Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Trách nhiệm kỷ luật trong luật lao động Việt Nam Luận văn ThS. Luật...

Tài liệu Trách nhiệm kỷ luật trong luật lao động Việt Nam Luận văn ThS. Luật

.PDF
101
2280
100

Mô tả:

®¹i häc quèc gia hµ néi khoa luËt cao thÞ nhung tr¸ch nhiÖm kû luËt trong luËt lao ®éng viÖt nam Chuyên ngành Mã số : Luật kinh tế : 60 38 50 luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Thị Hoài Thu Hµ néi - 2008 1 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM 7 KỶ LUẬT TRONG LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM 1.1. Trách nhiệm kỷ luật lao động - một biện pháp để đảm bảo và tăng cường kỷ luật lao động 7 1.1.1. Kỷ luật lao động - một chế định của luật lao động 7 1.1.1.1. Khái niệm 7 1.1.1.2. Ý nghĩa của kỷ luật lao động 12 1.1.2. Các biện pháp bảo đảm tăng cường kỷ luật lao động 15 1.2. Trách nhiệm kỷ luật lao động và các yếu tố cấu thành của nó 17 1.2.1. Định nghĩa trách nhiệm kỷ luật lao động 17 1.2.2. Trách nhiệm kỷ luật lao động - những yếu tố cấu thành của nó 21 1.2.2.1. Mặt khách quan của trách nhiệm kỷ luật lao động 21 1.2.2.2. Khách thể của trách nhiệm kỷ luật lao động 22 1.2.2.3. Chủ thể của trách nhiệm kỷ luật lao động 22 1.2.2.4. Mặt chủ quan của trách nhiệm kỷ luật lao động 23 1.3. Trách nhiệm kỷ luật trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam 24 1.3.1. Tổ chức lao động Quốc tế ILO (International Labour Organization) 24 1.3.2. Lược sử hình thành trách nhiệm kỷ luật lao động ở Việt Nam 25 1.3.2.1. Giai đoạn 1945 đến trước 1964 25 1.3.2.2. Giai đoạn từ 1964 đến trước ngày ban hành Bộ luật Lao động (1994) 27 1.3.2.3. Giai đoạn từ 1994 trở lại đây 30 2 Chương 2: TRÁCH NHIỆM KỶ LUẬT THEO QUY ĐỊNH CỦA 32 PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM HIỆN HÀNH VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG 2.1. Các hình thức kỷ luật lao động 32 2.2. Thủ tục thi hành kỷ luật lao động 43 2.2.1. Thời hiệu xử lý kỷ luật lao động 43 2.2.2. Thủ tục thi hành kỷ luật lao động 46 2.2.3. Ra quyết định kỷ luật 50 2.2.4. Thủ tục giảm, xóa kỷ luật lao động 54 2.3. Thực trạng áp dụng trách nhiệm kỷ luật lao động trong các doanh nghiệp Việt Nam 55 2.3.1. Trong doanh nghiệp nhà nước 55 2.3.2. Trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 59 2.3.3. Trong doanh nghiệp vừa và nhỏ 61 Chương 3: 66 PHƢƠNG HƢỚNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA TRÁCH NHIỆM KỶ LUẬT TRONG LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM 3.1. Một số nhận xét về tình hình thực hiện trách nhiệm kỷ luật lao động hiện nay ở Việt Nam 66 3.2. Phương hướng hoàn thiện trách nhiệm kỷ luật lao động 74 3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của trách nhiệm kỷ luật lao động 78 3.3.1. Về các quy định của pháp luật 78 3.2.2. Về quá trình tổ chức, thực hiện 83 KẾT LUẬN 93 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 94 3 më ®Çu 1. Lý do chọn đề tài Kỷ luật lao động là yêu cầu khách quan đối với tất cả các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp... hay rộng hơn là với bất kỳ một xã hội, một nền sản xuất nào. Sản xuất ngày càng phát triển, cùng với nó là trình độ phân công, tổ chức lao động trong xã hội ngày càng cao và vì vậy, kỷ luật lao động ngày càng trở nên quan trọng. Khi bàn về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Phải nâng cao kỷ luật lao động. Tình trạng muốn làm thì làm, không muốn làm thì thôi, nghỉ sớm, không ốm cũng cáo ốm để nghỉ, đều là thiếu kỷ luật lao động. Bộ đội không có kỷ luật, đánh giặc nhất định thua; nhà máy không có kỷ luật lao động, không phải là nhà máy tốt…" 32, tr. 341. Việc tuân thủ kỷ luật lao động có ý nghĩa cả về mặt kinh tế, chính trị và xã hội. Kỷ luật lao động là cơ sở để tổ chức lao động khoa học và có hiệu quả trong từng đơn vị và trên toàn xã hội; thông qua việc duy trì kỷ luật lao động, áp dụng trách nhiệm vật chất, người sử dụng lao động có thể bố trí sắp xếp lao động một cách hợp lý để ổn định sản xuất, ổn định định đời sống người lao động và trật tự xã hội nói chung. Nếu xác định được nội dung hợp lý, kỷ luật lao động còn là một nhân tố quan trọng để tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu. Mặt khác, chế định kỷ luật lao động còn là căn cứ cụ thể để người lao động tự rèn luyện để trở thành người có tác phong công nghiệp, có ý thức tự giác, là cơ sở để người lao động đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực, trì trệ trong sản xuất. Kỷ luật lao động cũng là thước đo, là tiêu chuẩn để người lao động phấn đấu nâng cao trình độ, ổn định công việc và thu nhập của mình, thông qua đó mà trình độ lao động, năng suất lao động và đời sống xã hội được nâng cao 51, tr. 211. 4 Chuyển sang nền kinh tế thị trường, các thể chế lao động ở nước tatrong đó có vấn đề kỷ luật lao động đã được đổi mới phù hợp với sự phát triển của thị trường lao động và các hình thức quan hệ lao động mới. Thực tế cho thấy, các quy định của Bộ luật Lao động đã có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của người lao động và người sử dụng lao động trong lĩnh vực kỷ luật lao động. Luật lao động đã dành hẳn một chương riêng đề cập tới vấn đề này, qua đó cũng cho thấy tầm quan trọng của trách nhiệm kỷ luật. Kế từ khi ban hành Bộ luật Lao động (1994), sau gần 15 năm thực hiện những quy định về kỷ luật lao động cho thấy: những quy định của pháp luật đã bước đầu đáp ứng được yêu cầu thực tiễn, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp được linh hoạt áp dụng thông qua việc xây dựng nội quy lao động tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Từ đó, tạo ra một trật tự bền vững, góp phần nâng cao kỷ cương và năng suất lao động trong các doanh nghiệp. Mặt khác, cũng đã góp phần bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người lao động. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng trách nhiệm kỷ luật lao động theo luật lao động vẫn có nhiều vấn đề đáng bàn đến. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường chưa đạt đến sự đồng bộ hóa các thể chế kinh tế thị trường, quan hệ cung - cầu sức lao động còn ở tình trạng bất lợi cho người lao động, hiểu biết luật lao động của người sử dụng lao động và người lao động còn chưa đầy đủ, thì tình trạng người lao động bị ép miễn cưỡng chấp nhận thua thiệt trong quan hệ lao động... diễn ra không phải là ít. Ở khía cạnh khác, đối với một số bộ phận người lao động do thu nhập và mức sống thấp nên đã chấp nhận các quy định của doanh nghiệp, tổ chức về thỏa ước lao động tập thể, nội quy lao động không có lợi cho mình, điều đó cũng góp phần làm ảnh hưởng đến quyền là lợi ích của người lao động. Ngoài ra, các vi phạm về cơ chế áp dụng các quy định của Bộ luật Lao động về trách nhiệm kỷ luật lao động và vai trò của các cơ quan, tổ chức 5 trong giám sát, xử lý vi phạm kỷ luật lao động (Thanh tra lao động, Công đoàn, Tòa án lao động...) cũng còn có bất cập, ảnh hướng nhất định đến điều chỉnh các quan hệ lao động trong chế độ trách nhiệm kỷ luật lao động. Vấn đề áp dụng các hình thức kỷ luật không đúng như: kỷ luật sa thải một cách tùy tiện, kỷ luật sa thải người lao động không đúng thủ tục, kỷ luật sa thải người lao động tham gia đình công... còn khá phổ biến. Nền kinh tế nước ta hiện nay đang từng bước hội nhập sâu rộng sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), chế độ kỷ luật lao động ngày càng khẳng định vị trí, vài trò của mình. Trong điều kiện hiện nay, tốc độ gia tăng của các đơn vị sử dụng lao động và quy mô sử dụng lao động ngày càng lớn đòi hỏi phải có những quy định pháp luật phù hợp nhằm điều chỉnh quan hệ lao động nói chung và chế độ trách nhiệm kỷ luật nói riêng. Từ thực trạng trên cho thấy, nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp luật về trách nhiệm kỷ luật lao động nhằm tìm ra sự hợp lý và những tồn tại trong quá trình áp dụng kỷ luật lao động tại các doanh nghiệp, góp phần cải thiện pháp luật về kỷ luật lao động là vấn đề thực sự cần thiết và cấp bách. Là cán bộ công tác trong lĩnh vực tổ chức lao động của một doanh nghiệp nhà nước, nhận thấy đây là đề tài phù hợp với thực tế công việc của bản thân, tác giả đã chọn đề tài "Trách nhiệm kỷ luật trong luật lao động Việt Nam" làm luận văn tốt nghiệp cao học Luật của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan tới đề tài Trong những năm gần đây đã có nhiều nghiên cứu khoa học về các khía cạnh xung quanh vấn đề kỷ luật lao động. Có một số ít các bài về kỷ luật lao động như: "Một số vấn đề về kỷ luật lao động trong Bộ luật Lao động" của Thạc sĩ Nguyễn Hữu Chí, 1998; "Thời hiệu xử lý vi phạm kỷ luật lao động" của Thạc sĩ Nguyễn Việt Cường, 2003. Tại Khoa Luật - Đại học Quốc 6 gia Hà Nội cũng có một số luận văn thạc sĩ viết về kỷ luật lao động như " Một số vấn đề pháp lý cơ bản về kỷ luật lao động theo pháp luật Việt Nam" của Nguyễn Huy Khoa, 2005; "Chế độ kỷ luật lao động và trách nhiệm vật chất theo pháp luật lao động Việt Nam - cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng tại một số doanh nghiệp" của Nguyễn Việt Hoài, 2005; Luận án tiến sĩ Luật học: "Pháp luật về kỷ luật lao động ở Việt Nam - thực trạng và phương hướng hoàn thiện" của Trần Thị Thúy Lâm, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2007… Nội dung các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến một số vấn đề liên quan đến đề tài luận văn, nhưng dường như cho đến nay, vẫn chưa có công trình chuyên biệt nào đề cập một cách cụ thể và đi sâu vào vấn đề "Trách nhiệm kỷ luật trong pháp luật lao động Việt Nam" - trong đó có nêu và phân tích việc áp dụng trách nhiệm kỷ luật lao động tại các loại hình doanh nghiệp. 3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu Mục đích của việc nghiên cứu đề tài: Góp phần đánh giá một cách có hệ thống và tương đối toàn diện các quy định của pháp luật về trách nhiệm kỷ luật lao động trong luật lao động Việt Nam, từ đó rút ra những nhận xét và những ưu điểm và những mặt còn tồn tại trong việc thực hiện trách nhiệm kỷ luật lao động - thông qua việc phân tích thực tiễn tại một số loại hình doanh nghiệp và thực tiễn pháp luật của một số nước trên thế giới, từ đó đề xuất các giải pháp khả thi góp phần vào việc nâng cao hiệu quả của trách nhiệm kỷ luật lao động. Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Trách nhiệm kỷ luật là một chế định tương đối rộng, trong đó quy định về nhiều vấn đề khác nhau. Với khả năng cũng như thời gian có hạn, do không thể tìm hiểu và giải quyết tất cả các vấn đề liên quan đến vấn đề này nên luận văn chỉ tập trung chủ yếu vào các quy định của Hiến pháp và pháp luật lao động Việt Nam hiện hành về vấn đề kỷ luật lao động. Qua đó phân tích, đánh giá những ưu, nhược điểm của các quy định đó; đối chiếu với thực tiễn áp dụng ở doanh nghiệp và đưa ra một số giải pháp về pháp luật cũng như quy trình tổ chức thực hiện để giải quyết những tồn tại này. 7 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: - Làm rõ cơ sở lý luận về trách nhiệm kỷ luật; quy định về trách nhiệm kỷ luật trong luật lao động Việt Nam qua các thời kỳ và một số quy định quốc tế, pháp luật của các nước về việc trách nhiệm kỷ luật. - Nghiên cứu một cách hệ thống các quy định về trách nhiệm kỷ luật trong pháp luật lao động Việt Nam và thực tiễn áp dụng các quy định này trong các doanh nghiệp ở Việt Nam, từ đó đưa ra những đánh giá, nhận xét. - Thông qua việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất một số phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả pháp luật về trách nhiệm kỷ luật lao động. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả sử dụng phép biện chứng duy vật của triết học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm phương pháp luận cho việc nghiên cứu. Ngoài ra, luận văn còn vận dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể, phù hợp với từng mặt, từng lĩnh vực của đề tài, như: phương pháp tổng hợp, so sánh luật, phương pháp phân tích lịch sử, thống kê, điều tra xã hội học … Các nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề trách nhiệm kỷ luật lao động, các quy định của Hiến pháp trong lĩnh vực lao động, các quy phạm pháp luật lao động… được sử dụng với tư cách là cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý cho quá trình nghiên cứu. 6. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo hữu ích phục vụ cho công tác giảng dạy, học tập khi nghiên cứu những vấn đề về trách nhiệm lao động. Đồng thời, nó cũng có giá trị nhất định đối với các nhà 8 hoạch định chính sách, các cơ quan, tổ chức trong việc nghiên cứu tiếp tục hoàn thiện những quy định về trách nhiệm kỷ luật trong luật lao động Việt Nam. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về trách nhiệm kỷ luật trong luật lao động Việt Nam. Chương 2: Trách nhiệm kỷ luật lao động theo quy định của pháp luật lao động Việt Nam hiện hành và thực trạng áp dụng. Chương 3: Phương hướng và một số kiến nghị nhằm năng cao hiệu quả của trách nhiệm kỷ luật trong luật lao động Việt Nam. 9 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM KỶ LUẬT TRONG LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM 1.1. TRÁCH NHIỆM KỶ LUẬT LAO ĐỘNG - MỘT BIỆN PHÁP ĐỂ ĐẢM BẢO VÀ TĂNG CƢỜNG KỶ LUẬT LAO ĐỘNG 1.1.1. Kỷ luật lao động - một chế định của luật lao động 1.1.1.1. Khái niệm Theo Từ điển tiếng Việt thì "kỷ luật" là tổng thể nói chung những điều quy định có tính chất bắt buộc đối với hoạt động của các thành viên trong một tổ chức, để đảm bảo tính chặt chẽ của tổ chức đó 33. Với khái niệm trên, kỷ luật được coi là nền tảng để xây dựng mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất cũng như trong các hoạt động xã hội. Trong xã hội, con người muốn tồn tại và phát triển, ngoài việc tuân theo các quy luật của thiên nhiên, còn phải tuân theo những chuẩn mực, những quy tắc của xã hội đặt ra. Trong cuộc sống, nếu chỉ tồn tại một cá nhân đơn lẻ thì pháp luật không cần phải điều chỉnh vì chưa xuất hiện quan hệ qua lại, tác động lẫn nhau vì hoạt động của người đó không liên quan đến người khác và ngược lại. Tuy nhiên, do đặc điểm của lịch sử, con người xuất hiện cùng với xã hội loài người, cho nên trong quá trình lao động, mặc dù mỗi cá nhân thực hiện các nhiệm vụ có tính đơn lẻ, độc lập với nhau, song kết quả cuối cùng lại phụ thuộc vào sự phối hợp, tính đồng bộ, thống nhất của cả cộng đồng, nhất là trong điều kiện chuyên môn hóa, hiệp tác hóa và xã hội hóa ngày càng cao của quan hệ lao động. Chính quá trình lao động chung của con người đòi hỏi phải có trật tự, nề nếp để hướng các hoạt động của từng người vào việc thực hiện kế hoạch chung và tạo ra những kết quả chung đã định. Cái tạo ra trật tự, nề nếp trong 10 quá trình lao động chung giữa một nhóm người hay trong một đơn vị đó là kỷ luật lao động. Vì vậy, kỷ luật chính là phương tiện để đưa các hoạt động chung của con người với nhau vào quỹ đạo nhằm đạt được những mục đích nhất định. Khi xã hội phát triển, lao động không còn mang tính chất thủ công nữa, người ta nhận thấy cần phải hiệp tác, liên kết với nhau để nâng cao hiệu quả sản xuất. Bởi vậy, những người nắm trong tay tư liệu sản xuất đã tiến hành lập các nhà máy, công xưởng, cảng… mang tính chuyên môn hóa cao và sự tham gia của người lao động không còn ở phạm vi một vài người hay nhóm người nữa mà hàng trăm, hàng ngàn người. Vì vậy, kỷ luật lao động rất cần thiết, sản xuất ngày càng phát triển, cùng với nó là trình độ phân công, tổ chức lao động trong xã hội ngày càng cao và vì vậy, kỷ luật lao động ngày càng trở nên quan trọng.Với ý nghĩa này, kỷ luật lao động là yêu cầu khách quan đối với tất cả các cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức… hay rộng hơn là với bất kỳ một xã hội, một nền sản xuất nào. Tính chất của kỷ luật lao động do quan hệ sản xuất thống trị trong xã hội mà trước hết là quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất quyết định. Kỷ luật lao động luôn luôn tồn tại trong mọi chế độ xã hội, luôn mang tính chất xã hội. Nó luôn được quy định cho phù hợp với tính chất của mối quan hệ lao động. Mỗi khi phương thức sản xuất xã hội thay đổi thì bản chất và hình thức kỷ luật lao động cũng thay đổi. Dưới chế độ cộng sản nguyên thủy, kỷ luật lao động chủ yếu dựa trên nền tảng đạo đức, ý thức tự giác là chủ yếu, kỷ luật mang tính nội bộ, chưa có sự can thiệp của bất kỳ thế lực công quyền nào. Trong xã hội phong kiến, địa chủ chiếm hầu hết đất đai, người dân không có đất phải làm công cho địa chủ và họ bị bóc lột thậm tệ, kỷ luật lao động chính là roi vọt, cưỡng bức một cách tàn bạo. Trong chế độ tư bản, do được xây dựng trên quan hệ chiếm hữu tư nhân tư liệu sản xuất, cho nên về bản chất, đây vẫn là một xã hội bóc lột, cho 11 dù hình thức bóc lột tinh vi hơn rất nhiều - đó là hình thức bóc lột giá trị thặng dư. Chính vì thế, tổ chức lao động dựa vào kỷ luật cưỡng bức kinh tế đối với công nhân làm thuê. Khi nói về kỷ luật lao động trong xã hội tư bản, V.I. Lênin đã từng chỉ ra rằng, đó là "…thứ kỷ luật gọi là kỷ luật tự do thuê mướn, thứ kỷ luật thực tế là kỷ luật của chế độ nô lệ tư bản chủ nghĩa" 28, tr. 151. Như vậy, trong các hình thái kinh tế - xã hội có đối kháng giai cấp, thì kỷ luật lao động thực chất là chỉ nhằm cưỡng chế người lao động đem hết sức lao động của mình để tạo ra những lợi ích vật chất cho giai cấp thống trị. Vì thế, kỷ luật lao động luôn có tính cưỡng bức, đối lập với quyền lợi của người lao động và được dùng làm một biện pháp để tăng cường bóc lột sức lao động để tạo ra những lợi ích cho giai cấp thống trị. Cùng với sự ra đời của phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa là sự ra đời và phát triển của kỷ luật lao động mới- kỷ luật lao động xã hội chủ nghĩa, biểu hiện của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và quan hệ lao động hợp tác của những người lao động. Quan hệ sản xuất này đã tạo ra và khuyến khích mối quan hệ tự nguyện, tự giác đối với người lao động và coi lao động là nghĩa vụ và trách nhiệm đối với xã hội. Trong xã hội, xã hội chủ nghĩa mọi người có sức lao động đều có nghĩa vụ lao động và được nhận một số thù lao căn cứ vào số lượng lao động và chất lượng lao động đã cống hiến cho xã hội. Chính vì vậy, kỷ luật lao động trong xã hội xã hội chủ nghĩa là kỷ luật tự nguyện, tự giác. Tuy vậy, không thể nhìn một chiều trong quan hệ giai cấp mà không nhìn thấy sự tiến bộ, sự thay đổi theo hướng tính cực của bản chất kỷ luật trong xã hội tư bản chủ nghĩa hiện đại. Mặc dù vẫn còn tư hữu, chủ nghĩa tư bản vẫn có lợi thế trong việc ký kết các hợp đồng lao động nhưng nội dung các hợp đồng đó không bị chi phối bởi ý chí người ký kết mà còn chịu tác động của luật pháp. Mặc khác, khi quyền con người ngày càng được bảo đảm và có xu hướng được mở rộng thì địa vị pháp lý của người lao động cũng 12 từng bước được nâng lên làm thay đổi dần mối quan hệ chủ - thợ theo hướng tích cực. Như vậy, dưới độ chung nhất, kỷ luật được hiểu là những quy định, quy tắc, những trật tự mà con người phải tuân thủ khi tham gia vào hoạt động trong một tổ chức, một tập đoàn hay trong quan hệ với cộng đồng. Trong khoa học luật lao động, kỷ luật lao động được xem xét dưới hai khía cạnh chủ yếu là: như một yếu tố của quan hệ pháp luật lao động hoặc như một chế định của luật lao động. Với tư cách là một yếu tố của quan hệ pháp luật lao động, kỷ luật lao động là sự biểu hiện quyền và nghĩa vụ của hai bên chủ thể. Trong đó, người lao động có nghĩa vụ phải tuân thủ nội quy lao động, thời giờ làm việc, điều kiện lao động… do pháp luật quy định, hoặc đơn vị yêu cầu. Người sử dụng lao động với tư cách là chủ sở hữu, là người quản lý có quyền thiết lập và duy trì kỷ luật lao động. Trong trường hợp người lao động không chấp hành hoặc chấp hành không đầy đủ nghĩa vụ được giao, họ sẽ phải chịu hình thức xử lý kỷ luật tương ứng. Pháp luật cho phép người sử dụng lao động có quyền xử lý kỷ luật đối với người lao động trong những trường hợp này. Với tư cách là một chế định của luật lao động, kỷ luật lao động là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định nghĩa vụ, trách nhiệm của các bên trong quan hệ lao động cũng như các hình thức xử lý đối với những người không chấp hành hoặc chấp hành không đầy đủ những quy định đó. Trong một doanh nghiệp, "kỷ luật lao động là những quy định về việc tuân theo thời gian, công nghệ và điều hành sản xuất, kinh doanh thể hiện trong nội quy lao động" (Điều 82 Bộ luật Lao động sửa đổi, bổ sung). Để đảm bảo trật tự lao động sản xuất, tránh sự tùy tiện của người sử dụng lao động trong việc đề ra kỷ luật lao động, pháp luật quy định các nội dung trên được quy định trong nội quy lao động. Nói một cách cụ thể hơn, nội quy lao động 13 phải hướng vào duy trì trật tự, nề nếp trong lao động của doanh nghiệp, bao gồm các vấn đề cơ bản sau: - Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi; - Trật tự trong doanh nghiệp; - An toàn lao động và vệ sinh lao động nơi làm việc; - Bảo vệ tài sản và bí mật công nghệ, kinh doanh của đơn vị; - Các hành vi vi phạm kỷ luật, các hình thức xử lý kