Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
Triết học Phật giáo ra đời đầu tiền ở Ấn Độ và đến nay đã truyền bá rộng
rãi sang cả các nước Phương Đông dười hình thức tôn giáo và tín ngưỡng, có tầm
ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống kinh tế,xã hội và tâm linh các nước. Để hiểu
được vì sao Phật giáo sao lai có tầm ảnh hướng lớn như vậy. Bài viết đề cập đến
các tư tưởng triết học căn bản của triết học Phật giáo- Triết học hướng tới luận giải
về con ngươi trong mỗi tương quan với vũ trụ và tiến tới việc giải thoát con người
khỏi bể ải của trần gian, cổ vũ tinh thần và là chỗ dựa tinh thần cho con người.Sau
đây là nội dung.
1. Thế giới quan Phật giáo.
Thế giới quan Phật giáo chịu ảnh hưởng của hai luận điểm, thể hiện qua 4 luận
thuyết cơ bản: thuyết vô thường, thuyết vô ngã, thuyết nhân quả, thuyết nhân
duyên khởi.
1. 1Thuyết vô thường.
Vô thường là không thường còn, là chuyển biến thay đổi. Luật vô thường chi
phối vũ trụ, vạn vật, thân và tâm ta. Sự vật luôn luôn biến đổi không có gì là
thường trụ, bất biến. Với ngũ quan thô thiển của ta, ta lầm tưởng sự vật là yên tĩnh,
là bất động nhưng thật ra là nó luôn luôn ở thể động, nó chuyển biến không ngừng.
Sự chuyển biến ấy diễn ra dưới hai hình thức.
a) Một là Sátna( Kshana ) vô thường: là một sự chuyển biến rất nhanh, trong
một thời gian hết sức ngắn, ngắn hơn cả một nháy mắt, một hơi thở, một niệm,
một sự chuyển biến vừa khởi lên đã chấm dứt. Phật dùng danh từ Satna để chỉ một
khoảng thời gian hết sức ngắn.
b) Hai là: Nhất kỳ vô thường. Là sự chuyển biến trong từng giai đoạn. Sự vô
thường thứ nhất là trạng thái chuyển biến nhanh chóng, liên tiếp, ngắn ngủi,
thường là ta không nhận ra mà kết quả là gây ra sự vô thường thứ hai. Nhất kỳ vô
thường là trạng thái chuyển biến rõ rệt, kết thúc một trạng thái cũ, chuyển sang
một trạng thái mới. Vạn vật trong vũ trụ đều tuân theo luật: Thành - Trụ - Hoại Không.
1
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Vạn vật được cấu thành, trụ một thời gian, sau đó chuyển đến diệt, thành, hoại,
không.
Các sinh vật đều tuân theo luật: Sinh, trụ, di, diệt.
Một hành tinh, một ngôi sao có thời kỳ vũ trụ kéo dài hàng triệu năm, một cây
có thể trụ hàng ngàn năm, một sinh vật có thể trụ được hàng trăm năm, bông hoa
phù dung chỉ trụ trong một ngày - sớm nở, chiều tàn. Xung quanh ta sự vật chuyển
biến không ngừng. Theo luật vô thường, không phải khi sinh ra mới gọi là sinh,
khi vạn vật diệt mới gọi là diệt mà từng phút, từng dây, từng Satna, vạn vật sống
để mà chết và chết để mà sống. Sống, chết tiếp diễn liên tục với nhau bất tận như
một vòng tròn.
Không những thân ta chuyển biến không ngừng mà tâm ta cũng không ngừng
chuyển biến. Như dòng nước thác, như bọt bể, trong Satna này, trong tâm ta nổi
lên một ý niệm thiện, chỉ trong Satna sau, trong tâm ta đã có thể khơi lên một ý
niệm ác. Tâm ta luôn luôn chuyển biến như thế Phật gọi là tâm phan duyên. Trong
kinh Thủ năng Nghiệm quyển một Phật gọi cái tâm phan duyên ấy là cái tâm biết
cái này, nghĩ cái khác, cái tâm vọng động do duyên với tiền trần mà có, theo cách
trần mà luôn luôn thay đổi, chuyển biến mà không Satna nào ngừng.
Không những tâm, thân ta chuyển biến mà các hình thái xã hội theo thời gian
cũng chuyển biến: Xã hội công xã nguyên thuỷ --> Xã hội chiếm hữu nô lệ --> Xã
hội phong kiến --> Xã hội tư bản --> Xã hội XHCN. Đó là quy luật xã hội và cũng
không phù hợp với thuyết vô thường của Đạo Phật.
Thuyết vô thường là một trong những thuyết cơ bản trong giáo lý Phật, là cơ sở
của lý luận cho phương thức sống, cho triết lý sống của những con người tu dưỡng
theo giáo lý phật.
Trong thế gian có những người không biết lý vô thường của Phật, có những
nhận thức sai lầm về sự vật là thường còn, là không thay đổi, không chuyển biến.
Nhận thức sai lầm như thế phật giáo gọi là ảo giác hay huyễn giác. Vì nhận thức
thân ta là thường còn nên nảy ra ảo giác muốn kéo dài sự sống để hưởng thụ, để
2
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
thoả mãn mọi dục vọng. Khi luật vô thường tác động đến bản thân thì sinh ra
phiền não đau khổ.
Ngược lại, nếu thấu lý vô thường một cách nông cạn, cho chết là hết, đời người
ngắn ngủi, phải mau mau tận hưởng những thú vui vật chất, phải sống gấp, sống
vội. Cuộc sống như thế là sống trụy lạc, sa đọa trong vũng bùn của ngũ dục, sống
phiền não đau khổ trước sự chuyển biến của sự vật, trước sự sinh- trụ, dị diệt,
trước sự thành, trụ hoại không nó diễn ra hàng ngày.
1.2 Thuyết vô ngã.
Từ thuyết vô thường. Phật nói sang vô ngã. Vô ngã là không có cái ta. Thực ra
làm gì cũng có cái ta trường tồn, vĩnh cữu vì cái ta nó biến đổi không ngừng, biến
chuyển từng phút, từng giờ, từng Satna.
Một câu hỏi được đặt ra vậy cái ta ở giây phút nào là cái ta chân thực, cái ta bất
biến ? Cái ta mà Phật nói trong thuyết vô ngã gồm có hai phần:
Cái ta sinh tức thân.
Cái ta tâm lý tức tâm.
Theo kinh Trung Quốc Ahàm, cái ta sinh lý chỉ là kết hợp của bốn yếu tố của
bốn đại là: địa , thuỷ, hoả , phong.
Địa đại là cái đặc cứng như tóc, răng, móng chân, móng tay, da , thịt, các cơ,
xương, tủy, tim gan, thận,...
Thủy đại là những chất lỏng như mật ở trong gan, máu, mồ hôi, bạch huyết,
nước mắt,...
Hoả đại là những rung động của cơ thể như hơi thở, chất hơi ở trong dạ dầy, ở
ruột.
Những thứ đó không phải là ta, ta không phải là nhưng thứ đó, những thứ đó
không thuộc về ta.
Cái mà ta gọi là cái ta sinh lý chỉ là một khoảng không gian giới hạn bởi sự kết
hợp của da thịt, cũng như cái mà ta gọi là túp lều chỉ khoảng không gian giới hạn
bởi gỗ, tranh, bùn để trát vách mà thôi.
3
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Tứ đại ( địa, thuỷ, hoả, phong) nêu trên thoáng là của ngoại cảnh, thoáng là của
ta. Vậy thực sự nó là của ai ? Vả lại khi bốn yếu tố này rời nhau trở về thể của nó
thì không có gì ở lại để có thể gọi là cái ta được nữa. Cho nên cái mà ra gọi là cái
ta sinh lý chỉ là một giả tưởng, một nhất hợp sinh lý mà thôi.
Còn cái ta tâm lý gồm : thụ, tưởng, hành, thức. Bốn ấm này cùng với sắc ấm
che lấp trí tuệ làm cho ta không nhận thấy được cái ta chân thực cái ta Phật tính,
cái chân ngã của chúng ta. Cái chân lý gồm những nhận thức, cảm giác, suy tưởng,
là sự kết hợp của thất tỉnh: Hỷ, nộ, ai, lạc, ái , nỗ, dục.
Thuyết vô ngã làm cho người ta không còn ai tin là có một linh hồn vĩnh cửu,
tồn tại kiếp này sang kiếp khác, đời này qua đời khác. Sự tin có một linh hồn dẫn
dắt đến sự cúng tế linh hồn là hành động của sự mê tín.
Quan niệm có một linh hồn bất tử, một cái ta vĩnh cửu là nguồn gốc sinh ra
những tình cảm, những tư tưởng ích kỷ, những tham dục vô bờ của những kẻ dựa
vào sức mạnh phi nghĩa để làm lợi cho mình, tức là cho cái ta mà họ coi là thường
còn, bất biến. Còn đối với những người bị hà hiếp, bị bóc lột thì sự mê tín có cái ta
vĩnh cửu dẫn đến tư tưởng tiêu cực, chán đời phó mặc cho số mệnh, hy vọng làm
lại cuộc đời ở kiếp sau.
Hai thuyết vô thường, vô ngã là hai thuyết cơ bản trong giáo lý Phật. Chấp ngã
chấp có cái ta thường còn là nguồn gốc của vô minh mà vô minh là đầu mối của
luân hồi sinh tử sinh ra đau khổ cho con người. Căn cứ trên hai thuyết vô thường
và vô ngã Phật đã xây dựng cho đệ tử một phương thức sống, một triết lý sống lấy
vị tha làm lý tưởng cao cả cho cuộc sống của mình, hay nói một cách khác một
cuộc sống một người vì mọi người, mọi người vì một người.
1.3. Thuyết Lý nhân duyên sinh.
Với lý nhân duyên sinh Phật muốn nói tới một định lý. Theo định lý ấy sự vật
vạn vật phát triển trên thế gian đều do các nhân duyên hội họp mà thành, sự vật,
vạn pháp sẽ kiến diệt khi nhân duyên tan rã.
Nhân là năng lực phát sinh, duyên là lực hỗ trợ cho nhân phát sinh. Như cây lúa
thì hạt lúa là nhân, nước, ánh sáng mặt trời, công cày bừa gieo trồng là duyên.
4
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Nhân duyên đó hội họp sinh ra cây lúa. Tất cả mọi hiện tượng đều nương nhau mà
hành động. Nói nương nhau có nghĩa là sự vật tác động, kết hợp, chi phối, ảnh
hưởng lẫn nhau mà thành. Đó là nhân duyên. Nói về thứ nhân duyên trong kinh
Phật có câu:
Nhược sử hữu, tắc bỉ hữu.
Nhược sử sinh, tắc bỉ sinh.
Nhược thử vô, tắc bỉ vô.
Nhược thử diệt, tắc bỉ diệt.
Có nghĩa là:
Cái này có thì cái kia có.
Cái này sinh thì cái kia sinh.
Cái này không thì cái kia không.
Cái này diệt, thì cái kia diệt.
Tất cả các pháp đều sinh, diệt và tồn tại trong sự liên hệ mật thiết với nhau,
không một pháp nào có thể tồn tại độc lập tuyệt đối.
Sự vật chỉ “ có “ một cách giả tạo, một cách vô thường.
Nhân duyên hội họp thì sự vật là “ có “.
Nhân duyên tan dã thì sự vật là “ Không “.
Người thế gian không tu dưỡng tưởng lầm sự vật, vạn pháp là thực có, là vĩnh
viễn nên bám giữ vào các pháp vào sự vật ( sinh mệnh, danh vọng, tiền tài...).
Nhưng thực ra các pháp là vô thường, là chuyển biến và khi tan dã thì người thế
gian thương tiếc, đau khổ.
Thế giới vũ trụ, vạn pháp đều cấu thành bởi hệ thống nhân duyên trùng trùng
điệp điệp. Các pháp không có thực thể, chỉ vì nhân duyên hoà hợp mà có, một cáh
giả hợp mà sinh ra. Bởi thế tìm kiếm đến cùng cũng không thấy vạn pháp có “
thủy “ và xét đến muôn đời cũng không thấy vạn pháp có “ chung “. Vạn pháp là
vô thủy, cái nguyên nhân đầu tiên của các pháp hay cái chung cùng của sự vật.
5
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Lý nhân duyên cho chúng ta thấy sự vật hình thành là do nhân duyên hoà hợp,
sự vật là hư giả, là giả hợp không có tính tồn tại. Như vậy con người làm chủ đời
mình, làm chủ vận mệnh của mình.
Cuộc sống của con người có tươi đẹp hạnh phúc hay phiền não đau khổ là đều
do nhân duyên mà con người tạo ra. Với nhận thức như vậy, con người tìm được
một phương thức sống, một cách sống cho ra sống, sống vì hạnh phúc của mọi
người, sống an lạc, tự tại, giải thoát.
1.4. Thuyết nhân duyên quả báo hay thuyết nhân quả.
Thuyết nhân duyên quả báo gọi là thuyết nhân quả là một trong những thuyết
cơ bản của giáo lý Phật. Phật chủ trương không bao giờ tự nhiên mà có, mà sinh ra
và cũng cho rằng không một thần quyền nào hay một đấng thiêng liêng nào tạo ra
sự vật. Sự vật sinh ra là có nhân nguyên nhân. Cái nguyên nhân một mình cũng
không tạo ra được sự vật mà phải có đủ duyên thì mới tạo ra quả được.
Người ta nói rằng: Trồng đậu được đậu.
Trồng dưa được dưa.
Nhưng Phật nhấn mạnh: Quả có thể khác nhân sinh ra nó. Quả có thể hơn nhân
nếu gặp đủ duyên tốt, trái lại có thể kém nhân nếu gặp duyên xấu. Nhân gặp đủ
duyên thì sẽ biến thành quả, quả sinh ra nếu hội đủ duyên lại có thể biến thành
nhân rồi để sinh ra quả khác.
Sự vật là một chuỗi nhân quả, là một tràng nhân quả nối tiếp nhau, ảnh hưởng
lẫn nhau không bao giờ đứt quãng, không bao giờ ngừng.
Trong nhân lại có mầm mống của quả sau này nhưng quả không nhất định phải
đúng như nhân vì duyên có thể mang lại sự biến đổi cho quả - Đó là thuyết “Bất
định pháp” trong luật nhân quả.
Sự vật là bất định, người tu hành căn cứ vào thuyết này mà tu dưỡng và tiến tới
trên con đường giải thoát về nhân. Suy rộng ra theo giáo lý Phật thì mỗi ý nghĩ của
tâm ta, mỗi hành động của thân ta, mỗi lời nói của chúng ta cũng là những hạt
nhân của chúng ta gieo hàng ngày. Những hạt nhân khi gặp đủ duyên sẽ nảy nở
thành quả.
6
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Theo danh từ Phật học, những hạt nhân này gọi là nghiệp. Gieo nhân tức là gây
nghiệp: Ý nghiệp, thân nghiệp, khẩu nghiệp. Kết quả đền đáp những hành động
nói trên phật gọi là nghiệp báo. Thời gian giữa gieo nhân và hái quả có thể dài
ngắn khác nhau. Vì vậy có nhân quả đồng thời: Tức là nhân quả nối liền nhau, vừa
tạo nhân, quả liền phát sinh không phải đợi một thời gian sau mới thành thục. Lại
có nhân quả dị thời: Tức là nhân tạo ra đời trước, đời sau mới kết thành quả.
Người nào gieo nhân, người ấy hái quả, không một hành động nào, thiện hay
ác, dù nhỏ đến đâu, dù ta khôn khéo bưng bít, giấu giếm đến mức nào cũng không
thể thoát khỏi cán cân nhân quả. Người học Phật, tu Phật chân chính thấm nhuần
thuyết nhân quả phải là người có đạo lý, không thể nào khác được.
Với những luận thuyết cơ bản như trên đã hình thành nên thề giới quan phật
giáo. Phật quan niệm các hiện tượng trong vũ trụ luôn luôn biến chuyển không
ngừng theo quy luật nhân duyên. Một hiện tượng phát sinh không phải là do một
nhân mà do nhiều nhân và duyên. Nhân không phải tự mà có mà do nhiều nhân
duyên đã có từ trước. Như vậy một hiện tượng có liên quan đến tất cả các hiện
tượng trong vũ trụ.
Tóm lại thế giới quan Phật giáo là thế giới quan nhân duyên. Tất cả sự vật có
danh có tướng, có thể nhận thức được, ý niệm được. Cảm giác được hay dùng
ngôn ngữ luận bàn, được đều được Phật gọi là pháp. Các pháp đều thuộc một giới
gọi là Pháp giới. Bản tính của pháp giới là các pháp duyên khởi ra nhau. Tính ấy là
tính của pháp giới nên gọi là pháp giới tính. Do pháp giới tính là bản tính của các
pháp nên gọi là chân, vì vậy pháp giới tính còn gọi là chân như tính.
Giác ngộ được chân như tính thì gọi là tự giác, nhưng thế thì chưa nhận thức
đầy đủ, sâu sắc về pháp giới tính vì vậy các nhà tu hành giác ngộ được bản lai tự
tính còn phải vận dụng pháp giới tính vào nhiều trường hợp khác để thấy được cái
dụng to lớn của pháp giới tính.
Như vậy, người tu hành chỉ khi nào công hạnh giác tha được viên mãn lúc đó
mới chứng thực được toàn thể, toàn dụng của pháp giới tính. Nói một cách khác là
7
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
chứng được toàn thể của sự vật gồm cả ba vẻ: thể, tưởng, dụng, chứng được pháp
thân.
2.Nhận thức luận Phật giáo.
2.1. Bản chất, đối tượng của nhận thức luận.
Bản chất của nhận thức luận Phật giáo là quá trình khai sáng trí tuệ. Còn đối
tượng của nhận thức luận là vạn vật, là mọi hiện tượng, là cả vũ trụ.
Vạn vật là vô thuỷ vô chung, không có sự vật đầu tiên và không có sự vật cuối
cùng. Mọi vật đều liên quan mật thiết đến nhau. Toàn thể dù lớn đến đâu nếu
không có quan hệ với hạt bụi thì cũng không thành lập được. Để diễn đạt ý trên,
một thiền sư đã dùng hai câu thơ:
Càn khôn tận thị mao đầu thượng.
Nhật nguyệt bao hàm giới trí trung.
Có nghĩa là:
Trời đất rút lại đầu lông nhỏ xíu.
Nhật nguyệt nằm trong hạt cải mòng.
Như vậy đạo Phật không phân biệt vật chất và tinh thần vì đó chỉ là hai trạng
thái của tâm, của năng lượng khi ở thể tiềm tàng.
Sau khi đã tìm hiểu về sự vật, hiện tượng chúng ta sẽ tìm hiểu cái tâm trong đạo
Phật để thấy được quan niệm của đạo Phật về tâm và vật.
Thông thường người ta cho rằng đạo Phật là duy tâm vì trong kinh phật có câu
”Nhất thiết duy tâm tạo “ . Nhưng chữ “ duy tâm “ ở đây không phải là duy tâm
trong triết học Tây Phương nên ta không thể nhận định như trên. Chữ tâm trong
đạo Phật có nghĩa là một năng lượng, nó làm bản thể cho tất cả mọi hiện tượng
tâm lý, cho mọi hiện hành. Bản thể là cái chất, là cội gốc của vạn vật. Khi ta phân
tích, chia chẻ một vật đến một phần tử nhỏ nhiệm nhất, đến phần cuối cùng thì
phần tử ấy là bản thể mà ở đây cũng có vật có chất nên đâu đâu cũng thấy có bản
thể, vì vậy tâm cũng lại là to lớn vô biên.
8
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Những tình cảm, ý thức phát sinh phải nương vào hiện tượng sinh lý, vật lý.
Nói nương nhau để phát sinh chứ không phải các hiện tượng sinh lý, vật lý sinh ra
các hiện tượng tâm lý.
Hiểu như vậy thì thấy rõ không phải tâm sinh vật hay vật sinh tâm. Những hiện
tượng sinh lý vật lý và những hiện tượng tâm lý ấy chỉ tương sinh tương thành.
2.2.Quy trình, con đường và phương pháp nhận thức.
Sự nhận thức phát triển theo hai con đường tư trào: Hường nội và hướng ngoại.
Phật giáo thường quan tâm đến tư trào hướng nội tức là mỗi người tự chiêm
nghiệm suy nghĩ của bản thân. Có hai phương pháp để nhận thức là :
Tiệm ngộ : là sự giác ngộ, nhận thức một các dần dần, có tính chất là “ trí hữu
sư”.
Đốn ngộ : là sự giác ngộ bột phát, bùng nổ có tính chất là “ trí vô sư “.
Với hai phương pháp ấy sự nhận thức Phật giáo được chia làm hai gia đoạn:
Giai đoạn một là từ tuỳ giác đến thể nhập. Nhận thức bắt đầu từ cảm giác và
phụ thuộc vào cảm giác đưa lại. Kết quả là con người biết được cái tiếp xúc giữa
thế giới khách quan và giác quan của con người và từ sự tiếp xúc này tạo nên yếu
tố” thọ “ trong ngũ uẩn. Theo nhà Phật nói chữ thọ ở đây là sự tiếp xúc của sáu
căn với sáu trần tạo nên yếu tố thọ. Căn cứ ở đây là những khả năng nhận thức của
các giác quan. Trần là loại kích thích từ thế giới bên ngoài. Nếu kích thích tương
ứng với các căn thì con người có cảm giác. Sáu căn là : nhăn, nhỉ, tù, thiệt, thân, ý.
Sáu trần là: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. “ Thọ”, cho chúng ta nhận biết được
những hiện tượng riêng lẻ, những cái bề ngoài, ngẫu nhiên. Trong một số trường
hợp khác gọi đó là kinh nghiệm. Từ những tri thức cảm tính kinh nghiệm nêu trên,
con người sẽ đi sâu để nhập vào bản thể của sự vật để biết được cái bên trong, bản
chất đó là tri thức định lý.
Giai đoạn hai sự nhận thức đi từ cái tâm tại đến cái tâm siêu thể. Từ kết quả của
giai đoạn trước , con người bắt được cái tâm tính của những sự vật hữu hình tái thế
và đặc biệt là cái tâm ở trong mỗi con người và nâng lên để nắm được cái tâm siêu
thoát, cái tâm trung.
9
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Để đạt được sự nhận thức đó thì có nhiều phương pháp song hai phương pháp
sau: Tam học và Tam huệ là chủ yếu.
Tam học là giới, định, tuệ.
Giới: Gồm có nhứng phương tiện để thay đổi lối suy nghĩ, lối sinh hoạt hàng
ngày của con người sống theo đạo, thích hợp với đạo là luôn hướng về thiện.
Định: là đình chỉ mọi tư tưởng xấu, ý nghĩ xấu và còn là tập trung tư tưởng
suy nghĩ để làm mọi việc yên lành.
Tuệ: là trí tụê sáng suốt, đã thấu được lý vô thường, vô ngã, do đó chỉ nghĩ
đến làm việc thiện, mưu lợi cho chúng sinh.
Tam huệ: là văn, tu, tư.
Văn: là nghe pháp phật, hiểu rõ ý nghĩa, quan niệm được bản tính thanh tịnh,
sáng suốt của mình, do đó mà có một lòng tin vững chắc nơi Phật pháp.
Tư : là suy nghĩ về các pháp Phật đã nghe được, học được đi đến giác ngộ bản
lai tư tính của mình.
Tu: là nương theo trí tuệ, bắt đầu trực nhận được bản tính chân như, mà tụ tập
gột rửa những thói quen mà lầm từ nhiều kiếp để lại đi đến nhập với một pháp giới
tính.
Các phương pháp trên đã phá tan các kiến chấp sai lầm chấp ngã, chấp pháp để
đi đến trung đạo và nhận rõ trung đạo là chẳng có, chẳng không. Với nhận thức
như thế, người tu hành sẽ được sống trong sự giải thoát, sinh tử luân hồi sẽ không
còn nữa.
2.3.Nhân sinh quan Phật giáo.
Từ một vũ trụ quan căn cứ trên những thuyết nhân duyên sinh, thuyết sự vật
duyên khởi đi đến nhận thức là vô thủy, vô chung, từ những thuyết vô thường, vô
ngã bây giờ chúng ta sẽ tìm hiểu về những quan niệm của Đạo Phật về vấn đề
nhân sinh quan. Ở đây chúng ta sẽ lần lượt trả lời các câu hỏi:
– Con người là gì ? Từ đâu mà sinh ra? Chết rồi đi đâu ?
Vị trí của con người trong Đạo Phật.
– Quan niệm của Phật về các vấn đề:bình đẳng, tự do, dân chủ....
10
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
–Có phải cuộc sống chỉ toàn là đau khổ ? và vấn đề giải thoát trong Đạo Phật là
gì ?
Trước khi trả lời các câu hỏi trên chúng ta sẽ tìm hiểu và phân tích Tứ diệu đế
vì đây là giáo lý kinh điển của Phật giáo bao quát toàn bộ các vấn đề trên.
2.3.1. Tứ diệu đế:
Tứ diệu đế hay còn gọi là tứ chân đế hay tứ thánh đế, là bài thuyết pháp đầu tiên
của Phật sau khi thành đạo tại vườn Lộc giã cho năm từ khưu trước kia đi theo
Phật.
Tứ đế là đạo lý căn bản của Thanh Văn Thừa, đồng thời cũng là cơ sở của các
thuyết khác trong giáo lý Phật.
Tứ đế gồm có: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế.
a. Khổ đế:
Trong tứ đế, Phật đưa ra đầu tiên vấn đề khổ, rồi giảng cho ta thấy vì sao mà
khổ , phương pháp diệt khổ và con đường đi đến diệt khổ.
Nói như thế có người hiểu lầm cho rằng đạo Phật chủ trương cuộc đời chỉ toàn
là khổ, và đạo Phật là đạo yếm thế. Thực ra, đạo Phật nhìn cuộc đời một cách
khách quan, không ru người ta vào một giấc mơ Niết Bàn hay cực lạc và cũng
không làm cho người ta sợ hãi, chán nản bởi những đau khổ trong cuộc sống. Phật
chỉ cho chúng ta nhận thức sự vật, cuộc đời theo chân tướng của nó và chỉ dẫn cho
chúng ta đi đến giải thoát.
Danh từ Dukkha của tiếng Xantít ta thường dịch là khổ là chưa thật hết nghĩa
nên mới dẫn đến những hiểu lầm trên.
Trong phép tướng duy thức có nói đến ba loại thụ: khổ thụ, lạc thụ, xả thụ. Như
vậy không phải chỉ có khổ thụ mà còn có lạc thụ. Đối với cảnh nghịch sinh ra khổ
thụ nhưng đối với cảnh thuận thì sinh ra lạc thú. Các cảnh có thể làm cho người ta
vui hoặc khổ hoặc không vui, không khổ. Đạo phật không phủ nhận những cảm
giác vui (lạc thú ) của cuộc đời mà còn phân tích ra nhiều hình thức vui. Nhưng
những cái vui ấy, cũng như những cái khổ ấy đều bao gồm trong danh từ Dukkha,
vì những cái vui, cũng như những cái khổ ấy đều là vô thường hư giả.
11
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Dù người tu hành chứng được những trạng thái thiền định cao siêu thì những
lạc thú siêu thoát ấy vẫn là Dukkha vì những người tu hành ấy chưa thoát khỏi tam
giới vô thường, hư giả.
Khổ thụ và lạc thụ đều là Dukkha cả, do đó chúng ta phải diệt là diệt cái
Dukkha ấy chứ không phải là tránh khổ, tìm vui như thế gian thường hiểu, thường
lầm.
Theo cách phân tích khác Phật chia cái khổ ra làm 8 loại:
1, Sinh khổ: Đã có sinh là có khổ vì đã sinh nhất định có diệt, bị luật vô thường
chi phối nên khổ.
2, Lão khổ: người ta mong muốn trẻ mãi nhưng cái già theo thời gian vẫn cứ
đến. Cái già vào mắt thì mắt bị mờ đi, cái già vào lỗ tai thì tai bị điếc, vào da,
xương tủy thì da nhăn nheo, xương tủy mệt mỏi. Cái già tiến đến đâu thì suy yếu
đến ấy làm cho người ta phiền não.
3, Bệnh Khổ: Trong cuộc sống, thân thể thường ốm đau, nhất là khi già yếu,
thân thể suy nhược, bệnh tật dễ hoành hành làm cho người ta đau khổ.
4, Tử khổ : Là cái khổ khi người ta chết. Chứng sinh do nghiệp báo chịu cái
thân nào thì gắn bó với cái thân ấy coi như cái thân duy nhất của mình thì khi chết
thì phiền não vô cùng.
5, Cầu bất đắc khổ: Người ta thường chạy theo những điều mình ưa thích, mong
cầu hết cái này đến cái khác. Khi chưa cầu được thì phiền não, khi cầu được rồi thì
phải lo giữ nó, nếu nó mất đi thì lại luyến tiếc.
6, Ái biệt ly khổ: nỗi khổ khi phải chia ly.
7, Oán tăng hội khổ: những điều mình chán ghét thì nó cứ tiến đến bên mình.
8, Ngũ ấm xí thịnh khổ: ngũ ấm ấy là sắc ấm, thụ ấm, tưởng ấm, hành ấm, thức
ấm. Ngũ ấm ấy che lấp trí tuệ, phải chịu cái khổ luân hồi trong vô lượng kiếp.
b. Tập đế:
Tập đế còn gọi là nhân đế, là những nguyên nhân tạo thành sự khổ. Những nguyên
nhân đó không phải tìm đâu xa mà ở ngay trong mỗi chúng ta. Nguyên nhân thì có
nhiều nhưng có thể tóm lại như sau:
12
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
1.Tham lam.
2.Giận dữ.
3.Si mê.
4.Kiêu mạn.
