Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Triết lý chính trị Hồ Chí Minh cơ sở hình thành và nội dung cơ bản...

Tài liệu Triết lý chính trị Hồ Chí Minh cơ sở hình thành và nội dung cơ bản

.PDF
120
195
143

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------  ------ Phan Duy Anh TRIẾT LÝ CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC Hà Nội - 2014 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------  ------ Phan Duy Anh TRIẾT LÝ CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN Chuyên ngành: Hồ Chí Minh học Mã số: 60.31.02.04 Ngƣời hƣớng dẫn: PGS.TS. Lại Quốc Khánh Hà Nội - 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác, trung thực. Những kết luận của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác. Tác giả Phan Duy Anh LỜI CẢM ƠN Tác giả luận văn này xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Lại Quốc Khánh, với tinh thần trách nhiệm và tấm lòng của một người Thầy đã hướng dẫn, chỉ dạy và giúp đỡ em trên con đường nghiên cứu khoa học. Xin cảm ơn các Thầy, Cô trong Khoa Khoa học Chính trị, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn_ĐHQGHN và Thầy, Cô giảng dạy các chuyên đề trong quá trình học. Các anh, chị, em học viên cao học đã luôn động viên, giúp đỡ và tạo điều kiện để em hoàn thành luận văn này. Cuối cùng, xin được gửi tới gia đình, người thân và bạn bè lời biết ơn sâu sắc vì sự quan tâm, thấu hiểu và sẻ chia. Xin chân thành cảm ơn! MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ................................................................. 4 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn ........................................ 9 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.............................................................. 10 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ............................................... 10 6. Những đóng góp của luận văn ................................................................... 12 NỘI DUNG ......................................................................................................... 13 Chƣơng 1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TRIẾT LÝ CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH ... 13 1.1. Quan niệm về triết lý, triết lý chính trị và triết lý chính trị Hồ Chí Minh13 1.1.1. Triết lý .................................................................................................... 13 1.1.2. Triết lý chính trị và triết lý chính trị Hồ Chí Minh .......................... 18 1.2. Cơ sở lý luận hình thành triết lý chính trị Hồ Chí Minh .................... 22 1.2.1. Triết lý chính trị truyền thống Việt Nam .............................................. 22 1.2.2. Triết lý chính trị phương Đông............................................................. 29 1.2.4. Triết học chính trị Mác xít .................................................................... 45 1.3. Cơ sở thực tiễn hình thành triết lý chính trị Hồ Chí Minh ................. 49 1.3.1. Thực tiễn Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ............................ 49 1.3.2. Thực tiễn thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ............................... 53 1.3.3. Thực tiễn hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh ............................. 57 Tiểu kết Chƣơng 1 .............................................................................................. 63 Chƣơng 2. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT LÝ CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH ........................................................................................................... 64 2.1. Triết lý về mục tiêu và giá trị chính trị ................................................. 64 2.2 Triết lý về quá trình chính trị ................................................................. 74 2.3. Triết lý về chủ thể chính trị .................................................................... 87 2.4. Triết lý về thể chế chính trị .................................................................... 93 Tiểu kết Chƣơng 2 ............................................................................................ 104 KẾT LUẬN ....................................................................................................... 