Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH...

Tài liệu TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH

.PDF
161
143
120

Mô tả:

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH YÊN NGỌC TRUNG TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC HÀ NỘI - 2017 HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH YÊN NGỌC TRUNG TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC Mã số: 62 31 02 04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. BÙI ĐÌNH PHONG 2. PGS.TS. LÊ VĂN TÍCH HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả Yên Ngọc Trung MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 6 1.1. Nghiên cứu triết lý 6 1.2. Nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh 11 1.3. Nghiên cứu triết lý hành động Hồ Chí Minh 16 1.4. Kết quả nghiên cứu và vấn đề đặt ra cho luận án 30 Chương 2: KHÁI NIỆM, CƠ SỞ HÌNH THÀNH, BẢN CHẤT TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH 33 2.1. Một số khái niệm 33 2.2. Cơ sở hình thành triết lý hành động Hồ Chí Minh 43 2.3. Bản chất triết lý hành động Hồ Chí Minh 67 Chương 3: NỘI DUNG CƠ BẢN TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH 78 3.1. Triết lý về mục tiêu hành động 78 3.2. Triết lý về động lực hành động 88 3.3. Triết lý về phương pháp hành động 102 Chương 4: GIÁ TRỊ DÂN TỘC VÀ THỜI ĐẠI TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH 123 4.1. Giá trị đối với sự phát triển dân tộc 123 4.2. Giá trị thời đại triết lý hành động Hồ Chí Minh 137 KẾT LUẬN 148 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 151 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận án Bằng hành động thực tiễn, nghiên cứu lý luận, trải qua một cuộc đời oanh liệt, đầy gian khổ hy sinh, vô cùng cao thượng và phong phú, vô cùng trong sáng và đẹp đẽ, Hồ Chí Minh đã hình thành triết lý hành động của mình từ rất sớm, trở thành chủ đề nhất quán xuyên suốt đến tận cuối đời. Cùng với tư tưởng, đạo đức, phong cách, phương pháp, triết lý hành động Hồ Chí Minh được thực hiện trên thực tế đã đem lại thắng lợi cho cách mạng Việt Nam. Những thắng lợi đã đưa nhân dân một nước nghèo nàn, lạc hậu, bị thực dân, đế quốc đô hộ trở thành người làm chủ, đất nước được độc lập, hòa bình, nhân dân được tự do, hạnh phúc. Triết lý hành động Hồ Chí Minh hình thành trước nhu cầu lựa chọn con đường cách mạng để giải phóng và phát triển dân tộc. Đi ra thế giới, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Triết lý hành động Hồ Chí Minh chỉ ra độc lập dân tộc, quyền độc lập dân tộc là thiêng liêng, bất khả xâm phạm và tự do, hạnh phúc cho nhân dân là mục tiêu hành động. Nội dung mục tiêu hành động Hồ Chí Minh là những giá trị bất biến, mục tiêu bất biến được thể hiện bằng những hành động phong phú, mạnh mẽ của Hồ Chí Minh trong quá trình lãnh đạo, thực hiện hóa các mục tiêu cách mạng. Triết lý về mục tiêu hành động Hồ Chí Minh còn nguyên giá trị, góp phần định hướng hành động cho Đảng, nhân dân ta trong sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước. Qua lăng kính chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh không chỉ chọn lọc được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây mà còn nhận thấy và phát triển các động lực cho hành động cách mạng. Triết lý về sức mạnh của quần chúng, vai trò của quần chúng nhân dân được quán triệt trong hành động. Dân là điểm mấu chốt, cốt lõi của mọi hành động, triết lý hành động Hồ Chí Minh. Lòng yêu nước và tinh thần yêu nước của nhân dân trong truyền thống dân tộc được Hồ Chí Minh xác định như các thứ của quý, Người bằng hành động cụ thể, thiết thực khơi dậy và phát huy các thứ của quý đó phục vụ 2 cho sự nghiệp cách mạng. Lòng yêu nước được phát huy bằng thi đua là yêu nước, yêu nước phải thi đua, cùng tinh thần đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết dân tộc và quốc tế, tạo ra động lực hành động mạnh mẽ quyết định cho những thắng lợi cách mạng. Trong sự nghiệp cách mạng, phương pháp dân chủ, phong cách dân chủ được thực hành đã trở thành cái chìa khóa vạn năng để có thể giải quyết mọi khó khăn. Triết lý về động lực hành động thể hiện trong triết lý hành động Hồ Chí Minh có cơ sở lý luận khoa học, có kết quả thực tiễn phong phú khẳng định, đã và đang là những nội dung định hướng cho hành động của Đảng trong hoạch định chủ trương, xây dựng chính sách nhằm phát huy tốt nhất các động lực cho sự nghiệp cách mạng trong điều kiện mới của đất nước. Triết lý về phương pháp hành động Hồ Chí Minh thể hiện trong sự nghiệp cách mạng phong phú và sâu sắc. Triết lý “Dĩ bất biến ứng vạn biến” là phương pháp hành động, chỉ đạo hành động số một của Hồ Chí Minh. Quán triệt triết lý này trong hành động đảm bảo kiên định mục tiêu độc lập của dân tộc, tự do, hạnh phúc của nhân dân, đồng thời thể hiện tính linh hoạt, sáng tạo trong phương pháp hành động cụ thể nhằm hoàn thành các mục tiêu mà cách mạng đặt ra. Trước thực trạng suy thoái về tư tưởng, đạo đức, nói không đi đôi với làm, nói một đằng, làm một nẻo,... trong đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay, các triết lý về phương pháp hành động miệng nói tay làm, nêu gương trong hành động, đảng viên đi trước làng nước theo sau, đảng viên là đầu tàu gương mẫu trong triết lý hành động Hồ Chí Minh càng khẳng định giá trị mạnh mẽ của việc vận dụng, thực hành triết lý. Triết lý hành động Hồ Chí Minh về nói đi đôi với làm, nêu gương, làm gương trong hành động là một giá trị cần được phát triển, mở rộng, trở thành các tiêu chí quan trọng trong đánh giá phẩm chất đạo đức, tư tưởng của cán bộ, đảng viên hiện nay. Với những kết quả đạt được trong thực tế hành động cách mạng, triết lý hành động Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển triết lý hành động có trong chủ nghĩa Mác - Lênin, phát triển triết lý hành động của dân tộc lên tầm cao mới. Nội 3 dung triết lý định hướng hành động cho Đảng, định hướng xây dựng phẩm chất, chuẩn mực hành động, chiến đấu, lao động học tập cho cán bộ, đảng viên. Đồng thời những thắng lợi của cách mạng Việt Nam, của triết lý hành động Hồ Chí Minh đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa trên thế giới. Thực hiện triết lý hành động của mình, Hồ Chí Minh cho thấy tấm gương người chiến sĩ cộng sản quốc tế trong sáng, thủy chung, khẳng định triết lý hành động nhân văn của dân tộc Việt Nam. Triết lý hành động Hồ Chí Minh, với những nội dung khoa học và sâu sắc, các giá trị của nó làm phong phú di sản Hồ Chí Minh, tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, giá trị lý luận và thực tiễn của triết lý có ý nghĩa đối với sự phát triển của dân tộc và thời đại. Vì những lý do đó tôi chọn Triết lý hành động Hồ Chí Minh làm luận án tiến sĩ với mong muốn được hiểu biết và góp phần làm sáng tỏ kho tàng di sản Hồ Chí Minh. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích Luận án nghiên cứu làm rõ về khái niệm, cơ sở hình thành, bản chất, nội dung cơ bản; giá trị dân tộc và thời đại triết lý hành động Hồ Chí Minh. 2.2. Nhiệm vụ Để đạt được mục đích, luận án giải quyết những nhiệm vụ sau đây: - Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, chỉ ra những kết quả và xác định những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu, làm rõ. - Xác định khái niệm; cơ sở hình thành triết lý hành động Hồ Chí Minh. - Phân tích nội dung, xác định bản chất triết lý hành động Hồ Chí Minh. - Đánh giá giá trị dân tộc và thời đại triết lý hành động Hồ Chí Minh. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Triết lý hành động Hồ Chí Minh bao gồm các khía cạnh cơ sở hình thành, nội dung, bản chất, giá trị dân tộc và thời đại của triết lý. 4 3.2. Phạm vi nghiên cứu Dưới góc độ Hồ Chí Minh học, về tư liệu, luận án phân tích hành động, việc làm, bài viết, bài nói, chỉ đạo thực tiễn của Hồ Chí Minh; về nội dung là những quan điểm, hành động thực tiễn; về thời gian chủ yếu từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến năm 1969, để làm rõ nội dung, giá trị của triết lý. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Cơ sở lý luận của luận án là những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về con đường, mục tiêu, động lực, phương pháp hành động cách mạng. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và các phương pháp cụ thể như: phương pháp logic và phương pháp lịch sử trong phân tích, đánh giá các sự kiện, hành động của Hồ Chí Minh; sử dụng phương pháp trừu tượng hóa và khái quát hóa để làm rõ triết lý hành động Hồ Chí Minh biểu đạt trên các lĩnh vực, đồng thời sử dụng một số phương pháp cụ thể khác như phân tích, so sánh, tổng hợp,… để hoàn thành mục đích luận án đặt ra. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu 5.1. Ý nghĩa khoa học - Đề tài góp phần làm rõ khái niệm, xác định bản chất triết lý hành động Hồ Chí Minh. - Đề tài làm rõ cơ sở hình thành, nội dung triết lý hành động Hồ Chí Minh. - Xác định giá trị dân tộc và thời đại của triết lý hành động Hồ Chí Minh; góp phần khẳng định tính toàn diện của di sản Hồ Chí Minh. - Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, đề tài góp phần là cơ sở khoa học định hướng hành động cho các chủ thể lãnh đạo tiến trình cách mạng, đảm bảo sự thống nhất, xuyên suốt trong mọi hành động. Định hướng xây dựng mục tiêu hành động, lựa chọn phương pháp hành động, xác định động lực và phát huy động lực cách mạng. Triết lý góp phần làm căn cứ khoa học trong xây dựng, 5 cũng như đánh giá đội ngũ cán bộ, đảng viên. Góp phần truyền cảm hứng hành động đến cán bộ, đảng viên và nhân dân, hình thành nên một đội ngũ cán bộ, đảng viên có tâm, có đức, có tài trong xây dựng, đổi mới, phát triển đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. 5.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận án góp phần gia tăng tri thức về khoa học chính trị nói chung, Hồ Chí Minh học nói riêng và là cơ sở lý luận để khai thác tốt hơn di sản Hồ Chí Minh vào quá trình phát triển xã hội. Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, học tập trong các chuyên ngành của khoa học chính trị như: Hồ Chí Minh học, chính trị học, xây dựng Đảng cũng như vận dụng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay. 6. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình đã công bố của tác giả liên quan đến luận án và danh mục tài liệu tham khảo, luận án được kết cấu thành 4 chương, 12 tiết. 6 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. NGHIÊN CỨU TRIẾT LÝ Triết lý là khái niệm có lịch sử ra đời sớm và được bàn luận nhiều trong các công trình nghiên cứu liên quan đến nhân sinh quan, thế giới quan. Nhưng cho đến nay, chưa có công trình chuyên biệt nào nghiên cứu triết lý. Khái niệm triết lý chỉ được luận bàn trong mối quan hệ với triết học hoặc minh triết, cũng có thể được bàn đến trong các nghiên cứu liên quan đến một số triết lý cụ thể như: triết lý phát triển, triết lý giáo dục, triết lý nhân sinh,… Trong những công trình này, các tác giả bước đầu đưa ra khái niệm triết lý, đặc điểm nhận biết, phân biệt giữa triết lý, triết học hay minh triết. Mặc dù còn có những quan điểm chưa thống nhất về vị trí của triết lý trong mối quan hệ với minh triết, triết học nhưng cơ bản các nhà nghiên cứu dần đi đến sự thống nhất về đặc điểm, nội dung, bản chất để xác định vị trí của các khái niệm này trong mối quan hệ với nhau. Nghiên cứu khái niệm triết lý, có thể kể đến Những dị biệt giữa hai nền triết lý Đông Tây [11] của Kim Định. Trong tiểu luận này, tác giả so sánh cả ba khái niệm triết lý, minh triết và triết học. Qua nghiên cứu, ông cho rằng triết lý và minh triết giống nhau ở đối tượng, cả hai lấy cứu cánh con người làm trọng tâm suy nghĩ, lấy sự thực hiện đến rốt ráo cái tính bản nhiên của con người làm mục tiêu. Triết lý và minh triết khác nhau ở phương pháp, minh triết nhìn thẳng trực nghiệm không đưa ra lý sự biện chứng, bàn giải như triết lý. Ông đi đến kết luận, xét về nội tại triết lý thấp hơn minh triết, nhưng lại có giá trị hơn minh triết ở chỗ nó gần với quảng đại quần chúng nhân dân, phần nào giúp quần chúng nhân dân hiểu được minh triết. So sánh triết lý và triết học, tác giả nhận định triết học khác triết lý ở ba điểm: Thứ nhất, triết học không lấy con người mà lấy thiên nhiên sự vật làm trung tâm suy tư. Thứ hai, triết học theo lối khoa học phê phán và phân tích cố gắng tìm ra những ý niệm độc đáo và tích lũy sự kiện để kết thành những hệ thống mạch lạc chặt chẽ. Về mục tiêu, triết học lấy tri thức làm cùng đích, vì thế nó không nhằm 7 thực hiện vào bản thân như triết lý mà nhằm tìm biết sự khách quan. Thứ ba, phương Đông thiên về minh triết và triết lý còn phương Tây thiên về triết học. Như vậy, trong Tiểu luận nghiên cứu Những dị biệt giữa hai nền triết lý Đông Tây, tác giả không xác định các khái niệm triết học, triết lý, minh triết mà là đưa ra các đặc điểm để phân biệt các khái niệm này. Cuốn Triết lý phát triển ở Việt Nam mấy vấn đề cốt yếu [74], một công trình nghiên cứu của nhiều học giả về phát triển xã hội. Cuốn sách trình bày khái niệm triết học, triết lý và phân tích mối quan hệ về bản chất giữa hai khái niệm. Trong sách, các tác giả trích dẫn quan điểm của Trần Văn Giàu cho rằng, triết học và triết lý không giống nhau, “triết học chủ yếu là lý luận về nhận thức… Còn triết lý chủ yếu hướng về đạo lý; hướng về đạo lý, chứ không chỉ là đạo lý” [74, tr.20-21]. Triết lý chủ yếu đặt vấn đề tốt hay xấu, nên hay không nên chứ không đặt vấn đề đúng hay sai, phải hay không phải. Giữa hai loại vấn đề ấy tuy có quan hệ với nhau, nhưng có khác nhau. Quan hệ với nhau của hai vấn đề có thể hiểu đều là những nội dung của tư tưởng, nhưng phạm trù và nội dung cần tìm hiểu của mỗi vấn đề là khác nhau. Trên cùng mạch luận giải vấn đề, các tác giả trích dẫn quan điểm của Vũ Khiêu, “Triết lý là triết học khiêm tốn nói về mình. Triết lý không thể hiện tầm khái quát vũ trụ quan và nhân sinh quan mà thể hiện ý nghĩ và hành vi có ý nghĩa chỉ đạo cuộc sống con người” [74, tr.21]. Như vậy, triết lý cũng giống như triết học, đều đề cập những vấn đề thuộc phạm trù tư tưởng, nhưng triết lý ở mức độ khiêm tốn hơn triết học về tầm khái quát. Quan điểm này phản ánh sự thâm trầm nhưng hết sức sâu sắc, ý nghĩa của triết lý. Không thể hiện là một hệ thống như triết học nhưng chứa đựng những giá trị quan trọng, cốt lõi của tư tưởng, của đạo lý, trực tiếp chỉ đạo cuộc sống của con người. Cũng bàn về vấn đề này, Hoàng Trinh cho rằng, Triết lý là những nguyên lý đầu tiên, những ý tưởng cơ bản được dùng làm nền tảng cho sự tìm tòi và suy lý của con người về cội nguồn, bản chất và các hình thái tự nhiên, xã hội và bản thân, làm phương châm 8 cho sự xử thế và xử sự của con người trong các hành động sống hàng ngày,… Có những dân tộc đã có những triết lý từ lâu mặc dầu chưa có triết học với hệ thống các khái niệm của nó [93, tr.8]. Như vậy, Hoàng Trinh cùng quan điểm với Vũ Khiêu khi cho rằng triết lý là những ý tưởng cơ bản, nền tảng cho sự tìm tòi. Quan điểm này có điểm tương đồng với quan điểm triết lý là triết học khiêm tốn nói về mình. Tuy nhiên, ở đây ông lại quan niệm đó là những nguyên lý đầu tiên, cơ bản, nền tảng cho sự tìm tòi và suy lý. Và đi đến khẳng định có những dân tộc có triết lý từ lâu mặc dù chưa có triết học. Từ quan điểm của các giáo sư, cùng với sự phân tích, ví dụ minh chứng cụ thể để so sánh sự khác biệt giữa triết học và triết lý, các tác giả của cuốn sách đi đến nhận định và đưa ra một cách hiểu khác về triết lý. Các tác giả không hướng tới việc đánh giá triết học và triết lý cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào cao hơn cái nào mà chỉ đánh giá về tính hệ thống, mức độ khái quát của các khái niệm. Trong quan niệm của các tác giả, triết lý ở khía cạnh là những kết luận được rút ra, suy ra từ một triết thuyết, một hệ thống các nguyên lý triết học nhất định, như vậy, triết lý cô đọng hơn triết học. Chính đặc điểm này của triết lý tạo nên cảm quan về sự rời rạc của những nội dung triết lý. Khó có thể thấy tính hệ thống khi mỗi nội dung được cô đọng theo một cách và ở mức sâu sắc nhất có thể. Các tác giả còn chỉ ra triết lý là những kết luận được rút ra, triết lý còn là những tư tưởng, những quan niệm, “là kết quả của sự suy ngẫm, chiêm nghiệm và đúc kết thành những quan điểm, luận điểm, phương châm cơ bản và cốt lõi nhất về cuộc sống cũng như về những hoạt động thực tiễn rất đa dạng của con người trong xã hội” [74, tr.31]. Đưa đến một cách hiểu về triết lý như vậy, cũng cho thấy sự phù hợp trong quá trình phát triển của triết học và triết lý. Rõ ràng, khi các trường phái triết học đã phát triển, được phổ biến sâu rộng nhưng không làm hạn chế hay đánh mất cơ hội ra đời của triết lý, các triết lý vẫn tiếp tục được đúc kết, ra đời và phát huy những giá trị của nó trong đời sống xã hội. Và nó thể hiện rõ nghiên cứu triết học hay triết lý thì đều trên cùng một cấp độ là nghiên 9 cứu tư tưởng, chỉ khác ở góc độ triết học và triết lý hướng đến cái gì, hình thành như thế nào trên cùng một chủ thể tư tưởng. Bài viết Mấy suy nghĩ về triết học và triết lý [83] của Hồ Sỹ Quý chứa đựng những suy nghĩ, nghiền ngẫm có chiều sâu về mối quan hệ giữa triết học và triết lý. Hồ Sỹ Quý đồng quan điểm với Trần Văn Giàu khi cho rằng triết lý và triết học là hai khái niệm khác nhau. Nhưng trong bài viết, Hồ Sỹ Quý quan niệm “nếu có thể đem so sánh với triết học thì