5.Nghi ngờ.
6.Thân kiến ( tưởng thân thể là thực có là trường tồn).
7.Biên kiến ( sự hiểu biết một mặt như chấp đoạn, chấp thưởng ).
8.Tà kiến ( sự hiểu biết không đúng ).
9.Kiến thử ( chấp trí hiểu biết của riêng mình là đúng).
10.Giới cấm tu ( tu hành không chính đạo ).
Ba nguyên nhân chính ( tham, sân, si) Phật còn gọi là tam độc, là nguồn gốc của
mọi sự khổ. Nguyên nhân của tam độc là do ái dục và vô minh được thể hiện trong
công thức sau:
Nghiệp
Ái dục + Vô minh ––––> Sự khổ.
Ái dục: là tham ái, yêu thích do cảm thụ đi đến suy đắm trước những cảnh yêu
thích, vừa lòng, chán ghét cảnh trái ý. Vì say đắm với những cảnh nên rong ruổi
theo cảnh, bám lấy cảnh hình thành nên tham vọng và ước muốn.
Vô minh: là mê lầm, không sáng suốt. Đối với những hiện tượng trụ không
nhận rõ chân tướng, thực tướng của nó là sự chuyển biến không ngừng, là vô
thường mà lại lầm tưởng các hiện tượng đó là thực có, là thường còn. Vô minh che
lấp ta không nhận thấy được chân tâm mà luôn luôn chạy theo vọng tâm, làm ta
thấy có thân, có cảnh, có ta, có người của ta và thấy quý thân ta, không quan tâm
đến người sống quanh ta.
Nghiệp là những hoạt động về thân thể, về lời nói ý nên Phật gọi là thân nghiệp,
khẩu nghiệp và ý nghiệp.
Kết quả của hành động ấy gọi là nghiệp báo. Không phải hoạt động nào của ta
cũng gây nghiệp báo. Những việc như : đi, đứng, nhìn, ngồi,... thì không gây
nghiệp báo.
13
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Nghiệp có hai loại: Nghiệp thiện và nghiệp ác.
Nghiệp thiện : là những việc có lợi cho người và đem lại quả báo tốt cho mình.
Nghiệp ác: là những việc làm hại cho ngươi và đem lại quả báo xấu cho mình.
Như vậy, Phật đặt số mệnh của con người trong chính tay họ. Tự con người đã
gây nên nỗi khổ cho mình. Do đó, Phật đưa ra lý thuyết thập nhị nhân duyên để
thấy được nguồn gốc của sự vật trong thế gian. 12 nhân duyên là sợi dây liên tục
nối tiếp con người trong vòng sinh tử luân hồi đó là:
1. Vô minh
5. Lục nhập
2. Hành
6. Xác
10. Hữu
3. Thức
7.Thụ
11.Sinh
4. Danh sắc.
8.Ái
12. Lão tử.
9. Thù
Tập đế là một chân lý thể hiện tính biểu chứng sâu sắc trong mối quan hệ nhân
quả và đã tìm tới các nguyên nhân rất đa dạng, phong phú. Các nguyên nhân ấy
quan hệ với nhau, cái nào cũng có thể làm nhân làm duyên cho cái khác, như làn
sóng trên mặt biển, lớp trước là lớp nhân là duyên cho lớp sau và cứ thế tiếp diễn.
Nhưng cái hạn chế của tập đế là chưa đề cập đến nguyên nhân từ xã hội. Đặc biệt
là chưa nhắc tới quan hệ giai cấp, bóc lột trong xã hội. Luận điểm này thể hiện rõ
từ trào hướng nội hướng nội trong nhận thức luận Phật giáo.
c. Diệt đế:
Diệt đế là tích quả Niết bàn do thực hành tịnh nghiệp mà đạo đế mang lại.
Diệt đế là trừ diệt sự khổ để đi đến chỗ an lạc là chỗ kết nghiệp đã hết không
còn luân hồi sinh tử nữa.
Có tịnh nghiệp tất sinh tịnh quả. Ấy là khi diệt đế vọng niệm không còn khởi
lên, tâm hồn luôn an trụ trong cảnh vắng lặng là do cảnh giới Niết Bàn.
Niết Bàn có bốn đặc điểm: Thường - Lạc - Ngã - Tịnh.
Thường là thường còn, không biến đổi.
Lạc là an lạc, giải thoát hết phiền não, thâm tâm tự tại.
Ngã là chân ngã, chân thực, thường còn.
Tịnh là thanh tịnh, trong sạch không còn ô nhiễm.
14
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Niết Bàn là sự chấm dứt mọi phiền não được thực hiện không phải ở một nơi
nào khác, một cõi nào khác mà thực hiện ngay trong cõi thế gian này, nhờ sự tu
hành nghiêm túc mang lại cho ta mọi trạng thái tinh thần đặc biệt: Trạng thái an
lạc, siêu thoát, tịnh diệt.
Phật dạy rằng: khi môn đệ làm cho lòng mình sạch hết tham lam, nóng giận và
si mê thì môn đệ đã đến được bến giác, tức là cảnh giới Niết Bàn. Do đó, con
người phải dày công tu dưỡng, xoá bỏ được lửa dục, lửa sân, lửa si mê để chứng
được cảnh giới Niết Bàn ngay trong cõi đời hiện tại.
d. Đạo đế:
Đạo đế là con đường, là môn pháp hướng dẫn cho chúng sinh đạt được đến quả
giải thoát, ra khỏi luân hồi sinh tử.
Pháp môn tu dưỡng ra khỏi luân hồi sinh tư rất nhiều, nhưng thường được đề
cao là phương pháp 37 đạo phẩm.
Phương pháp này gồm có:
1.Tứ niệm xứ:
4.
2.Tứ chính cần: 4.
3.Tứ như ý túc: 4.
4.Ngũ cân:
5.
5.Ngũ lực:
5.
6.Bát chính đạo: 8.
7.Thất giác :
7.
Trong 37 đạo phẩm, bát chính đạo là quan trọng nhất. Nó là con đường giúp
người ta thoát khỏi phiền não, đau khổ đi tới cảnh giới Niết Bàn tự tại, an lạc. Bát
chính đạo gồm có:
1. Chính ngữ : là tu nghiệp thanh tịnh, không phát ra lời nói sai trái.
2. Chính nghiệp: hành động chân chính, mang lại lợi ích cho mọi người.
3. Chính mệnh: sống bằng nghề nghiệp chân chính.
4. Chính tịnh tiến : tiến tới trên con đường đạo, không đi vào các đường tà.
15
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
5. Chính niệm: tâm trí luôn luôn nghĩ đến đạo lý vô ngã, diệt trừ những kiến
chấp mê lầm, đoạt trừ những tư tưởng, hành động bất chính.
6. Chính định : Giữ tâm vắng lặng không một vọng niệm khởi lên để trí tuệ
xuất hiện, chứng quả tu đà hoàn.
7. Chính kiến : kết quả của việc sống, tư duy con người phải có ý biến lấy tiêu
biểu là các vị Phật.
8. Chính tư duy: Sau khi có niệm khởi, con người sẽ tư duy, suy nghĩ một cách
chân chính, làm chủ được dòng tư duy.
Để đi qua tám con đường trên thì không ngoài ba nguyên tắc: giới, định, tuệ hay
còn gọi là tam học. Các nguyên tắc này có sự liên hệ mật thiết bổ xung cho nhau.
1.Giới học: là cả một thiên luân lý thực hành của Đạo Phật, mục đích để kiềm
chế rồi đi đến diệt lục. Giới gồm những phương tiện để thay đổi lối suy nghĩ, lối
sinh hoạt hàng ngày của con người, hướng con người sống theo đạo, thích hợp với
đạo, tức là luôn hướng về thiện .
Phật chỉ định ra nhiều giới đạo cho người tu hành tại gia, tu xuất gia, cho nam
giới, nữ giới, cho người mới vào đạo và người tu lâu ngày. Người tu hành phải giữ
giới nghiêm túc thì mới định được. Nếu không giữ được tất con người luôn bị
vọng dộng, bị cảnh chuyển, không vào cảnh định được.
2. Định học là đình chỉ mọi tư tưởng xấu ý nghĩa xấu nguyên nhân phát sinh
những hành động xấu đi đến gây nghiệp báo xấu. Định còn là tập trung tư tưởng,
suy nghĩ làm những việc lành, từ đó nảy sinh một trạng thái an lạc, tạo điều kiện
cho tuệ phát ra.
3. Tuệ học : là trí tuệ sáng suốt của người tu hành đã diệt được dục vọng, đã
diệt được tam độc là tham, sân, si, đã thấu được lý vô thường, vô ngã do đó chỉ
nghĩ đến làm điều thiện, mưu lợi cho chúng sinh.
Với pháp tứ diệu đế Phật muốn cho chúng sinh thấy 2 cảnh giới khác nhau là
Niết Bàn và Thân Lụy: một con đường giác ngộ, an lạc và một con đường mê lầm
tội lỗi. Và cùng phương pháp tứ diệu đế, bây giờ chúng ta có thể trả lời được các
câu hỏi đã đặt ra ở trên.
16
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
2.3.2Những quan điểm về nhân sinh quan Phật giáo.
a. Con người:
Con người là sự kết hợp của ngũ uẩn( sắc, thụ, tưởng, hành, thức) gồm hai yếu
tố chính: yếu tố sinh lý( sắc) và yếu tố tinh thần ( thụ, tưởng, hành, thức).
Yếu tố tinh thần chỉ phát huy tác dụng khi nó được gắn với một thân thể. Sắc
thân chỉ tồn tại trong một thời gian rồi bị huỷ diệt.
Như vậy, con người chỉ là một giả hợp sinh lý tuân theo quy luật: sinh, tục, dị,
diệt.Con người là do nhân duyên hoà hợp, không có một đấng tối thượng siêu
nhiên tạo ra con người cũng như con người không phải tự nhiên mà sinh ra. Khi
nhân duyên hoà hợp thì con người sinh, khi nhân duyên tan rã thì con người chết.
Song chết chưa phải là hết, linh hồn cũng không bất tử chuyển từ kiếp này sang
kiếp khác. Con người ở kiếp này sinh ra thì con người ở kiếp trước diệt, nhưng con
người ở kiếp sau không phải là con người ở kiếp trước nhưng cũng không khác với
con người ở kiếp trước. Con người không phải là một thực thể trường tồn mà chỉ
là một giả hợp của ngũ uẩn. Trong thời gian ngũ uẩn kết hợp, các việc thiện, ác
được thực hiện. Con người gây nghiệp và tạo ra một động lực làm xuất hiện
nghiệp báo ở kiếp sau.
Từ nhận thức trên, con người tu Phật lúc nào cũng phải cẩn thận trong một ý
nghĩ, lời nói việc làm.
b. Nhân vị trong đạo Phật.
Đạo Phật là đạo chủ trương tự do, bình đẳng, từ bi, bác ái. Ở một thời đại cổ
xưa cách chúng ta trên 25 thế kỷ Phật đã có một quan niệm hết sức tiến bộ đối với
vấn đề bình đẳng trong xã hội. Phật đã từng nói:
“ Không có đẳng cấp trong dòng máu đỏ như nhau, trong dòng nước mắt cũng
mặn như nhau. Mỗi người sinh ra không phải ai cũng mang sẵn dây chuyền ở cổ
hay dấu tica trên trán ( dấu hiệu đẳng cấp của Ấn Độ ) ”.
Và những quan niệm đó được Phật thực hiện ngay trong giáo hội của mình.
Phật thu nạp vào giáo hội của Người tất cả mọi đẳng cấp, không phân biệt sang
hèn, giàu nghèo. Những người ở tầng lớp dưới sau khi tu đắc đạo đã được các đệ
17
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
tử khác tôn trọng, cho đến các vua quan khi đến thăm hỏi cũng phải tỏ lòng kính
mến.
Không dừng lại ở sự bình đẳng giữa con người với con người mà Phật còn đi xa
hơn, nêu lên sự bình đẳng giữa các chúng sinh đều có Phật tính như nhau và đang
cùng nhau: người trước, vật sau, tiến bước trên con đường giải thoát.
Tự do theo quan niệm của Phật là con người sống trong an lạc, giải thoát, không
có áp bức, nô lệ, cũng không bị chi phối bởi ngũ dục. Con người bị ràng buộc bởi
ngoại cảnh và một phần bởi nội tâm. Những sự áp bức, những day dứt gây ra bởi
dục vọng còn khắc nghiệt bằng vạn ngoại cảnh. Nhà lao, cường quyền, tham
nhũng, tàn ác còn chưa khắc nghiệt bằng cái ta ích kỷ. Từ đó, Phật chú trọng đến
giải phóng con người ra khỏi xiềng xích của dục vọng bằng phương pháp tu hành
diệt dục. Để sống tự do phật tử phải đấu tranh với bản thân mình để diệt trừ dục
vọng và đấu tranh để chống mọi sự áp bức bất công.
Người ta gọi đạo phật là đạo từ bi, người tu hành là người giàu lòng từ bi.
Từ là hiền hoà, cho vui.
Bi là thương xót, cứu khổ.
Từ bi là đen lại an lạc, hạnh phúc cho người khác, cứu khổ, cứu nạn cho chúng
sinh, quên đi mọi ích lợi của bản thân mình. Nhưng từ bi không phải là thủ tiêu
mọi sự đấu tranh, giữ thái độ tiêu cực, thụ động trước mọi sự bất công, áp bức,
tham nhũng. Có sức mạnh hung bạo thì phải có sức mạnh của từ bi để chống lại.
Sức mạnh đó thể hiện bằng sự giáo hoá và bằng cả bạo lực, bạo lực từ bi.
Hai chữ từ bi càng đẹp biết bao nhiêu đối với những con người thực tâm tu
luyện thì càng xấu xa bao nhiêu đối với những kẻ lợi dụng đạo để mưu cầu lợi ích
cho mình. Vấn đề giải thoát là vấn đề cơ bản trong đạo Phật vì mục đích cuối cùng
của đạo Phật là giải thoát con người khỏi cuộc sống đau khổ trong vô minh.
Sự giải thoát không chỉ nhằm đấu tranh chống những áp bức về xã hội về kinh
tế như lịch sử Phật giáo đã chứng minh mà sự giải thoát nhằm tiêu diệt tận gốc
mọi đau khổ là tham lam và dục vọng. Việc giải phóng này là con người phải tự
18
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
lực đảm nhiệm, không ai có thể làm thay được và mỗi người phải coi sự giải thoát
là cứu cánh cuối cùng của cuộc đời.
Như vậy, Đạo Phật đã đặt con người lên một vị trí hết sức quan trọng và cao
quý. Hạnh phúc của con người là do con người xây đắp nên. Con người thấm
nhuần giáo lý Phật, con người vị tha, từ bi, hỉ, xả sẽ kiến lập một xã hội hoà bình,
an lạc, công bằng, mọi người sống vì lợi ích của nhau, của tập thể.
Trái lại, con người ích kỷ chỉ biết mình, hại người, con người sống tàn bạo, độc
ác thì cái gì trong tay con người cũng sẽ trở thành khí cụ sát hại và xã hội của
những con người ấy là xã hội của địa ngục, xã hội áp bức bóc lột.
3.Ý nghĩa của việc phân tích triết học phật giáo
Qua những vấn đề cơ bản trong Phật học, ta thấy Đạo Phật là một hệ thống tư
tưởng thống nhất quy tụ về Nhất Thừa Phật pháp. Tất cả giáo lý Phật là nền tảng
cho việc xây dựng con người vị tha và coi cuộc sống vị tha là lý tưởng cao quý
nhất của đời mình, tiến tới con người vị tha và coi cuộc sống vị tha là lý tưởng cao
quý nhất của đời mình, tiến tới con người từ, bi, hỷ, xả, con người Phật. Vì thế vấn
đề nhân vị trong đạo Phật là một vấn đề quan trọng vì đạo Phật cho rằng con người
là tất cả, con người quyết định số phận của mình, quyết định hình thái xã hội. Con
người ác chỉ biết lợi mình hại người tạo ra một xã hội với áp bức bất công. Con
người thiện, sống vị tha xây dựng một xã hội tiến bộ, lành mạnh.
Như vậy, việc phân tích triết học phật giáo cho thấy cái nhìn tổng quan nhất về
vũ trụ và con người cũng như các phương pháp luận giải được đề cập đến trong
triết học phật giáo. Đặt nó trong mỗi tương quan với các trường phái triết học khác
để thấy được mỗi quan hệ tương hỗ qua lại cũng như ảnh hưởng của các tư tưởng
này đến đời sống văn hoá,kinh tế,xã hội mà nó tác động đến. Mặc dù xuất hiện đầu
tiên ở Ấn Độ, nhưng cho đến nay triết học phật giáo Ấn Độ vẫn còn nguyên giá trị
và có nhiều ảnh hưởng sâu rộng đến đời sông văn hoá tinh thần của Ấn Độ nói
riêng và các nước mà phật giáo trở thành một trong những tôn giáo chính thông.
Các tư tưởng triết học được đề cập trong phật giáo không những có ý nghĩa trong
việc luận giải các tư tưởng nhân sinh, xã hội và vũ trụ thời bấy giờ mà còn có ý
19
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
nghĩa về mặt tôn giáo và tâm linh rất là lớn. Các tư tưởng đó chủ yếu đặt con
người ở vị trí trung tâm, nằm trong vòng luân hồi của việc sinh ra và chết đi,
hướng tới sự giải thoát con người khỏi đời sống khổ ải ở nhân gian, hương tới một
cuộc sống thoát tục.
Do triết học Phật giáo không xa rời với tư tưởng tôn giáo, đi sâu, đi rộng vào đời
sống của con người, là chỗ dựa tinh thần của con người, có ý nghĩa lớn trong việc
định hướng các hành xử của những con người lấy chốn cửa phật làm nới tính tâm
thị việc nghiên cứu dòng triết học này có ý nghĩa lớn trong công tác quản lý và
điều hành tôn giáo ở Việt Nam nói riêng và các nước nói chung./.
20