tử nói: “Dân đông
thay!”, Nhiễm Hữu hỏi: “Đã đông rồi làm gì hơn nữa?”, Khổng Tử nói: “Làm
cho dân giàu”, Nhiễm Hữu hỏi: “ Đã giàu rồi, lại làm gì hơn nũa?”, Khổng Tử
nói: “Giáo dục họ”.
Tư tưởng “làm cho dân giàu”, “tiên phú, hậu giáo” là tư tưởng duy vật của
Khổng Tủ, được các học giả của Nho gia và Mặc gia sau này phát triển thêm.
Mặc Tử đề cao thuyết Kiêm ái: “Cùng yêu nhau, cùng làm lợi cho nhau”.
Khổng Tử đánh giá mâu thuẫn về lợi ích kinh tế trong xã hội có đối
kháng giai cấp bằng con mắt của một nhà cai trị nhân đức chứ không phải là
một nhà cách mạng. Ông cố gắng điều hoà mâu thuẫn này và duy trì sự ổn
định cho xã hội bằng đạo Nhân. Theo ông, cái gốc của loạn là người nghèo
chưa được giáo hoá: “Ham sức mạnh mà không yên phận nghèo thì sẽ loạn,
người bất nhân mà bị ghét thái quá, sẽ sinh loạn” (Thái Bá).
Phương thuốc mà Khổng Tử chữa cho xã hội loạn lạc thời đó là đạo
Nhân đã được ông truyền bá, “giáo hoá” cho cả hai phía: Người cai trị và kẻ
bị cai trị. Tuy nhiên có thể vì quá tự tin về sức mạnh và công hiệu của nó nên
có lúc ông đã tự mâu thuẫn với mình mà rơi vào chủ quan duy ý chí. Tử cống
hỏi: nghèo mà không nịnh hót, giàu mà không
kiêu căng, thì thế nào”, Khổng Tử nói: “cũng khá đấy, nhưng chưa bằng
nghèo mà vẫn vui, giàu mà vẫn ham lễ nghĩa” (Học Nhi).
Tư tưởng của Khổng Tử về sự “ổn định kỷ cương và phát triển” là con đường
quản lý có hiệu quả và thành công đối với xã hội phong kiến.
Tư tưởng quản lý của Khổng Tử khác xa với các thuyết duy lợi, thực
dụng, duy kinh tế...hiện đại, đang được truyền bá rộng rãi ở các nước phương
Tây. Hiện tượng “thần kỳ” của một số nền kinh tế châu Á có nguồn gốc là do
biết vận dụng và phát triển các tư tưởng “phi kinh tế”, giàu tính nhân bản của
Khổng Tử vào kinh doanh và quản lý tronh nền kinh tế thị trường. Đó cũng là
một nét đặc thù của “của nghĩa tư bản Khổng giáo” và văn hoá quản lý Khổng
giáo.
3. Tại sao đạo nhân là triết lý quản lỷ của Khổng Tử?
Với vũ trụ quan, thiện, địa, nhân- vạn vật nhất thể, trời và người tương
hợp, Khổng Tử nhận thấy các sự biến của vanh vật tuân theo quy luật khách
quan mà ông gọi là “ mệnh trời, nhân người”, theo Nho học” là cái đức của
trời, sự giao họp âm dương, sự hội tụ của quỷ thần, cái tinh khí của ngũ hành.
Con người sinh ra đều có bản chất người nhưng do trời phú khác nhau về
năng lực và hoàn cảnh sống khác nhau cho nên đã trở thành những nhân cách
khác nhau. Bằng sự học tập, tu dưỡng không ngừng, con người dần dần hoàn
thiệ bản chất của mình- trở thành người nhân. Và những người hiền này có sứ
mệnh giáo hóa xã hội.
Học thuyết nhân trị của khổng Tử cũng là 1 học thuyết quản lý xã hội
nhằm phát triển bản chất tốt đẹp của con người, lãnh đạo họ theo nguyên tắc
đức trị, người trên noi gương, kẻ dưới tự giác tuân theo.
Từ các lý lẽ trên ta có thể nói đạo nhân là triết lý quản lý của khổng
tử.Tinh thần cơ bản của triết học quản lý Nho gia là lấy “Nhân”
làm trung tâm, trên các phương tiện, cách thức, con đường trong quản lý đều
đề xuất những kiến giải độc đáo.
về phương tiện quản lý. Khái niệm trung tâm trong triết học Nho gia
là “Nhân”. Xét kết cấu chữ, “Nhân” là chữ do hai chữ “nhị nhân” kết hợp.
- Xem thêm -