105 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 107 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong tòa lâu đài Pubbiloco ở Senia (Italia) có hai bức tranh đƣợc vẽ giữa năm 1337 và 1339 bởi họa sĩ lừng danh Anbrogio Lorenzetti. Chúng thƣờng đƣợc gọi là ngụ ngôn về “Chính phủ tốt và xấu” – miêu tả bản chất của chính phủ tốt và xấu tƣơng ứng bằng những hình tƣợng các nhân vật đại diện cho các phẩm chất mà nhà lãnh đạo phải có và không nên có, đồng thời thể hiện ảnh hƣởng của chính phủ đến cuộc sống của ngƣời dân. Ở bức tranh “Chính phủ tốt”, hình tƣợng nhà lãnh đạo đáng kính trong áo choàng lộng lẫy ngồi trên ngai vàng, xung quanh là các nhân vật đại diện cho những đức tính của lòng dũng cảm, công bằng, khoan dung, hòa bình, thận trọng và chừng mực. Bên dƣới là những ngƣời dân đƣợc liên kết bởi một sợi dây dài hai đầu buộc chặt vào cổ tay ngƣời lãnh đạo, tƣợng trƣng cho sự gắn bó giữa nhà lãnh đạo và nhân dân. Cuộc sống sung túc của ngƣời dân dƣới những tác động của chính phủ tốt đƣợc Lorenzetti vẽ lên sinh động. Thành phố rất có trật tự và giàu có, nông thôn tự do trồng trọt và thu hoạch. Tất cả đều toát lên sức sống mãnh liệt. Bức tranh ở phía đối diện, đại diện cho “Chính phủ xấu”, ít đƣợc bảo quản nhƣng thông điệp của nó cũng rất quan trọng: một ngƣời cai trị độc tài đƣợc bao quanh bởi các biểu tƣợng tật xấu nhƣ tính hám lợi, độc ác và lòng tự kiêu, một thành phố dƣới sự chiếm đóng của quân đội và một miền quê cằn cỗi bị tàn phá. Tất cả đều toát lên sự sợ hãi. Hai bức biếm họa về “Chính phủ tốt và xấu” của Lorenzetti đƣợc xem là tác phẩm về triết học chính trị thể hiện bằng hình vẽ, màu sắc [136, p. 1-5]. Qua hai bức tranh, tác giả muốn đi tìm căn nguyên của các vấn đề chính trị: chính phủ tốt hay xấu ảnh hƣởng sâu sắc tới chất lƣợng cuộc sống của con ngƣời nhƣ thế nào? Hình thức của chính phủ có thể hoàn thiện đƣợc không? Làm sao để phân biệt đƣợc chính phủ tốt hay xấu? Đây cũng chính là những câu hỏi nền tảng của triết học chính trị. Từ khi nhà nƣớc xuất liện trong lịch sử nhân loại, con ngƣời đều đi 1 tìm một cách thức tổ chức nhà nƣớc tốt nhất, bởi quyền lực nhà nƣớc tác động mạnh mẽ đến cuộc sống của mỗi ngƣời. Vào những năm đầu thế kỷ XX, một bức biếm họa về “Chính phủ xấu” lại đƣợc vẽ lên, không phải bằng bút vẽ, sơn màu mà bằng chất liệu ngôn từ trên báo chí Pháp bởi “họa sĩ” Nguyễn Ái Quốc – một ngƣời con của dân tộc thuộc địa. Hãy xem “bức tranh” “Vấn đề dân bản xứ” đƣợc đăng trên báo Nhân đạo ngày 2 tháng 8 năm 1919, hình ảnh một dân tộc nô lệ đƣợc Nguyễn Ái Quốc thể hiện rõ nét: “…từ khi Pháp chiếm, đất nƣớc chúng tôi hầu nhƣ luôn luôn sống lay lắt ngày này qua ngày khác (ngƣời trích nhấn mạnh – PDA), không hề biết chính quyền muốn dẫn mình đi đến đâu…Về hành chính và pháp lý: cả một vực thẳm cách biệt ngƣời Âu với ngƣời bản xứ. Ngƣời Âu hƣởng mọi tự do và ngự trị nhƣ ngƣời chủ tuyệt đối; còn ngƣời bản xứ thì bị bịt mõm và bị buộc dây dắt đi, chỉ có quyền phải phục tùng, không đƣợc kêu ca…Còn công lý, đối với ngƣời bản xứ, nó tồn tại thế này đây: ngƣời Âu nào đã giết chết, tàn sát hoặc cƣờng dâm ngƣời bản xứ, thì trong trƣờng hợp vụ án không thể đƣợc ỉm hoàn toàn, anh ta chắc mẩm rằng mình đƣợc toàn tha bổng, mình ra tòa chẳng qua là chuyện hình thức…Ở các tỉnh, ngƣời bản xứ bị trói tay trói chân, phải gánh chịu thói tùy hứng, chuyên quyền của các quan cai trị ngƣời Pháp và thói tham tàn của bọn làm tôi tớ ngoan ngoãn cho chúng, bọn quan lại, sản phẩm của chế độ mới. Ấy là công lý bị bán đứt cho kẻ nào mua đắt nhất, trả giá hời nhất…” [73, tr. 1012]. Đây chỉ là một “bức tranh” trong nhiều bức tranh Nguyễn Ái Quốc vẽ về chế độ thực dân phản động. Cả cuộc đời cách mạng Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh luôn đi tìm một con đƣờng giải phóng cho dân tộc và một cách thức tổ chức nhà nƣớc nhằm mang lại cho tất cả mọi ngƣời dân cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc thực sự. Hồ Chí Minh với suy tƣ ở tầm sâu triết học đã đặt ra cho chính bản thân Ngƣời những câu hỏi cần giải đáp: đâu là giá trị đích thực của một nền chính trị? Con đƣờng nào để đạt đƣợc những giá trị ấy? Ai sẽ là ngƣời thực hiện con đƣờng đó? Cần xây dựng một chính phủ nhƣ thế nào để giữ vững và phát huy những giá trị ấy cho cuộc sống của nhân dân? 2 Trên con đƣờng bôn ba vạn dặm tìm đáp án cho những câu hỏi đó, Hồ Chí Minh đã đến đƣợc với chân lý của thời đại, tìm ra đƣờng lối cứu nƣớc, giải phóng dân tộc theo con đƣờng cách mạng vô sản – con đƣờng kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nƣớc chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, từ đó chấm dứt sự khủng hoảng đƣờng lối cứu nƣớc, mở ra một thời đại mới trong lịch sử dân tộc – thời đại Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh đã xây dựng những tiền đề tƣ tƣởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời một chính đảng vô sản ở Việt Nam, thƣờng xuyên quan tâm chăm sóc, giáo dục, rèn luyện và lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam vƣợt qua mọi thử thách khó khăn. Hồ Chí Minh đã khai sinh ra nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nƣớc dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, đặt nền móng cho việc xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Hồ Chí Minh với những chiến lƣợc thiên tài, đã cùng với Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, mở ra thời kỳ sụp đổ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân mới, góp phần tác động sâu xa vào tiến trình lịch sử thế giới trong thế kỷ XX. Hồ Chí Minh đã khai phá con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở một nƣớc nông nghiệp lạc hậu, chƣa qua chủ nghĩa tƣ bản, bị chiến tranh tàn phá. Những thành quả to lớn đó đã khẳng định tính đúng đắn, khoa học, cách mạng, nhân văn của Học thuyết Hồ Chí Minh, mà nền tảng là triết lý chính trị Hồ Chí Minh. Từ sau sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, đời sống chính trị thế giới luôn có những biến đổi phức tạp, khó lƣờng. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhƣng trong những năm gần đây, các cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, khủng bố, bất ổn chính trị - xã hội, tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ vẫn xảy ra ở nhiều nơi với diễn biến phức tạp, thách thức nhiều nguyên tắc, chuẩn mực, giá trị chính trị vốn đã đƣợc định hình, ổn định và đề cao trong một thời gian dài. Một yêu cầu bức thiết đặt ra là cần có một triết lý chính trị sáng suốt, đúng đắn để lý giải, đánh giá diễn biến của đời sống chính trị thế giới, định hƣớng suy nghĩ, hành động của đất nƣớc trong quá trình hội nhập quốc tế mạnh mẽ. Triết lý chính trị Hồ Chí Minh hoàn toàn đáp ứng đƣợc yêu 3 cầu đó và vì thế, việc đẩy mạnh nghiên cứu và vận dụng triết lý chính trị Hồ Chí Minh là một nhiệm vụ không chỉ có ý nghĩa khoa học mà còn có ý nghĩa chính trị cấp bách. Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) đến nay, cùng với quá trình đổi mới toàn diện đất nƣớc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có những bƣớc đổi mới quan trọng trong tƣ duy chính trị. Để theo kịp những đòi hỏi của thực tiễn bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nƣớc, công cuộc đổi mới tƣ duy chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam phải đƣợc tiến hành mạnh mẽ hơn. Công cuộc đổi mới tƣ duy chính trị đó cần đƣợc tiến hành trên cơ sở đảm bảo những nguyên tắc nền tảng, mà một trong những những nền tảng quan trọng đó là Học thuyết Hồ Chí Minh với vai trò cốt lõi là triết lý chính trị Hồ Chí Minh. Nghiên cứu làm rõ triết lý chính trị Hồ Chí Minh nhằm góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho công cuộc đổi mới tƣ duy, nâng cao năng lực thực hành chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam là một nhiệm vụ cấp bách. Từ những lý do trên đây, đồng thời trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, tôi đã chọn đề tài “Triết lý chính trị Hồ Chí Minh – Cơ sở hình thành và nội dung cơ bản” làm đề tài luận văn của mình. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Học thuyết Hồ Chí Minh là một di sản quý báu của Đảng và nhân dân Việt Nam. Với vị trí là nền tảng tƣ tƣởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng, của cách mạng Việt Nam, các bộ phận của học thuyết Hồ Chí Minh nói chung đã đƣợc nhiều nhà khoa học nghiên cứu và phân tích. Các công trình nghiên cứu có liên quan trực tiếp/gián tiếp đến đề tài luận văn khá phong phú và có thể chia thành các nhóm sau:  Ở nƣớc ngoài: Nhóm thứ nhất là những công trình nghiên cứu về triết học chính trị. Đây là những công trình cần đƣợc tham khảo trong xây dựng khung lý thuyết phục vụ nghiên cứu của đề tài. Có thể thấy rằng, bản thân triết học chính trị đã có một lịch sử rất lâu đời. Các nhà tƣ tƣởng chính trị, các nhà hoạt động chính trị tiêu biểu trong lịch sử nhân loại đều ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp xây dựng hệ thống 4 tƣ tƣởng chính trị và sự nghiệp thực tiễn chính trị của họ trên một nền tảng triết học chính trị. Nói cách khác, triết học chính trị đã là một bộ phận cấu thành quan trọng của các tƣ tƣởng và thực tiễn chính trị tiêu biểu trên thế giới từ Cổ đến Kim, từ Đông sang Tây. Tuy nhiên, những nghiên cứu về triết học chính trị với tƣ cách là nghiên cứu chuyên ngành - liên ngành triết học - chính trị thì mới xuất hiện chƣa lâu, từ đầu thế kỷ XX đến nay, và nhất là từ những năm 70 của thế kỷ XX. Có thể kể đến về một số công trình quan trọng về triết học chính trị hiện đại nhƣ: The Human Condition (1958), Between Past and Future (1961), On Revolution (1963) của Arendt, H; Theories of Justice (1989), Democracy and Power. 2 vols (1991) của Barry, B; Rationalism in Politics (1962) của Oakeshott, M; Modern Political Thought (1991) của Plant, R; A Theory of Justice (1972), Political Liberalism (1993) của Rawls, J; History of political philosophy (1987) của Strauss, Leo..v.v. Trong đó tiêu biểu là công trình History of political philosophy của Leo Strauss và A Theory of Justice của J. Rawls. Leo Strauss (1899-1973) là một trong những nhà tƣ tƣởng quan trọng nhất của thế kỷ XX và đƣợc đánh giá nhƣ “một nhân vật trung tâm trong sự hồi sinh các nghiên cứu về triết học chính trị” [141, p. 1]. Nghiên cứu của ông tập trung vào các phong trào chính trị và các nhà tƣ tƣởng chính trị từ cổ đại đến hiện đại nhƣ Platon, Machiavelli, Husserl, Heidegger, Weber, Schmitt, Scholem… History of political philosophy là một công trình đồ sộ do Leo Strauss chủ biên, xuất bản lần đầu tiên vào năm 1963. Công trình tập hợp 21 chuyên luận về 21 nhà tƣ tƣởng chính trị phƣơng Tây từ thời Hy Lạp cổ đại đến thế kỷ XX của các chuyên gia về triết học chính trị, trong đó có các chuyên luận của Leo Strauss về Platon, Marsilius Padua và Niccolo Machiavelli. Đặc biệt, tới lần tái bản thứ ba (1987 – sau khi Leo Strauss qua đời), các tác giả đã bổ sung thêm chuyên luận “Leo Strauss và lịch sử triết học chính trị”, khẳng định cống hiến to lớn của Leo Strauss đối với triết học chính trị và ý nghĩa đặc biệt của triết học chính trị trong các công trình nghiên cứu của ông. Phƣơng pháp luận khi nghiên cứu triết học chính trị đƣợc Leo Strauss đề cao trong công trình này là chú trọng đến mối liên hệ giữa triết gia và xã hội của triết gia. Ông cho rằng, dù suy tƣ là một hoạt động 5 cao quý nhất của con ngƣời, nhƣng đó là một sinh hoạt ngoài khả năng của đa số quần chúng. Vì vậy, trong chuyên luận về Platon, ông thể hiện sự ngƣỡng mộ ý nghĩ táo bạo của Platon về những vị vua hiền triết (philosopher kings) đôi khi phải phát ngôn những “gian dối cao thƣợng” để giữ trật tự trong đám đông thiếu hiểu biết [142, p. 33]. History of political philosophy là cuốn sách tham khảo quan trọng khi nghiên cứu về triết học chính trị. John Rawls (1921-2002) là một nhà triết học hàng đầu của Mỹ. Năm 1971 ông đã cho xuất bản cuốn sách A Theory of Justice – đƣợc coi là một công trình quan trọng nhất của nền triết học Hoa Kỳ thế kỷ XX. Với một phạm trù mới mẻ: công lý nhƣ là công bằng, coi đây là vấn đề trung tâm, John Rawls đã trình bày một lý thuyết về công lý trong cuốn sách gồm ba phần lớn với 9 chƣơng và 87 mục. Trong công trình này, Rawls đã đề cập đến một vấn đề lý luận phức tạp nhất, cũng là một thức tế nhức nhối nhất của xã hội Mỹ: vấn đề công bằng xã hội trƣớc tình trạng bất công xã hội gia tăng. Những bức xúc về công bằng xã hội là vấn đề không riêng của nƣớc Mỹ. Công bằng xã hội là vấn đề gay go nhất của thế giới hiện đại, bởi lẽ cái nhân loại cần không chỉ là một cuộc sống vật chất thuần túy, với vai trò chúa tể của đồng tiền, mà là sự hài hòa cả về vật chất lẫn tinh thần. Công bằng là điều kiện tối cần thiết để con ngƣời đƣợc tự do, hạnh phúc. Với mục đích “là đƣa ra một lý thuyết về công lý có thể thay thế những quan điểm cũ đã thống trị quá lâu trong nền triết học truyền thống của chúng ta” [139, p. 3] – lý thuyết “công lý như là công bằng”, John Rawls đã thực sự tạo ra một tiếng vang lớn và gây tranh luận trong giới triết học phƣơng Tây suốt hơn 40 năm qua. Nhóm thứ hai là những công trình nghiên cứu về Hồ Chí Minh và triết lý chính trị Hồ Chí Minh. Có thể khẳng định rằng, đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về Hồ Chí Minh đƣợc các học giả nƣớc ngoài (bao gồm cả ngƣời nƣớc ngoài và Việt kiều) công bố. Một số công trình có giá trị đã đƣợc dịch ra tiếng Việt. Trong nhiều công trình thuộc nhóm này, các tác giả đã đi sâu nghiên cứu tiểu sử, sự nghiệp cách mạng và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, và