triết lý luôn luôn ở trình độ thấp hơn về tính hệ thống, độ toàn vẹn và khả năng nhất quán trong việc giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy” [83, tr.57]. Quan điểm này thống nhất với quan điểm của các nhà nghiên cứu khác khi so sánh về tính hệ thống, đặc điểm hình thức của triết học và triết lý. Tuy nhiên, khi chỉ ra trong “đa số các trường hợp, triết lý thường thiếu chặt chẽ hơn, phiến diện hơn và có nhiều khả năng chứa đựng mâu thuẫn hơn so với triết học” [83, tr.57], thì đã cho thấy một cách đánh giá vừa có sự thống nhất vừa có sự khác biệt với quan điểm triết lý là triết học khiêm tốn nói về mình của Vũ Khiêu, hay triết lý là những nguyên lý đầu tiên, những ý tưởng cơ bản của Hoàng Trinh. Về mặt hình thức thể hiện triết lý, Hồ Sỹ Quý cũng cho rằng “triết lý có thể và nên được hiểu là những tư tưởng, quan điểm hay quan niệm,… mang tính khái quát cao; được phản ánh một cách cô đúc dưới dạng các mệnh đề hoặc các cách phán đoán thường là trau chuốt về mặt ngữ pháp” [83, tr.57] và nó cũng có giá trị định hướng cho hoạt động của con người trong đời sống xã hội về mặt thế giới quan, phương pháp luận hoặc nhân sinh quan. Quan điểm này hoàn toàn đồng nhất với quan điểm của các nhà khoa học khi nghiên cứu về triết lý. Trong sách Triết lý phát triển Hồ Chí Minh - giá trị lý luận và thực tiễn [2] do Phạm Ngọc Anh chủ biên, các tác giả phân tích, lý giải rõ hơn về mối quan hệ giữa triết học và triết lý. Về mặt hình thức thể hiện, giá trị của triết lý, các tác giả đồng quan điểm với nhận định trong các nghiên cứu trước đó của các nhà khoa học. Trên cơ sở nhận định của các nhà nghiên cứu, các tác giả vừa bổ sung và hệ thống các đánh giá, đưa ra nhận định về triết lý, triết học. Các tác giả nhận định, 10 Triết lý là kết quả của sự kết tinh trên cơ sở những nguyên lý triết học, hay cơ sở thực tiễn của con người, được thể hiện dưới dạng những luận điểm, những mệnh đề, những tư tưởng được coi là cốt lõi nhất về cuộc sống, về con người và về xã hội, được nhiều người thừa nhận, coi đó là nguyên tắc xử thế, phương châm sống và hành động [2, tr.27-28]. Điểm khác trong quan điểm của các tác giả so với các nhà nghiên cứu trước đó khi khẳng định triết lý là kết quả của sự kết tinh trên cơ sở những nguyên lý triết học rõ ràng, dứt khoát. Đây là cách một số triết lý được hình thành sau khi khoa học triết học đã ra đời và được biết đến rộng rãi. Quan điểm này có hơi hướng từ những quan điểm của các nhà nghiên cứu trước triết lý là triết học khiêm tốn nói về mình, hay triết lý là những nguyên lý đầu tiên, những ý tưởng cơ bản nhưng chưa khẳng định rõ. Trong sách Triết lý giáo dục thế giới và Việt Nam [21] của Phạm Minh Hạc, nhắc đến ba khái niệm triết học, triết lý, minh triết. Cả ba khái niệm được dẫn theo các cuốn từ điển. Tác giả không đi sâu tìm chỗ giống nhau và điểm khác biệt mà dẫn người đọc hiểu đại thể triết lý là triết học đã được vận dụng vào một trường hợp cụ thể, gắn với cuộc sống thực ở một cấp độ nào đó, trong một phạm vi nào đó. Hay sách, Văn hóa và triết lý phát triển trong tư tưởng Hồ Chí Minh [50], các tác giả hiểu về triết lý theo quan điểm nêu trong Từ điển tiếng Việt [77] do Hoàng Phê chủ biên, Triết lý là lý luận về triết học hoặc là quan niệm chung của con người về những vấn đề nhân sinh và xã hội. Tóm lại, nghiên cứu về triết lý không nhiều, một số công trình nghiên cứu có bàn đến triết lý chỉ nhằm thống nhất nhận thức về triết lý, làm cơ sở nghiên cứu nội dung một triết lý cụ thể. Tổng quan tình hình nghiên cứu triết lý cho thấy nhận thức về khái niệm, đặc điểm nhận biết trong mối quan hệ với triết học của các nhà nghiên cứu là tương đối thống nhất. Các nghiên cứu cũng cho thấy điểm chưa thống nhất trong nhận định về triết lý, nhưng các điểm đó không mâu thuẫn mà chỉ thể hiện khía cạnh quan sát khác nhau. Đặc biệt, các nghiên cứu luôn đặt triết lý trong mối quan hệ với triết học, so sánh, phân biệt các khái niệm, cũng như 11 quan hệ bổ sung cho nhau của các khái niệm. Các công trình nghiên cứu về sau có kế thừa và bổ sung cho các công trình công bố trước đó, ngày càng làm sáng rõ mối quan hệ hay cách hiểu về mối quan hệ giữa triết học và triết lý. Dựa vào tổng quan nghiên cứu triết lý, tác giả luận án có thêm cơ sở để xác định rõ khái niệm, bản chất của triết lý hành động Hồ Chí Minh, hoàn thành mục tiêu luận án đặt ra. 1.2. NGHIÊN CỨU TRIẾT LÝ HỒ CHÍ MINH Trước những vấn đề đặt ra trong phát triển xã hội, trong nghiên cứu di sản Hồ Chí Minh, nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh thời gian gần đây được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Tần suất xuất hiện các khái niệm triết lý, triết lý phát triển trên các sách, báo, tạp chí, phương tiện truyền thông ngày càng nhiều. Lựa chọn cho mình một triết lý phát triển không chỉ đặt ở cấp độ quốc gia mà còn là vấn đề của từng địa phương, vùng miền, từng doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế,… Tuy nhiên, các công trình chuyên biệt nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh không nhiều. Triết lý Hồ Chí Minh, cách thức tiếp cận triết lý được đề cập sớm trong các công trình nghiên cứu về Hồ Chí Minh của Trần Văn Giàu. Trong sách Sự hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh [19], Trần Văn Giàu không bàn về triết lý Hồ Chí Minh nhưng đưa ra một gợi ý hết sức quan trọng cho nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh. Đó là, “Đạo đức học Hồ Chí Minh là một bộ phận lớn của triết lý Hồ Chí Minh” [19, tr.164]. Bộ phận lớn ấy chính là, “Tận tụy quên mình, vì đời, vì người, vì nước, vì dân, và suốt đời như vậy đó chỉ có thể là nhân cách của một bậc thánh, một nhà hiền triết hành động” [19, tr.170]. Trong sách Vĩ đại một con người [20], Trần Văn Giàu “xem việc lấy hành động mà xét tư tưởng, như là một phương pháp để nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh. Mà đó cũng là phương pháp của Nguyễn Ái Quốc sẽ dùng để đi tìm tư tưởng đích thực của một người hay một tổ chức” [20, tr.226]. Tuy nhiên, để lấy hành động mà xét tư tưởng có những trở ngại nhất định, vì thế: Thực ra thì vẫn căn cứ vào tư liệu viết, nhưng khi cần phải theo phương châm xưa “ý tại ngôn ngoại” mới tiếp cận nổi những chỗ thâm thúy nhất của tư tưởng triết học của Hồ Chí Minh. Lại phải xem toàn 12 bộ cuộc đời hoạt động trước sau như một của Cụ Hồ như là kho tư tưởng triết học phong phú nhất [20, tr.284]. Đây là chỉ dẫn hết sức quý báu trong nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh, đặc biệt nghiên cứu triết lý hành động Hồ Chí Minh. Trần Văn Giàu thêm một gợi ý khi nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh, Cụ Hồ là mácxít, thế giới quan của Cụ là duy vật biện chứng. Nhưng chủ nghĩa Mác chưa hề cấm cản người mácxít uyên bác đóng góp tư tưởng triết lý vào vũ trụ quan mácxít làm cho nó phong phú thêm lên. Một chiến sĩ cách mạng Đông phương sao lại không thể, trong lúc mình là mácxít hay chính vì mình là mácxít có kế thừa và làm cho duy vật biện chứng càng có tác dụng tích cực trong nhận thức luận và hành động thực tiễn ở Đông phương [20, tr.285]. Nhận định này lý giải điều đặc biệt, Hồ Chí Minh không có công trình đồ sộ bàn về triết học nhưng về mặt nào đó triết lý Hồ Chí Minh thực tiễn hơn triết học. Thấy rõ Hồ Chí Minh là nhà triết học hành động, Người chỉ thâu nạp những gì cần thiết, hữu ích cho cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân. Đây là những định hướng quan trọng cho nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh. Triết lý phát triển xã hội Hồ Chí Minh không là trọng tâm nghiên cứu trong cuốn Triết lý phát triển ở Việt Nam - mấy vấn đề cốt yếu [74] do Phạm Xuân Nam chủ biên, nhưng sách có một chương bàn về Triết lý phát triển xã hội của Hồ Chí Minh. Các tác giả khẳng định, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ ra cơ sở khoa học để xác định, xây dựng triết lý phát triển cho đất nước. Phải lấy triết lý phát triển đó làm “một trong những công cụ định hướng hành động quan trọng nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội” [74, tr.41-42]. Từ việc nhận định nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở khoa học để xác định, xây dựng triết lý phát triển đất nước, các tác giả tiến đến bàn về triết lý Hồ Chí Minh. Các tác giả khẳng định, “Triết lý Hồ 13 Chí Minh nặng về những chiêm nghiệm làm người và ở đời… những quan niệm gắn liền với cách sống, lối sống, với hành vi và phẩm chất của hành vi, với hoạt động cách mạng giải phóng con người và giải phóng dân tộc…” [74, tr.463]. Nhận định này, cùng quan niệm về triết lý Hồ Chí Minh của các nhà nghiên cứu ở các công trình khác. Trong sách, các tác giả đồng tình với Trần Văn Giàu trong quan điểm triết lý Hồ Chí Minh mang thế giới quan triết học mácxít, bổ sung làm phong phú triết học mácxít. Các tác giả chỉ ra, “điều vừa nói không cản trở việc tiếp thu, vận dụng và phát triển phong cách duy lý của các trường phái tư tưởng phương Tây cũng như tinh hoa của các trường phái tư tưởng mà Hồ Chí Minh đã từng lĩnh hội” [74, tr.463]. Đây cũng là quan niệm có sự thống nhất với một số nhà nghiên cứu khác. Trong sách Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh [3], Hoàng Chí Bảo không luận bàn về một triết lý cụ thể của Hồ Chí Minh, nhưng đề cập đến tên gọi của nhiều triết lý: triết lý nhân sinh, triết lý thân dân, triết lý sống, triết lý hành động, triết lý hạnh phúc, triết lý phát triển, triết lý giáo dục, triết lý đạo đức,… và nhận định về triết lý Hồ Chí Minh, đó là triết lý về lẽ sống ở đời và đạo làm người, triết lý đó có nền tảng thế giới quan khoa học duy vật biện chứng và nhân sinh quan cách mạng. Tác giả khẳng định, “Đó là triết lý hành động chủ động, tích cực và sáng tạo để thực hiện khát vọng giải phóng con người, phát triển xã hội nhằm đạt tới những giá trị đích thực của cuộc sống: Độc lập, Tự do và Hạnh phúc” [3, tr.177]. Mục tiêu Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, nhưng nội dung sách không chỉ là nét phác thảo cơ bản về một số triết lý Hồ Chí Minh mà còn sử dụng một số khái niệm như: triết học hành động; triết học chính trị thực tiễn; triết học nhân sinh và cách mạng, đồng thời nhận định: Triết học mang hình hài, sắc thái, diện mạo của những triết lý Hồ Chí Minh, nó chính là linh hồn của Hồ Chí Minh học - triết học để hành động và phát triển, triết lý nhân sinh quy tụ ở chữ Dân, nó hướng tới Đạo đức Thân Dân và Chính Tâm, nó trở thành lẽ sống và đạo lý ở đời và làm người [3, tr.304]. 14 Việc đưa các khái niệm, đặt ra yêu cầu giải quyết, làm rõ mối quan hệ giữa triết học và triết lý trong nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh theo xu hướng triết học làm nền tảng hình thành triết lý của Hoàng Chí Bảo trùng với quan điểm Trần Nhâm trong sách: Hồ Chí Minh nhà tư tưởng thiên tài [76]. Trong sách này, Trần Nhâm nhận định, Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng lớn, nhà tư tưởng thiên tài, mà “là nhà tư tưởng, không thể không lấy tư tưởng triết học làm điểm xuất phát cho hệ thống lý luận của mình. Hệ tư tưởng với tư duy triết học của một nhà tư tưởng gắn với nhau như hình với bóng. Không có nhà tư tưởng nào lại không có hệ tư tưởng triết học của riêng mình” [76, tr.470]. Với những nhận định về mối quan hệ giữa triết học và triết lý ở Hồ Chí Minh, cho thấy Hồ Chí Minh khá đặc biệt khi nắm hệ thống quan điểm, hệ tư tưởng triết học của mình - triết học mácxít, nhưng không trình bày các quan điểm tư tưởng của mình thiên về cách mà các nhà triết học làm. Hồ Chí Minh thể hiện hầu hết các quan điểm, tư tưởng phong phú và toàn diện dưới hình hài, màu sắc, diện mạo của triết lý. Đây cũng chính là điều tạo nên sự gần gũi, dễ hiểu, tính khoa học và sâu sắc của triết lý Hồ Chí Minh, cũng như phản ánh đặc điểm hình thành triết lý. Nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh đáng kể nhất có hai công trình: Triết lý “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh [25] của Nguyễn Hùng Hậu; Triết lý phát triển Hồ Chí Minh - Giá trị lý luận và thực tiễn [2] của Phạm Ngọc Anh chủ biên được xuất bản. Sách Triết lý “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh [25], tác giả khẳng định “dĩ bất biến, ứng vạn biến” là đỉnh cao phương pháp hành động Hồ Chí Minh. Tác giả tập trung nghiên cứu làm rõ cái bất biến trong tư tưởng Hồ Chí Minh và chỉ ra là độc lập của dân tộc, tự do, hạnh phúc, dân chủ cho nhân dân. Mọi sự vạn biến trong hành động, chỉ đạo cách mạng của Hồ Chí Minh suốt cuộc đời xoay quanh cái bất biến xác định. Tác giả cho thấy sự vạn biến trong hành động, chỉ đạo của Hồ Chí Minh không phải là những thay đổi giản đơn mà nó chứa đựng sự sâu sắc của tri thức, kinh nghiệm và vốn sống. Tìm hiểu cụ thể từng sự kiện, từng hành động thấy rõ nó mang tính nghệ thuật, thể 15 hiện rõ sự thâu thái tinh hoa văn hóa, nắm chắc thời cuộc và vạn biến - thay đổi để giành lấy thế chủ động cho mình. Trên cơ sở nhận thức về cái bất biến trong tư tưởng, hành động Hồ Chí Minh, tác giả đề xuất vận dụng triết lý này vào sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước trên một số lĩnh vực. Trong sách Triết lý phát triển Hồ Chí Minh, giá trị lý luận và thực tiễn [2], các tác giả phân tích khái niệm: triết lý, triết lý phát triển, triết lý phát triển Hồ Chí Minh và mối quan hệ giữa triết lý với triết học. Sách thể hiện những khảo cứu về triết lý Việt Nam, triết lý phương Đông và phương Tây, tìm hiểu nguồn gốc tư tưởng - lý luận hình thành nên triết lý phát triển Hồ Chí Minh. Trên cơ sở làm rõ khái niệm, nguồn gốc hình thành, các tác giả tìm hiểu về Bản chất của triết lý phát triển Hồ Chí Minh và Nội dung của triết lý phát triển Hồ Chí Minh; đồng thời, Vận dụng triết lý phát triển Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. Các tác giả trình bày những nghiên cứu khá toàn diện về triết lý phát triển Hồ Chí Minh - những vấn đề đặt ra trong phát triển ở Việt Nam. Bên cạnh các công trình nghiên cứu chuyên biệt, dày dặn, công phu kể trên, còn một số bài viết trên các tạp chí, kỷ yếu Hội thảo khoa học có bàn về triết lý Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, nội dung các bài viết, cũng như quan điểm thể hiện trong bài viết đã được đề cập trong các công trình nghiên cứu của chính tác giả được xuất bản thành sách. Chính vì vậy, trong tổng quan đánh giá về các công trình, bài viết tạp chí, luận án không đi vào phân tích, đánh giá lại các công trình, bài viết này. Các nghiên cứu về triết lý Hồ Chí Minh chưa được xã hội hóa, còn là luận án, luận văn không có nhiều, đáng kể nhất trong số này có bài của Phan Duy Anh nghiên cứu về Triết lý chính trị Hồ Chí Minh: Cơ sở hình thành và nội dung cơ bản. Trong bài, tác giả đưa ra cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn hình thành triết lý chính trị Hồ Chí Minh và những nội dung cơ bản. Trong đó, Triết lý về mục tiêu và giá trị chính trị; Triết lý về quá trình chính trị; Triết lý về chủ thể chính trị; Triết lý về thể chế chính trị là những nội dung triết lý chính trị Hồ Chí Minh được đề cập. 16 Trong nghiên cứu về triết lý Hồ Chí Minh, đa số các nhà nghiên cứu khi luận giải, làm rõ nội dung một triết lý cụ thể đều có luận bàn đến triết lý hành động Hồ Chí Minh. Đây là nội dung sẽ được trình bày rõ hơn trong luận án. Có thể đánh giá nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh chưa nhiều, các công trình nghiên cứu chuyên biệt về một triết lý còn ít, đa số các nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh mới dừng lại ở cấp độ bài viết tạp chí hay bài viết chuyên đề khoa học. Nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh cần tiếp tục nhận được quan tâm hơn nữa từ các nhà khoa học, giới nghiên cứu Hồ Chí Minh học. 1.3. NGHIÊN CỨU TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH Cho đến nay, chưa có nhà khoa học nào lấy triết lý hành động Hồ Chí Minh làm đối tượng nghiên cứu. Tuy nhiên, trong nghiên cứu các triết lý của Hồ Chí Minh hoặc trong nghiên cứu phương pháp, phong cách hay tư tưởng triết học Hồ Chí Minh, các nhà khoa học ít nhiều có đề cập đến triết lý hành động Hồ Chí Minh. Qua các công trình nghiên cứu, tiếp cận từ góc độ nghiên cứu triết lý hành động Hồ Chí Minh, luận án đánh giá một số nội dung sau: - Về mục tiêu hành động Hồ Chí Minh, trong cuốn Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh [3], Hoàng Chí Bảo cho rằng, cuộc đời Hồ Chí Minh là cuộc đời của một con người mọi hành động đều xuất phát từ Dân. “Người hướng tới dân, hòa trong dân, hóa thân vào nhân dân, lấy sức mạnh từ lực lượng đoàn kết của dân, mưu sự vững bền từ đồng tâm nhất trí, đoàn kết, đồng thuận của muôn dân” [3, tr.10]. Tác giả khẳng định, từ những hành động đó mà “triết lý Hồ Chí Minh là triết lý thân dân, là triết lý nhân sinh, triết lý hành động [3, tr.10]. Đây không chỉ là điểm nổi bật, cốt lõi tư tưởng Hồ Chí Minh mà nó là mục tiêu cơ bản, mục tiêu cốt lõi của mọi triết lý Hồ Chí Minh, được triết lý hành động Hồ Chí Minh chuyển tải vào thực tiễn cuộc sống và được thể hiện trong mục tiêu triết lý hành động Hồ Chí Minh. Trong sách, Hoàng Chí Bảo không khẳng định triết lý hành động Hồ Chí Minh có giá trị định hướng cho các triết lý khác, nhưng nhận thấy: “Lôgíc trong triết lý sống ở đời và làm người của Hồ Chí Minh đã từ triết lý hành động, triết
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan