Phạm Công Thành
A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự thành công của một thương hiệu trên thị trường thường gắn liền
với nhiều yếu tố như: uy tín doanh nghiệp, mẫu mã, chất lượng sản phẩm
hàng hóa, dịch vụ, giá cả,… Nhưng ít ai nghĩ đến có một yếu tố không
thể tách rời với thương hiệu trong thời đại ngày nay, đó là quảng cáo.
Một doanh nghiệp khi vừa mới đăng kí thành lập thường chọn cho
mình một cái tên giao dịch phù hợp với thị hiếu khách hàng.
Hoặc ngay khi treo tấm biển kinh doanh, chủ doanh nghiệp luôn
mong muốn rằng tấm biển của mình phải nổi bật nhất trong tất cả
các tấm biển hiệu ở cùng khu vực đó.
Rồi đến khi họ đưa ra thị trường một loại hàng hóa hay dịch vụ
thường mong muốn được người tiêu dùng quan tâm lựa chọn.
Ngay cả những công ty có thương hiệu nổi tiếng toàn cầu, có vị trí
số một đi chăng nữa, vẫn phải có chiến lược kinh doanh đúng đắn
để giữa ngôi vị số một.
Và giải pháp đưa ra cho tất cả vấn đề đó là quảng cáo. Phải làm sao
cho quảng cáo thật ấn tượng, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, để
người tiêu dùng quan tâm lựa chọn sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, đó là
mục đích của quảng cáo. Đứng trên góc độ của một nhà kinh doanh,
quảng cáo đóng vai trò cực kì quan trọng trong việc quảng bá sản phẩm
đến người tiêu dùng, làm gia tăng lợi nhuận, đem lại sự thành công cho
doanh nghiệp. Đứng trên góc độ người tiêu dùng, quảng cáo tốt sẽ mang
lại niềm tin cho người tiêu dùng quyết định nên chọn loại sản phẩm nào,
làm giảm thời gian chọn lựa các mặt hàng cùng loại. Ở góc độ nhà quản
lý, quảng cáo ảnh hưởng đến trật tự xã hội, đến sự phát triển kinh tế, do
-1-
Phạm Công Thành
đó nên quảng cáo ở mức độ nào cho phù hợp là điều mà các nhà quản lý
nên quan tâm.
Tuy nhiên, một thực tế đang diễn ra tại Việt Nam là quảng cáo
đang diễn hết sức bừa bãi, ảnh hưởng nhiều đến trật tự xã hội. Mặc khác,
một số doanh nghiệp làm ăn bất chính đã lợi dụng quảng cáo, làm người
tiêu dùng khó phân biệt được đâu là thật, đâu là giả, làm ảnh hưởng đến
thương hiệu của các doanh nghiệp thành đạt. Tuy đã có pháp luật quy
định, nhưng mới chỉ ở mức sơ khai, các chế tài chưa được luật đề cập rõ.
Do đó nhiều người chưa biết, hoặc biết nhưng vẫn cố tình chạy theo lợi
nhuận dẫn đến vi phạm pháp luật.
Do đó, Khóa luận này xin đề cập đến vấn đề đang nóng bỏng hiện
nay, đó là quảng cáo, luật điều chỉnh, những vướng mắc từ thực tiễn và
giải pháp kiến nghị.
2. Mục đích nghiên cứu và ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Nhằm nghiên cứu, phân tích có hệ thống các quy định của pháp
luật về quảng cáo.
Tìm hiểu một số vấn đề về hoạt động xây dựng và thực thi pháp
luật về quảng cáo trên thực tế.
Từ đó tìm ra những điểm bất hợp lý các quy định của pháp luật.
Đề xuất giải pháp, góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật
về hoạt động quảng cáo.
Góp phần giải thích, tuyên truyền pháp luật.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Do vấn đề quảng cáo dịch vụ thương mại là vấn đề rất rộng, liên
quan đến nhiều chuyên ngành (kinh tế, văn hoá, nghệ thuật,…), nên khoá
luận này, chỉ tập trung phân tích, nghiên cứu quảng cáo hàng hoá mang
tính chất thương mại, quảng cáo dịch vụ mang tính chất thương mại được
-2-
Phạm Công Thành
quy định trong Pháp lệnh quảng cáo và các văn bản hướng dẫn thi hành,
chứ không đi sâu tìm hiều quảng cáo mang tính công cộng.
Trong đề tài khóa luận này, chúng tôi chủ yếu nghiên cứu Pháp
lệnh quảng cáo được Uỷ Ban Thường Vụ Quốc Hội nước Cộng Hoà Xã
Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ban hành ngày 16 tháng 11 năm 2001 cùng các
văn bản hướng dẫn thi hành.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận này sử dụng chủ yếu các phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp tổng hợp.
Phương pháp phân tích.
Phương pháp kế thừa.
Phương pháp so sánh.
5. Kết cấu của Khóa luận
Khóa luận gồm 2 chương:
Chương 1: lý luận chung về quảng cáo dịch vụ thương mại
Chương 2: Thực trạng và một số kiến nghị về quảng cáo dịch vụ
thương mại
-3-
Phạm Công Thành
CHƯƠNG 1:
Lý luận chung
về quảng cáo dịch vụ thương mại
1.1.
Nguồn gốc của quảng cáo dịch vụ thương mại
- Trên thế giới
Nhiều người nghĩ rằng quảng cáo chỉ mới xuất hiện gần đây, đặc
biệt ở thời kì chủ nghĩa tư bản, vì rằng khi có hàng hoá mới có quảng cáo.
Nhưng thật ra không phải như vậy. Quảng cáo đã có từ rất lâu trong lịch
sử. Hàng ngàn năm trước đây, tại Hy Lạp, ngay khi xã hội có trật tự, luật
pháp được hình thành, những người đề ra luật pháp mong muốn số đông
dân chúng biết luật và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, họ nghĩ ra
nhiều phương pháp để tuyên truyền pháp luật, trong đó tiêu biểu nhất là
họ đã khắc luật lên tảng đá cao để công khai pháp luật. (Đây là nguồn gốc
của loại quảng cáo ngoài trời bằng những tấm áp phích sau này).
Tuy nhiên loại quảng cáo này không mang tính chất thương mại,
mà chỉ là quảng cáo mang tính chất công cộng, vì mục đích của cộng
đồng. Còn quảng cáo mang tính chất thương mại thì ra đời muộn hơn,
xuất hiện khi có sự tư hữu, và đặc biệt là khi người ta muốn thông báo
một cái một cái gì đó cho đại đa số công chúng biết. Vì mục đích của
quảng cáo là thông tin về sản phẩm, để khách hàng biết và mua nó, do đó,
quảng cáo ra đời cùng với hàng hoá.
Ở thời kì sơ khai, khi những sản phẩm dư thừa được đưa đi bán lại
trên thị trường và trở thành hàng hoá, người sản xuất muốn được đại đa
số công chúng biết đến hàng hoá của mình thì họ phải tiến hành rao bán.
Có thể là rao bán bằng miệng, ghi chữ, hoặc đến các hộ gia đình chào
bán. Đây là hình thức buổi đầu của quảng cáo.
-4-
Phạm Công Thành
Tuy nhiên, loại hình này chỉ giới hạn trong một khuôn khổ nhỏ
hẹp, một khu vực địa lý nhất định. Bước sang thời kì hàng hoá tự do mua
bán trên thị trường của chủ nghĩa tư bản, hàng loạt các mặt hàng được
bày bán, người bán muốn bán được nhiều hàng hơn thì phải tìm cách tiếp
cận khách hàng. Do vậy người ta sử dụng các công cụ như: radio, báo in,
các tờ rơi, các biển quảng cáo,… làm phương tiện quảng cáo. Sự phát
triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là với sự hỗ trợ của các phương
tiện thông tin đại chúng đã đưa quảng cảo lên một tầm cao mới. Một
ngành thật sự có vai trò quan trọng không thể thiếu trong nền kinh tế thị
trường.
- Ở Việt Nam
Theo nhận xét của các nhà kinh tế thì quảng cáo ra đời từ rất sớm,
sự xuất hiện của nó gắn liền với sự ra đời của các đô thị và trung tâm
buôn bán. Ở Việt Nam, các đô thị ra đời muộn hơn so với các nước
phương Tây nên đến tận thời kỳ trung và cổ đại ở ta mới xuất hiện những
hình thức quảng cáo với mức độ rất sơ khai. Tại thời kỳ này, số lượng
người biết chữ rất hạn chế nên triều đình hoặc các địa phương (tổng,
làng...) cần thông báo đến dân chúng một vấn đề gì thì phải dùng loa, mõ
(dân gian vẫn quen gọi là mõ làng). Đây là một dạng quảng cáo mang
tính chất thông báo, tuyên truyền không chứa dựng yếu tố thương mại.
Quảng cáo mang tính thương mại chỉ thực sự manh nha vào cuối
thế kỷ XIX, khi một số đô thị ở Việt Nam xuất hiện và đặc biệt là sự có
mặt của người Pháp. Trong giai đoạn này, quảng cáo chủ yếu xuất hiện ở
Hà Nội và Sài Gòn trên một số báo tiếng Pháp và đối tượng mà người ta
nhắm đến cũng chủ yếu là người Pháp. Sau một quãng thời gian, tính từ
tờ báo tiếng Việt đầu tiên ra đời (1865 của Trương Vĩnh Ký) đến tận đầu
-5-
Phạm Công Thành
thế kỷ XX, mới xuất hiện quảng cáo trên báo tiếng Việt. Cũng tính từ thời
điểm này, một số lớp người Việt Nam (công thương, tư sản) mới bắt đầu
làm quen với quảng cáo. Tuy nhiên, mức độ tham gia, còn rất hạn chế,
phần lớn những nhà công thương khi làm ăn phát đạt rồi mới tính đến
việc quảng cáo, còn đối với đại đa số người dân thì quảng cáo chỉ là một
hình thức phô trương, nói qúa sự thật. Do nhận thức và những yếu tố xã
hội khác tác động nên người dân không “mặn mà” đối với chuyện này.
Phổ biến nhất trong quảng cáo thời kỳ này vẫn là đi rao, vì ý đồ của nhà
sản xuất đối với đại bộ phận người không biết chữ là đến tận nơi nói rõ
nguồn gốc, công hiệu của sản phẩm. Tuy nhiên vào cuối những năm 30, ở
Sài Gòn đã xuất hiện một số tờ báo chuyên đăng quảng cáo của các hãng,
mà điển hình là tờ Quảng cáo thương vụ tổng biên do ông Nguyễn Văn
Phải làm chủ bút. Hành động mang tính đột biến này có nguồn gốc từ sự
lớn mạnh của một số hãng trong nước và các hãng nước ngoài có nhu cầu
tìm hiểu và giao dịch với nhau. Trong giai đoạn này, quảng cáo mang
đậm tính văn học, vì chưa có sự ra đời của phát thanh nên nhất thiết phải
viết hấp dẫn để gây được sự chú ý của độc giả. Năm 1940, trên tờ Quảng
cáo tuần báo ở Sài Gòn đăng quảng cáo cho hãng sữa Nestlé như sau:
“ Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ đến tuần cập kê
Chỉ nhờ uống sữa Nestlé
Ngoài ra sữa khác chẳng hề ngó qua”.
Nội dung nói về lợi ích của uống sữa Nestlé có thể làm tăng vẻ đẹp
của các cô gái như chị em Thuý Vân, Thuý Kiều. Hay như trên báo Ngày
-6-
Phạm Công Thành
nay ở Hà Nội trong năm 1930, độc giả thấy hình ảnh một ông nhà giàu
chôn tiền ở ngoài vườn bị kẻ trộm đào mất, lớn tiếng kêu “Ôi kẻ trộm! Ôi
kẻ trộm! Nó hại tôi rồi, nó giết tôi rồi! Nó lấy mất hũ tiền của tôi rồi!”.
Tiếp đó là một ông hàng xóm an ủi: “Sao ông không gửi tiền cho Hội Vạn
quốc tiết kiệm”. Ta có thể thấy đây là cách thể hiện quảng cáo rất ấn
tượng bằng văn viết với nội dung khuyên mọi người nên gửi tiền vào Hội
Vạn quốc tiết kiệm (một dạng kiểu như ngân hàng bây giờ). Tóm lại
trong thời kỳ Pháp thuộc vì phát thanh chưa phổ biến nên quảng cáo chủ
yếu là ở trên báo, với cách thể hiện bằng văn viết, dễ nhớ, dễ hiểu, đôi lúc
vui nhộn.
Kế tiếp giai đoạn này là một khoảng thời gian khá dài suốt từ năm
1945 đến năm 1986, đặc biệt là giai đoạn 1954 đến 1986, hàng hoá của
nước ta được tiêu thụ ở dạng phân phối, do vậy trong khoảng 30 năm
quảng cáo không có đất sống.
Kể từ khi đất nước mở cửa, đặc biệt là Hiến pháp 1992 được ban
hành đã mở rộng quyền tự do kinh doanh của các chủ thể trong nền kinh
tế thị trường, với nguyên tắc “được làm tất cả những gì mà luật không
cấm”, chúng ta có thể hiểu rằng: trong các quyền kinh doanh của con
người có cả quyền quảng cáo. Quảng cáo sống lại và thực sự bùng nổ từ
hình thức cho đến nội dung thể hiện. Giai đoạn này, báo viết không còn
độc chiếm quảng cáo, thậm chí phải nhường chỗ cho phát thanh và truyền
hình. Cũng trong giai đoạn này, những hình thức quảng cáo sơ khai như
pano, apfíc, biển, bảng, không những không mất đi mà còn nở rộ trên các
ngả đường, nhà cao tầng với đủ loại mầu sắc sống động, gây ấn tượng
trực tiếp vào thị giác. Với tính đại chúng rất lớn, nên hiện tại truyền hình
và phát thanh được những nhà sản xuất coi là những kênh quan trọng để
-7-
Phạm Công Thành
tiếp thị sản phẩm của mình đến người tiêu dùng, đặc biệt là truyền hình.
Với những đặc tính về âm thanh, hình ảnh nên có thể coi đây là thời điểm
“lên ngôi” của quảng cáo truyền hình. Quảng cáo truyền hình được thiết
kế hoàn chỉnh và công phu, có kịch bản, đạo diễn, diễn viên, thậm chí còn
có cả trường quay. Các kênh truyền hình càng thu hút nhiều khán giả thì
càng xuất hiện nhiều chương trình quảng cáo. VTV3 của Việt Nam là một
ví dụ. Sóng phát thanh cũng chiếm một lượng lớn về quảng cáo, song do
một số mặt không có tính ưu việt như truyền hình nên chỉ đứng ở vị trí
thứ hai. Báo viết vẫn là một kênh không thể thiếu để đăng tải quảng cáo,
song do đặc điểm của từng thời kỳ nên không được rầm rộ và hoành tráng
như truyền hình và phát thanh. Báo viết đã kém đi sức thu hút đối với các
hãng lớn, các sản phẩm nổi tiếng. Cũng trong giai đoạn này, nhận thức
của các nhà sản xuất đối với việc quảng cáo đã thay đổi hoàn toàn so với
những thời kỳ trước. Nhiều doanh nghiệp có khoản ngân sách dành riêng
cho quảng cáo. Các hãng còn có cả các chuyên gia về công tác marketing.
Rất nhiều hãng quảng cáo sản phẩm của mình từ khi nó chưa ra đời. Về
phía người tiêu dùng, nhất là cư dân ở các đô thị đã dần chấp nhận và coi
quảng cáo như một phần tất yếu của hoạt động thương mại [22].
1.2.
Khái niệm và những đặc điểm về quảng cáo
Khái niệm về quảng cáo có thể được hiểu trên nhiều phương diện:
kinh tế, xã hội, ngôn ngữ,… nhưng ở trong phạm vi Khoá luận này, chúng
tôi nghiên cứu tìm hiểu khái niệm quảng cáo trên góc độ pháp lý.
Khái niệm quảng cáo theo Pháp lệnh quảng cáo:
Theo đó, khoản 1, Điều 4, Pháp lệnh về quảng cáo được Uỷ ban
thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ban hành
ngày 16 tháng 11 năm 2001 thì:
-8-
Phạm Công Thành
Quảng cáo là giới thiệu đến người tiêu dùng về hoạt động kinh
doanh, hàng hóa, dịch vụ, bao gồm dịch vụ có mục đích sinh lời và
dịch vụ không có mục đích sinh lời.
Dịch vụ có mục đích sinh lời là dịch vụ nhằm tạo ra lợi nhuận cho
tổ chức, cá nhân cung ứng dịch vụ.
Dịch vụ không có mục đích sinh lời là dịch vụ không nhằm tạo ra
lợi nhuận cho tổ chức, cá nhân cung ứng dịch vụ.
Tính cho đến thời điểm này, đây vẫn là cách hiểu phổ biến về
quảng cáo đứng trên góc độ pháp lý trong các cơ quan quản lý nhà nước.
Khái niệm này là cơ sở để xác định đâu là hoạt động quảng cáo, làm tiền
đề cho sự quản lý của các cơ quan chức năng.
Từ khái niệm đó, ta thấy quảng cáo có những đặc điểm sau:
- Về dấu hiệu:
Trước hết, quảng cáo là một yếu tố truyền thông, một hình thức
truyền thông được trả tiền để thực hiện. Truyền thông nghĩa là người ta sử
dụng quảng cáo với mục đích là truyền thông tin không phải cho một mà
là nhiều đối tượng, trên 1 khu vực rộng lớn.
Có mặt ở nhiều nơi. Nếu quảng cáo chỉ được thực hiện tại cơ sở
kinh doanh hàng hoá, cung cấp dịch vụ thì đó không phải là một quảng
cáo đúng nghĩa. Thực chất của một quảng cáo là muốn giới thiệu đến đại
đa số người tiêu dùng sản phẩm hàng hoá, dịch vụ để họ sử dụng. Muốn
điều này xảy ra, quảng cáo phải trên một bình diện rộng, tức là có mặt ở
nhiều nơi, được nhiều người chú ý.
-9-
Phạm Công Thành
Sử dụng lặp đi lặp lại. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, quảng cáo
tức là đưa đến cho người tiêu dùng những thông tin về hàng hoá, dịch vụ.
Nếu việc này chỉ thực hiện một lần, rõ ràng nó chẳng khác gì một thông
báo, không có hiệu quả với khách hàng. Việc một quảng cáo được sử
dụng lặp đi lặp lại là để khách hàng ghi nhớ vào trong tâm trí sản phẩm
được quảng cáo. Và đến khi có điều kiện, trí óc của khách hàng thúc dục
họ mua ngay món hàng họ đã ghi nhớ trước đó.
Phục vụ cho một mục đích rõ ràng. Không có một hành động nào
của con người là không có mục đích. Hoạt động của quảng cáo cũng vậy.
Nó có mục đích rõ ràng. Tuy nhiên nhiều loại quảng cáo khác nhau thì có
mục đích khác nhau. Ví dụ như quảng cáo để giới thiệu sản phẩm mới, để
hướng dẫn cho khách hàng sử dụng sản phẩm,… Tuy nhiên, mục đích
cuối cùng của quảng cáo thương mại bao giờ cũng là lôi kéo khách hàng,
giành lấy thị trường.
Không bắt người xem phải trả tiền. Quảng cáo là để đưa thông tin
đến khách hàng. Có thông tin cần cho người này (như giảm giá), và cũng
có những thông tin mà người kia không cần. Như thế thì không thể bắt
mọi người trả tiền được. Giả sử rằng người đọc quảng cáo phải trả tiền
cho quảng cáo, thì mọi người không đọc và xem quảng cáo, như thế thì
mục đích của quảng cáo không đạt được. Tuy nhiên, điều mà tác giả
muốn nhấn mạnh ở đây là: tuy không bắt người xem trả tiền một cách
“trực tiếp”, nhưng về mặt “gián tiếp” người tiêu dùng lại trả tiền cho
quảng cáo. Chi phí cho quảng cáo thường tính vào giá cả sản phẩm hàng
hoá và dịch vụ.
- 10 -
Phạm Công Thành
Người chi trả cho nội dung quảng cáo là một tác nhân được xác
định. Nội dung quảng cáo nhằm thuyết phục hoặc tạo ảnh hưởng tác động
vào người mua hàng. Thông điệp quảng cáo có thể được chuyển đến
khách hàng bằng nhiều phương tiện truyền thông khác nhau như tivi, báo
chí, biển panô,…
Quảng cáo tiếp cận đến một đại bộ phận khách hàng tiềm năng.
Nếu sản phẩm hàng hoá và dịch vụ “cung không đủ cầu” thì không cần
quảng cáo. Tuy nhiên trong tình trạng bão hoà ngày nay, việc các doanh
nghiệp quảng cáo là để tiếp cận các khách hàng tiềm năng, nghĩa là tiếp
cận những người “có khả năng mua”, có thể trở thành khách hàng của
doanh nghiệp.
- Về chủ thể:
Theo Điều 4 Pháp lệnh Quảng cáo, việc quảng cáo có thể bao gồm
3 chủ thể sau:
Người quảng cáo là tổ chức, cá nhân có nhu cầu quảng cáo về hoạt
động kinh doanh, hàng hóa, dịch vụ của mình.
Người phát hành quảng cáo là tổ chức, cá nhân đưa sản phẩm
quảng cáo đến người tiêu dùng, bao gồm cơ quan báo chí, nhà xuất
bản, tổ chức quản lý mạng thông tin máy tính, người tổ chức
chương trình văn hóa, thể thao, hội chợ, triển lãm và tổ chức, cá
nhân sử dụng phương tiện quảng cáo khác.
Người kinh doanh dịch vụ quảng cáo là tổ chức, cá nhân thực hiện
một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình hoạt động
quảng cáo nhằm mục đích sinh lời.
- 11 -
Phạm Công Thành
Chúng tôi nhận thấy, tại Điều 4 Pháp lệnh này đã quy định một
cách chính xác, rõ ràng, đầy đủ các chủ thể tham gia trong hoạt động
quảng cáo. Trong ba chủ thể này, chúng tôi cho rằng, có vai trò quan
trọng nhất và không thể thiếu cho bất kì một hoạt động quảng cáo nào là
người phát hành quảng cáo. Vì rằng, quảng cáo là đưa thông tin quảng
cáo đến người tiêu dùng, mà người phát hành quảng cáo lại là người thực
hiện công việc này.
1.3.
Vai trò của quảng cáo
Chúng ta sẽ xem xét vai trò của quảng cáo ở hai thời kỳ:
- Ở thời kỳ thứ nhất, là giai đoạn có hàng hoá, nhưng lượng cung
không đáp ứng đủ cầu. Đây là giai đoạn thiếu hàng hoá, do đó khi hàng
hoá được sản xuất và tung ra thị trường thì đã có người mua, không có
sản phẩm dư thừa. Người sản xuất không phải quảng cáo.
- Ở thời kỳ thứ hai, là giai đoạn hàng hoá tràn ngập trên thị trường.
Muốn bán được hàng, các nhà sản xuất, cũng như người bán hàng phải
tìm cách tiếp cận người tiêu dùng, đưa sản phẩm đến tận tay người tiêu
dùng. Lúc này, quảng cáo là công cụ hữu hiệu nhất để các nhà sản xuất,
phân phối cạnh tranh với nhau, đẩy nhanh tốc độ tiêu dùng hàng hoá. VD:
Một công ty sản xuất dầu gội đầu mới tham gia thị trường, nếu không gửi
thông điệp đến khách hàng để giới thiệu cho khách hàng thì sẽ không ai
biết được những thông tin về sản phẩm, từ đó khó mà chiếm được sự tin
dùng của khách hàng, thậm chí để dùng thử cũng khó. Việc truyền thông
tin ấy chính là quảng cáo. Quảng cáo là thông điệp, nó chứa đựng thông
tin về sản phẩm và công ty mà người quảng cáo muốn gửi tới khách hàng.
Khi sản phẩm đã có chỗ đứng trên thị trường thì quảng cáo lúc này lại
- 12 -
Phạm Công Thành
mang vai trò thuyết phục khách hàng tiếp tục duy trì mua và sử dụng sản
phẩm, thu hút thêm khách hàng mới có nhu cầu hoặc đang sử dụng nhãn
hiệu khác chuyển sang sử dụng nhãn hiệu của mình. Quảng cáo thông qua
nhiều hình thức và phương tiện để truyền thông điệp ấy đến cho tất cả
mọi người, ở mọi nơi, mọi lúc. Quảng cáo hiện đại ngày nay sử dụng
ngôn ngữ, hình ảnh, âm thanh kết hợp với màu sắc để thu hút sự chú ý
của đối tượng khách hàng muốn nhắm đến một cách toàn diện. Các
phương tiện quảng cáo trên các kênh quảng cáo truyền thông trên truyền
hình, các báo, radio và các bảng quảng cáo ngoài trời là những phương
tiện và kênh quen thuộc nhất.
Ngày nay, khi các nhà cung cấp dịch vụ xuất hiện bên cạnh các nhà
cung ứng hàng hoá, tính chất của dịch vụ cũng có những điểm khác biệt
với hàng hoá, nhưng về mặt quảng cáo thì cũng giống nhau. Các nhà
cung cấp dịch vụ cũng quảng cáo để cạnh tranh với nhau, để tìm kiếm
khách hàng trên thị trường.
Như vậy, quảng cáo có một vai trò quan trọng, đó là cạnh tranh để
đẩy nhanh tốc độ tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ đến người tiêu dùng. Nếu
những năm 1990, hầu hết các gia đình chỉ có một hoặc hai loại dầu gội
đầu dùng để tránh “chí, rận” thì ngày nay với sự góp phần của quảng cáo,
mỗi gia đình ít nhất cũng có 4 loại dầu gội đầu (dầu gội, dầu xả, dùng cho
tóc khô, giữ ẩm cho tóc,…). Đó là chưa kể đến mỗi thế hệ trong một gia
đình thích dùng những nhãn hiệu khác nhau phù hợp với lứa tuổi. Một
minh chứng cho vấn đề này nữa là: trước đây, mỗi nhà chỉ có một cái tivi
đen trắng, nhưng với sự phát triển của nền kinh tế, quảng cáo cũng phát
triển theo. Các hãng Samsung, LG, Panasonic, Sony,… đua nhau quảng
cáo tivi màu, kích thích thị hiếu người tiêu dùng, thúc đẩy họ mua hàng.
- 13 -
Phạm Công Thành
Giờ đây, mọi nhà điều đã có tivi màu, mặc dùng tivi đen trắng vẫn còn
dùng được nhưng lại chẳng ai xài.
Đối với người tiêu dùng, quảng cáo giúp họ tiết kiệm được thời
gian mua sắm. Ngày nay, chỉ cần ngồi xem quảng cáo trên tivi, hoặc xem
một mẫu quảng cáo trên báo, người tiêu dùng có thể quyết định mua hay
không mua món hàng.
Mặt khác, khi ngành quảng cáo ra đời, nó tạo được việc làm cho rất
nhiều người trong xã hội như thiết kế, in ấn, sản xuất phim quảng cáo,…
1.4.
Phân loại quảng cáo
- Căn cứ theo các trường phái quảng cáo: có 3 trường phái
chính:
Quảng cáo USP (Unique Selling Proposition: ưu thế sản phẩm độc
nhất) được khởi xướng bởi một người Mỹ là Reeves trong những năm
1940, sau đó được Bates phát triển và hoàn thiện. Thời kỳ này công nghệ
sản xuất còn phôi thai và mỗi sản phẩm thường có một ưu điểm rất riêng.
Bằng cách xoáy sâu vào ưu điểm này, nhà quảng cáo tạo cho thương hiệu
của mình một hình ảnh và chỗ đứng độc lập. Một trong những quảng cáo
USP tiêu biểu là sôcôla “chỉ tan trong miệng, không tan trên tay.” Quảng
cáo USP thường dùng những chữ “duy nhất” hay “đầu tiên”.
Ở Việt Nam trong những năm mới mở cửa và hàng hóa ồ ạt tràn
vào, chúng ta cũng thường thấy kiểu quảng cáo này. Do sự lơi lỏng của
luật định, thậm chí các nhà quảng cáo còn đi xa hơn: họ không nói duy
nhất mà xưng là tốt nhất! Nào là “loại bia số 1 thế giới” “chuyển phát
- 14 -
Phạm Công Thành
nhanh nhất thế giới” “bột ngọt tốt nhất thế giới”… Sau này khi bị cấm, họ
mới chuyển sang “duy nhất” hay “đầu tiên”.
Có thể nhìn thấy nỗ lực này rất rõ trong các loại dầu gội, xà bông.
Mặc dù công thức gần như nhau, các nhà sản xuất thường cho vào một tí
(rất ít) tinh chất gì đấy. Và thế là chúng ta có vô số loại dầu gội: bồ kết,
thảo dược, cam, nha đam, hoa đậu biếc… Và sự trúng mánh chắc chắn
thuộc về Sunsilk Bồ kết vì đã khơi trúng niềm tin đã có truyền thống lâu
đời trong các thế hệ phụ nữ Việt Nam.
Quảng cáo ESP (Emotional Selling Proposition: ưu thế về mặt
tình cảm) ra đời như là câu trả lời cho sự bế tắc của USP, khi mà sản
phẩm ngày một giống nhau, hôm nay anh xướng lên màn hình phẳng thì
hôm sau đối phương cũng ra liền, hóa ra nhiều khi lại làm không công
cho cả ngành hàng! Cơ sở của quảng cáo ESP dựa trên những sự thật sau:
Thương nhau củ ấu cũng tròn
Ghét nhau bồ hòn cũng méo
hay:
Thương ai thương cả đường đi
Ghét ai ghét cả tông ty họ hàng.
Quảng cáo ESP thường được áp dụng cho những sản phẩm ít tiền,
thí dụ như nước ngọt, bột ngọt, mì ăn liền, bánh kẹo,… khi mà sự lựa
chọn thông thường rất cảm tính. Quảng cáo kiểu này thường vui nhộn,
đầy ắp nụ cười và kèm theo một câu hát hay cả bài hát. Người đầu tiên
thực hiện rùm beng có lẽ là Coca-Cola. Gần đây bột ngọt Ajinomoto cũng
rất thành công với một chùm phim quay trên một gia đình không đổi gồm
- 15 -
Phạm Công Thành
ba thế hệ ông bà, bố mẹ, con cái đều vui thích nấu ăn với Ajinomoto trên
một giai điệu không đổi: “Những món ăn quê hương đậm đà Ajinomoto
ngon quá, vui biết bao bữa ăn gia đình, Ajinomoto tuyệt vời…” Nói
chung kiểu quảng cáo này đòi hỏi phải có duyên, giống như một anh
chàng si tình mang guitar đến hát dưới khung cửa sổ người đẹp. “Hát
khéo thì được nàng mở cửa kéo lên, hát vô duyên coi chừng bị suỵt chó”.
Thật ra so sánh này cũng hơi khập khiễng vì đối tượng của quảng cáo là
số đông. Và đôi khi có những quảng cáo phân hóa rất rõ nét. Điển hình là
chiến dịch “người đẹp tự sự” của xà phòng Dove: “Ông xã mình nói mua
cho mình xài, biết đâu ổng cũng xài, hí hí”.
Quảng cáo lối sống hay giá trị: dựa trên giả định này: hãy đi cùng
tôi, vì chúng ta chung một niềm tin. Quảng cáo này thường có vẻ xa vời,
nhưng sức mạnh của nó, một khi bắt trúng mạch, là kinh khủng. Nike xây
dựng lâu đài của mình xung quanh thái độ “Just do it” - hãy làm điều bạn
thích, bất kể mọi thứ. Có thể nói đó là một thái độ rất Mỹ. Một dạo Nike
thuê danh thủ người Pháp đóng phim cho mình. Anh chàng Cantona, mặt
mày ngổ ngáo như mọi khi, nói: “Tôi đã từng đánh đồng đội, bay đạp vào
cổ động viên, cãi trọng tài, nhận thẻ đỏ từ trọng tài, rồi gọi tay trọng tài
đó là quân cứt đái. Vậy mà hổng hiểu sao có người vẫn tài trợ cho tôi.
Nike.” Quảng cáo kiểu này có lẽ phải còn lâu mới hiệu quả (hay được
chiếu) ở châu Á, nhưng ở phương Tây, nó rất thịnh hành.
Chiến dịch “Hãy thưởng anh ấy một Tiger” khi mới tung vào Việt
Nam có thể xem như một nỗ lực chuyên nghiệp đầu tiên quảng cáo theo
hướng lối sống/giá trị (Lifestyle advertising). Lặp đi lặp lại câu chuyện
anh hùng cứu mỹ nhân, bằng các thước phim hành động hấp dẫn và cùng
với câu hiệu “Bản lĩnh đàn ông thời nay” thương hiệu này đã đánh trúng
- 16 -
Phạm Công Thành
tâm lý người uống bia Việt Nam. Nam vô tửu như kỳ vô phong. Tiger
Beer tiếp nối một tâm tưởng đã có từ nhiều đời, một sự ngưỡng mộ đối
với kiểu anh hùng lãng tử phương Đông, uống như hũ chìm nhưng võ
thuật, quân tử thì cũng hiếm ai bì. Chỉ có ở phương Đông mới có một thứ
võ là túy quyền, mặc dù có lẽ nó chỉ tồn tại trong phim chưởng và truyện
kiếm hiệp! Tuy nhiên ở đây, hơn là cổ xúy một lối sống (mấy ai thật sự
dám làm anh hùng?) chiến dịch quảng cáo này cho người uống bia một
“cái cớ” rất mỹ miều để biện minh cho hành động của mình: “Đàn ông
mờ, phải bản lĩnh chớ, hông uống bạn bè nó cười cho”.
Khi ra đời, phim Biti’s “Nâng niu bàn chân Việt” gây ngạc nhiên
không phải vì nội dung của nó. Trước đó Biti’s và nhiều nhãn Việt đã
giương lá cờ “tự hào Việt Nam”, “người Việt dùng hàng Việt”. Sự khác
biệt là Biti’s được quay khá chuyên nghiệp, kịch bản gọn gàng, hình ảnh
đẹp. Một cách nghịch lý, bộ phim này bắt được dòng chảy “tinh thần dân
tộc” vì… nó giống phim quảng cáo nước ngoài! Điều này cũng dễ hiểu:
trong bối cảnh hội nhập, chúng ta khát khao một tầm vóc, dáng vẻ ngang
bằng với thế giới [23].
Ngoài ba “dòng chính” kể trên, quảng cáo còn có những nhánh rẽ
riêng biệt rất độc chiêu. Một dạo người ta đề xướng một thứ gọi là quảng
cáo tiềm thức (Subliminal advertising). Cơ sở lý luận của quảng cáo
này nghe rất vững chắc: chính tiềm thức con người mới là nơi cần phải
nhắm vào, chính những gì nằm sâu, bên dưới cả tâm tư, suy nghĩ, tình
cảm, niềm tin… mới chi phối con người mạnh mẽ hơn cả. Nhưng đến
phần thực hành thì không biết phải làm sao? Làm sao để thôi miên hàng
triệu người xem truyền hình? Có người đề xuất quảng cáo cực ngắn, chỉ
- 17 -
Phạm Công Thành
có nhãn hiệu hiện lên trong tích tắc và biến mất trước khi người xem kịp
nhận ra.
Tuy nhiên, tiềm thức vốn nhanh hơn ý thức đã kịp lĩnh hội và sẽ
lưu giữ hình ảnh nhãn hiệu trong trí. Quảng cáo kiểu này có đưa vào thực
tiễn ở phương Tây một thời gian trước khi bị cấm vì bộc lộ quá rõ mưu
đồ điều khiển con người.
Một nỗ lực thành công hơn để chui vào tiềm thức người xem người
nghe chính là lặp đi lặp lại. Điều này giải thích tại sao mỗi thương hiệu
chuyên nghiệp phải có một logo bất biến, kèm theo một câu hiệu như là
Biti’s “Nâng niu bàn chân Việt”. Đi xa hơn, các thương hiệu còn chọn
một phông chữ riêng, gam màu riêng, giọng đọc riêng, bài hát riêng, ngôi
sao riêng. Sức mạnh của sự lặp lại đã nhiều lần được chứng minh qua các
quảng cáo cực dở nhưng lại cực kỳ thành công do chiếu liên tục và cấu
trúc đơn giản. Thuốc bổ Nutroplex xây dựng thương hiệu qua hình ảnh bé
Bi rất ngô nghê: “Bi khỏe hơn, thông minh hơn là nhờ uống Nutroplex
mỗi ngày”. Và Nutroplex khỏe hơn, thành công hơn là nhờ lải nhải câu
này mỗi ngày trong một thời gian rất dài.
Có một dòng quảng cáo chuyên nhắm vào sự sợ hãi là quảng cáo
thuốc, hay rộng hơn, quảng cáo cho các sản phẩm “giải quyết vấn đề”.
Vấn đề càng nghiêm trọng chừng nào thì càng có thể “hù dọa” nhiều
chừng đó. Tuy nhiên vấn đề chỉ hơi bé bé mà hù dữ quá thì bà con sẽ
phản ứng. Tai nạn đầu tiên có lẽ thuộc về chiến dịch dầu gội trị gàu
Rejoice, với ba mẩu quảng cáo trên báo phô trương ba cái đầu tóc gàu
(phóng đại hóa thành bùn đất), tóc khô (ví như đầu rơm), tóc ngứa (ví
như kiến cắn).
- 18 -
Phạm Công Thành
Trong khi đó, những mẩu quảng cáo rất “phô” của singgum
Double-mint khi mới tung vào Việt Nam (như chú rể bị cô dâu từ chối vì
hôi miệng) lại rất hiệu quả, vì với những kẻ đang yêu, vấn đề hôi miệng
thật sự là một mối hiểm nguy cần phải giải quyết!
- Căn cứ theo mục đích:
Quảng cáo mang tính hướng dẫn: thường thì những loại sản phẩm
mới đưa vào thị trường, đa số người tiêu dùng không biết công dụng, và
cách dùng như thế nào. Do vậy, quảng cáo loại này nhằm mục đích giới
thiệu đến người tiêu dùng cách sử dụng. Như quảng cáo bột giặt ÔMÔ,
hướng dẫn dung cho máy giặt vừa mới đưa vào thị trường Việt Nam trong
thời gian qua là một ví dụ.
Quảng cáo mang tính gợi ý.
Quảng cáo để giành chỗ đứng.
Quảng cáo bao vây rộng: những thị trường đã bão hòa như thị
trường bột giặt đã là đấu trường của cạnh tranh khốc liệt. Ở đó, chỉ đạt
thêm hoặc mất đi 1% đã là một biến cố tác động đến vốn đầu tư. Kiểu
quảng cáo thích hợp, không đi vào tiểu tiết nhưng phải gây ra một ám ảnh
thường trực ở khắp mọi lúc, mọi nơi, mục tiêu trước hết là giành được địa
thế, chiếm được lợi thế hơn các đối thủ. Nếu không, chí ít cũng phải làm
sao len vào được tâm trí khách hàng.
Quảng cáo theo đợt.
- Căn cứ theo chủ thể quảng cáo:
Quảng cáo trong nước.
Quảng cáo nước ngoài.
- Căn cứ theo nhiệm vụ:
Quảng cáo ăng ten: để giới thiệu những cách ứng xử mới hoặc
những phong cách tiêu dùng mới: chất thơm khử mùi hôi trên cơ thể,
nước chấm dùng ngay,..
- 19 -
Phạm Công Thành
Quảng cáo khuếch đại: đó là cách nói phóng đại về hàng hoá, tự
tôn vinh thương hiệu của chính mình.
Quảng cáo hội tụ: đề xuất những “cách sống mới” như: phụ nữ nên
dùng băng vệ sinh.
Quảng cáo lăng kính: nhằm gửi các báo cáo bạch khác nhau về các
chủng loại sản phẩm khác nhau tới các mảng khách hàng khác nhau.
Quảng cáo tiếng vang: mà kiểu mẫu hệt như việc duy trì tác phong
của các bà nội trợ trong thông tin về các loại sản phẩm như kiểu bột giặt.
- Căn cứ theo hình thức:
Quảng cáo bắt chước.
Quảng cáo so sánh.
- Căn cứ theo các loại hình quảng cáo phổ biến.
Quảng cáo thương hiệu: nhằm xây dựng một hình ảnh hay sự nhận
biết về một thương hiệu về lâu dài. Nội dung quảng cáo nầy thường rất
đơn giản vì chỉ nhấn mạnh vào thương hiệu là chính.
Quảng cáo địa phương: chủ yếu thông báo đến khách hàng rằng
sản phẩm đang có mặt tại một điểm bán hàng nào đó nhằm lôi kéo khách
hàng đến cửa hàng. (như quảng cáo khai trương cửa hàng hay quảng cáo
của các siêu thị).
Quảng cáo chính trị: chính trị gia thường làm quảng cáo để thuyết
phục cử tri bỏ phiếu cho mình hoặc ủng hộ chính kiến, ý tưởng của minh.
Các chiến dịnh vận động tranh cử tổng thống Mỹ là một ví dụ điển hình.
Quảng cáo hướng dẫn: đây là hình thức quảng cáo nhằm hướng
dẫn khác hàng làm thế nào để mua một sản phẩm hoặc dịch vụ. (chẳng
hạn như niên giám những trang vàng).
- 20 -
- Xem thêm -