trong những nghiên cứu ấy, có lúc, có tác giả đã đƣa ra những nhận định, đánh giá sâu sắc về tƣ tƣởng triết học Hồ Chí Minh, triết lý chính trị Hồ Chí Minh. Tất nhiên, 6 những nhận xét như vậy chưa nhiều, chưa hệ thống và vì nhiều lý do, có những ý kiến chưa chính xác, cần thảo luận thêm. Có thể nêu lên các công trình tiêu biểu nhƣ: Ho Chi Minh (1967) của Jean Lacouture; Ho Chi Minh (1970) của C. P. Ragiơ; Đồng chí Hồ Chí Minh (1985) của E. Côbêlép; Ho Chi Minh: A Life (2001) của William J. Duiker; Ho Chi Minh: The Missing Years 1919 – 1941 (2002) của Sophie Quinn-Judge; Tìm hiểu nền tảng văn hóa dân tộc trong tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh (2003) của John Le Van Hoa..v.v. Đặc biệt trong công trình Tìm hiểu nền tảng văn hóa dân tộc trong tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh, John Lê Văn Hóa đã khẳng định giá trị tinh hoa văn hóa dân tộc là yếu tố quan trọng nhất để hình thành tƣ tƣởng cách mạng Hồ Chí Minh. Với ba phần, 8 chƣơng, tác giả đã luận giải những vấn đề cơ bản trong tƣ tƣởng chính trị Hồ Chí Minh từ cách tiếp cận văn hóa chính trị và triết học chính trị. Những vấn đề của triết học chính trị nhƣ tính chính đáng của chính quyền, sự nổi dậy của quần chúng, từ “mệnh trời” đến “ý dân”…đƣợc tác giả phân tích sâu sắc. Đây là một công trình tham khảo có giá trị cho đề tài.  Ở trong nƣớc: Nhóm thứ nhất, những công trình nghiên cứu về triết học chính trị, phương pháp luận chính trị, lý luận chung về chính trị. Những tác phẩm này giúp củng cố thêm nhận thức của tác giả về những khái niệm chính trị, những yếu tố căn cốt của triết học chính trị theo quan điểm nghiên cứu của các học giả Việt Nam. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu nhƣ: Phân tích triết học những vấn đề cơ bản của chính trị và khoa học chính trị (2006) của Nguyễn Hữu Khiển; Triết học chính trị về quyền con người (2005) của Nguyễn Văn Vĩnh; Triết học chính trị Montesquieu với việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam (2006) của Lê Tuấn Huy; Triết học chính trị Khổng giáo (2007) của Trần Quang Thuận..v.v.. Tiêu biểu nhất là tác phẩm Phân tích triết học những vấn đề cơ bản của chính trị và khoa học chính trị của Nguyễn Hữu Khiển. Tác giả dựa theo phƣơng pháp phân tích triết học đã nghiên cứu chính trị với tính cách là một hình thái ý thức xã hội. Cuốn sách cũng nghiên cứu bản chất của các mối quan hệ tƣ tƣởng (ý thức) và thực tiễn trong đời sống chính trị - một bộ phận của đời sống xã hội 7 đang vận động. Đây là một công trình tham khảo có ý nghĩa đối với đề tài. Nhóm thứ hai, các công trình nghiên cứu về tư tưởng triết học, tư duy triết học, phương pháp triết học, triết lý của Hồ Chí Minh. Có thể nêu lên một số công trình tiêu biểu nhƣ: Triết lý phát triển Hồ Chí Minh - Giá trị lý luận và thực tiễn (2009) của Phạm Ngọc Anh ; Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh (2011) của Hoàng Chí Bảo; Tư tưởng biện chứng Hồ Chí Minh (2005) của Nguyễn Đức Đạt; Những nhận thức cơ bản về Tư tưởng Hồ Chí Minh, (1998) của Phạm Văn Đồng; Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam (2000) của Võ Nguyên Giáp; Sự hình thành về cơ bản Tư tưởng Hồ Chí Minh (1997) của Trần Văn Giàu; Minh triết Hồ Chí Minh (1999) của Vũ Ngọc Khánh; Biện chứng của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (2009) của Lại Quốc Khánh; Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh (1997) của Đặng Xuân Kỳ; Triết lý phát triển ở Việt Nam - Mấy vấn đề cốt yếu (2005) của Phạm Xuân Nam; Hồ Chí Minh - Nhà tư tưởng thiên tài (2011) của Trần Nhâm; Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh (2000) của Lê Hữu Nghĩa; Đạo Khổng trong văn Bác Hồ (1996), Suy tưởng trước Ba Đình (1998) của Đào Phan; Hồ Chí Minh học và minh triết Hồ Chí Minh (2008), Triết lý Hồ Chí Minh về phát triển Việt Nam (2010) của Bùi Đình Phong; Hồ Chí Minh - Nhà tư tưởng lỗi lạc (2005) của Song Thành; Hồ Chí Minh - Nhà cách mạng sáng tạo (2009) của Mạch Quang Thắng; Tư tưởng Hồ Chí Minh và triết lý phát triển Việt Nam hiện nay (2007) của Hồ Bá Thâm; Góp phần tìm hiểu đặc sắc tư duy triết học Hồ Chí Minh (2004) của Hồ Kiếm Việt. Tiêu biểu nhất là công trình Triết lý phát triển Hồ Chí Minh – Giá trị lý luận và thực tiễn của Phạm Ngọc Anh (CB) và Góp phần tìm hiểu đặc sắc tư duy triết học Hồ Chí Minh của Hồ Kiếm Việt. Triết lý phát triển Hồ Chí Minh – Giá trị lý luận và thực tiễn là công trình nghiên cứu một cách hệ thống triết lý phát triển Hồ Chí Minh với những nội dung chủ yếu nhất nhƣ: triết lý về con đƣờng phát triển của cách mạng Việt Nam và xã hội Việt Nam; triết lý về mô hình phát triển xã hội xã hội chủ nghĩa; triết lý về sự phát triển hài hòa, toàn diện mối quan hệ trong xã hội và xã hội với tự nhiên; triết lý về động lực phát triển xã hội. Trong 8 công trình Góp phần tìm hiểu đặc sắc tư duy triết học Hồ Chí Minh, tác giả đã tập trung nghiên cứu có hệ thống về tƣ duy triết học Hồ Chí Minh – một tƣ duy triết học phát triển trên nền tảng triết học Mác – Lênin, từ nội dung quyết định luận duy vật Mác-xít, luận giải mối quan hệ giữa hoàn cảnh và con ngƣời, làm sáng tỏ mối quan hệ giữa hoàn cảnh và con ngƣời, làm sáng tổ mối quan hệ giữa tự do và tất yếu theo thế giới quan duy vật biện chứng; đồng thời kế thừa triết lý dân tộc Việt Nam, bao gồm trong đó tinh hoa triết lý phƣơng Đông, chủ yếu là Nho học ở vấn đề cơ bản nhất là quan hệ Thiên – Nhân đã đƣợc Việt hóa, hƣớng sự cải biến cách mạng đối với xã hội, trƣớc hết vào giáo hóa con ngƣời vì con ngƣời và phát huy nhân tố con ngƣời. Ngoài ra cuốn sách còn dành nhiều trang cho vấn đề rất cơ bản trong việc vận dụng tƣ duy triết học Hồ Chí Minh trong thực tiễn cách mạng Việt Nam hiện nay. Đây là những công trình tham khảo trực tiếp của đề tài. Thông qua tổng quan tài liệu nghiên cứu với những nhóm vấn đề đã đƣợc khái quát ở trên, có thể thấy phần nào nội dung đã đƣợc nghiên cứu liên quan đến đề tài. Đã có những công trình nghiên cứu về triết học chính trị, đã có những tác phẩm viết về tƣ tƣởng triết học, tƣ duy triết học của Hồ Chí Minh, cũng đã có những luận điểm đánh giá về triết lý chính trị Hồ Chí Minh. Song, chƣa có công trình nào đề cập nghiên cứu một cách trực diện và có hệ thống về triết lý chính trị Hồ Chí Minh. Vì vậy, việc nghiên cứu về “Triết lý chính trị Hồ Chí Minh” cần phải đƣợc đặt ra. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn tập trung làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và những nội dung cơ bản của triết lý chính trị Hồ Chí Minh. 3.2. Nhiệm vụ Để thực hiện đƣợc những mục tiêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn đƣợc xác định là: - Phát biểu quan niệm về “triết lý”, “triết lý chính trị”, “triết lý chính trị Hồ Chí Minh” đƣợc sử dụng trong luận văn. 9 - Xác định và phân tích những cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn đã góp phần hình thành nên triết lý chính trị Hồ Chí Minh. - Phân tích những nội dung cơ bản của triết lý chính trị Hồ Chí Minh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Cơ sở hình thành và nội dung cơ bản của triết lý chính trị Hồ Chí Minh 4.2. Phạm vi nghiên cứu Thứ nhất, về cách tiếp cận, luận văn nghiên cứu vấn đề từ góc độ liên ngành khoa học Triết học – Chính trị học. Thứ hai, nội dung triết lý chính trị Hồ Chí Minh đƣợc xác định và khái quát nên từ hoạt động thực tiễn chính trị của Hồ Chí Minh và những luận điểm đƣợc Hồ Chí Minh phát biểu trong các bài nói, bài viết của Ngƣời. Tƣ liệu phục vụ nghiên cứu lý luận và thực tiễn của Hồ Chí Minh là các ấn phẩm đƣợc xuất bản ở Việt Nam. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Dựa trên cơ sở lý luận chính trị học và triết học chính trị của chủ nghĩa Mác – Lênin, phƣơng pháp luận Hồ Chí Minh, cùng với các quan điểm chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam. Có nhiều cách tiếp cận triết học chính trị của các trƣờng phái nghiên cứu khác nhau. Cách tiếp cận nghiên cứu của tác giả luận văn là dựa trên lý luận của các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác – Lênin, cụ thể là: lý luận về quá trình phát triển lịch sử - tự nhiên của hình thái kinh tế xã hội, phép biện chứng về mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thƣợng tầng, phép biện chứng về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Phƣơng pháp luận Hồ Chí Minh mà đặc biệt là sự định hƣớng tƣ duy trên cơ sở thực tiễn là cơ sở lý luận cho luận văn bởi triết lý chính trị Hồ Chí Minh cũng nảy mầm trên mảnh đất thực tiễn cách mạng dân tộc. Hồ Chí Minh quan niệm: “Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc đấu tranh, xem xét, so sánh thật kỹ lƣỡng, rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó 10 chứng minh với thực tế. Đó là lý luận chân chính”. Theo quan niệm đó, trong phƣơng pháp tƣ duy, Hồ Chí Minh luôn luôn lấy thực tiễn, lấy sự kiện của đời sống dân tộc và thời đại làm định hƣớng cho suy nghĩ và hành động, hết sức tránh sao chép sách vở một cách giáo điều, hết sức tránh lặp lại các giải pháp có sắn. Đây là một chỉ dẫn sâu sắc để tìm hiểu triết lý chính trị Hồ Chí Minh – muốn biết rõ triết lý chính trị Hồ Chí Minh không chỉ tìm trong những bài nói, bài viết “tìm nghĩa trong chữ, tìm tƣ tƣởng trong câu văn”, mà còn phải tìm trong hành động thực tiễn cuộc đời cách mạng phong phú của Ngƣời. Các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam, cụ thể là những quan điểm chính trị của Đảng, quan điểm của Đảng về sự nghiệp và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh cũng là cơ sở lý luận quan trọng mà tác giả dựa vào đó để hoàn thành công trình nghiên cứu của mình. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn đƣợc thực hiện dựa trên phƣơng pháp luận Mác-xít. Trên cơ sở đó, luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu chính nhƣ sau: - Phƣơng pháp hệ thống: nghiên cứu thế giới nhƣ một chỉnh thể, nhìn toàn bộ xã hội nhƣ một hệ thống mà chính trị là một yếu tố cấu thành hệ thống đó. Nghiên cứu triết lý chính trị Hồ Chí Minh là một hệ thống có các bộ phận cấu thành cơ bản và có mối quan hệ giữa các thành tố ấy. - Phƣơng pháp lịch sử cụ thể: xem xét phân tích sự hình thành, biến đổi và phát triển của triết lý chính trị Hồ Chí Minh trong những điều kiện nhất định của tình hình thế giới và trong nƣớc, trong những tác động cụ thể của những yếu tố khách quan và chủ quan. - Phƣơng pháp so sánh: so sánh triết lý chính trị Hồ Chí Minh với các tƣ tƣởng, triết lý, triết học chính trị khác nhau, qua đó để thấy đƣợc sự tiếp thu và phát triển của Hồ Chí Minh đối với triết lý chính trị truyền thống của dân tộc Việt Nam và phƣơng Đông; việc Hồ Chí Minh bổ sung làm phong phú thêm triết học chính trị của các nhà kinh điển Mác-xít. - Phƣơng pháp lôgíc: nghiên cứu quy luật, logic vận động của chính trị cũng nhƣ triết lý chính trị Hồ Chí Minh. 11 Ngoài ra, để triển khai đề tài nghiên cứu, luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu phổ biến trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn. 6. Những đóng góp của luận văn - Luận văn góp phần xác định và làm rõ những cơ sở chủ yếu hình thành triết lý chính trị Hồ Chí Minh. - Luận văn bƣớc đầu trình bày một số nội dung cơ bản trong triết lý chính trị Hồ Chí Minh. 7. Kết cấu luận văn Ngoài lời cam đoan, lời cảm ơn, mục lục, mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn đƣợc kết cấu thành 2 chƣơng, 7 tiết. 12 NỘI DUNG Chƣơng 1 CƠ SỞ HÌNH THÀNH TRIẾT LÝ CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH Khái niệm “triết lý chính trị” tự bản thân nó đã nói lên vai trò của tiếp cận triết học đối với chính trị - một lĩnh vực quan trọng, nhạy cảm và phức tạp nhất trong đời sống xã hội ở mọi cấp độ: quốc gia – dân tộc, quốc tế - khu vực và thế giới nhân loại. Khái niệm này còn hàm nghĩa mối quan hệ và sự tác động qua lại giữa triết học với chính trị, trên bình diện nhận thức luận cũng nhƣ trên bình diện đời sống thực tiễn, nhất là thực tiễn chính trị. Bản thân triết lý chính trị có cơ sở, quá trình hình thành, biến đổi và phát triển, phản ánh những biến đổi và phát triển của đời sống chính trị - xã hội. Triết lý chính trị Hồ Chí Minh cũng có những cơ sở lý luận và thực tiễn để hình thành. 1.1. Quan niệm về triết lý, triết lý chính trị và triết lý chính trị Hồ Chí Minh 1.1.1. Triết lý Triết học là một môn khoa học đƣợc hình thành từ rất sớm, mà chiếc nôi của triết học phải nói đến Hy Lạp, La Mã, Ấn Độ và Trung Quốc. Triết học đƣợc hiểu theo nghĩa là sự thông thái, sự hiểu biết về nhân sinh và vũ trụ. Ở Trung Quốc đƣợc gọi là “Triết” nghĩa là Trí Tuệ, là sự hiểu biết sâu sắc của con ngƣời và thế giới. Còn ở Ấn Độ thì gọi “triết học” là Dar’sana nghĩa là chiêm ngƣỡng, là con đƣờng suy ngẫm để dẫn dắt con ngƣời đến với lẽ phải. Ở phƣơng Tây, thuật ngữ triết học xuất hiện ở Hy lạp, theo tiếng Latinh từ triết học là Philosophia nghĩa là yêu thích sự thông thái, “ái trí”, nó vừa mang tính định hƣớng, vừa nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm chân lý của con ngƣời. Nhƣ vậy, cho dù ở phƣơng Đông hay phƣơng Tây, ngay từ đầu, triết học đã là hoạt động tinh thần biểu hiện khả năng nhận thức, đánh giá của con ngƣời và tồn tại với tƣ cách là một hình thái ý thức xã hội. Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về triết học, nhƣng đều bao hàm những nội dung về cơ bản là tƣơng đồng: triết học nghiên cứu thế giới với tƣ cách là một chỉnh thể, tìm ra những quy luật chung nhất chi phối sự vận động của chỉnh thể nói chung, của xã hội loài ngƣời, của con ngƣời trong cuộc sống cộng đồng 13 nói riêng và thể hiện nó một cách có hệ thống dƣới dạng duy lý. Tựu chung lại, có thể hiểu, “triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con ngƣời về thế giới, về vị trí, vai trò của con ngƣời trong thế giới ấy” [9, tr. 8]. Tuy nhiên, có một điều đặc biệt, trong hệ ngôn ngữ Latinh, xuất phát từ tiếng Hy Lạp, chỉ có một chữ “philosophy” (có nghĩa là: yêu mến sự thông thái, anh minh), chuyển sang tiếng Việt thành “triết học” nhƣ môn triết học, khoa triết học, các trƣờng phái triết học, nhƣng bên cạnh đó còn đƣợc dịch là “triết lý”. Vậy “triết lý” là gì? Hiện nay, ở Việt Nam có nhiều cách lý giải khác nhau về khái niệm “triết lý”. Theo Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (1992), triết lý có hai nghĩa: 1) lý luận triết học; 2) quan niệm chung của con ngƣời về những vấn đề nhân sinh và xã hội. Theo Từ điển từ và ngữ của Nguyễn Lân (2000) thì triết lý đƣợc chiết tự thành: “triết” là sáng suốt, “lý” là lẽ. Còn Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ (2007) thì định nghĩa: triết lý là cái lý sâu xa mà phải vậy của mọi sự vật, mọi lý do, mọi nguyên tắc trên đời… Cách lý giải của các nhà khoa học Việt Nam về khái niệm “triết lý” cũng khá phong phú. Giáo sƣ Trần Văn Giàu cho rằng: “Trong tiếng Pháp chỉ có một từ philosophie, không có từ thứ hai. Còn dân Việt Nam mình thì vừa nói triết lý vừa nói triết học. Tôi nghĩ triết lý và triết học không hoàn toàn giống nhau. Triết học chủ yếu là lý luận về nhận thức, tức nhận thức luận, hay nói một cách cụ thể hơn, đó là phƣơng pháp luận tổng quát của các khoa học. Có ngƣời ngày xƣa gọi triết học là khoa học của các khoa học. Còn triết lý chủ yếu hƣớng về đạo lý; hƣớng về đạo lý chứ không phải đạo lý. Nó chủ yếu đặt vấn đề tốt hay xấu, nên hay chăng, chứ không đặt vấn đề đúng hay sai, phải hay không phải. Hai loại vấn đề ấy tuy có quan hệ với nhau, nhƣng có khác nhau” [66, tr. 21]. Giáo sƣ Vũ Khiêu thì quan niệm: “Triết lý là triết học khiêm tốn nói về mình. Triết lý không thể hiện tầm khái quát vũ trụ quan và nhân sinh quan mà thể hiện ý nghĩ và hành vi có ý nghĩa chỉ đạo cuộc sống con ngƣời” [66, tr. 21]. 14 Giáo sƣ Hoàng Trinh lại đƣa ra định nghĩa: “Triết lý là những nguyên lý đầu tiên, những ý tƣởng cơ bản đƣợc dùng làm nền tảng cho sự tìm tòi và suy lý của con ngƣời về cội nguồn, bản chất và các hình thái tự nhiên, xã hội và bản thân, làm phƣơng châm cho sự xử thế và sự xử sự của con ngƣời trong các hành động sống hàng ngày…” [114, tr. 8]. Còn theo giáo sƣ Hồ Sỹ Quý thì: “Về đại thể, triết lý có thể và nên đƣợc hiểu là những tƣ tƣởng, quan điểm hay quan niệm…mang tính khái quát cao; đƣợc phản ánh một cách cô đúc dƣới dạng các mệnh đề hoặc các phán đoán thƣờng là trau chuốt về mặt ngữ pháp; và đƣợc sử dụng trong đời sống xã hội với tính cách là những định hƣớng cho hoạt động của con ngƣời về mặt thế giới quan, phƣơng pháp luận hoặc nhân sinh quan” [96, tr. 57]. Để hiểu rõ hơn về khái niệm “triết lý”, chúng ta có thể xem xét những quan điểm luận giải về mối tƣơng quan giữa triết học và triết lý. Về điều này, nhìn chung trong giới khoa học Việt Nam có hai luồng ý kiến: một bên cho rằng triết học và triết lý là khác nhau, và một bên cho rằng triết lý là triết học, hay đúng hơn là một hình thái triết học. Về quan điểm triết học và triết lý là khác nhau có thể kể đến ý kiến của giáo sƣ Trần Văn Giàu nhƣ đã nêu ở trên. Giáo sƣ Hồ Sỹ Quý cũng thể hiện quan điểm này khi cho rằng: “…mặc dù ở ta một số ngƣời đã dịch philosophy là triết lý nhƣng trong tiếng Việt chúng ta đều biết triết lý và triết học là các khái niệm khác nhau, dùng để biểu đạt, phản ánh những đối tượng khác nhau (ngƣời trích nhấn mạnh – PDA)… nếu có thể đem so sánh với triết học thì triết lý luôn luôn ở trình độ thấp hơn về tính hệ thống, độ toàn vẹn và khả năng nhất quán trong việc giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa tồn tại và tƣ duy. Nói một cách khác, nếu không phải là tất cả thì trong đa số các trƣờng hợp, triết lý thƣờng thiếu chặt chẽ hơn, phiến diện hơn và có nhiều khả năng chứa đựng mâu thuẫn hơn so với triết học” [96, tr. 57]. Có cùng quan điểm, giáo sƣ Phạm Xuân Nam, trong công trình Triết lý phát triển ở Việt Nam – mấy vấn đề cốt yếu (2005) nhận xét: “Khác với triết học, triết lý không phải là môn khoa học đề cập đến những vấn 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan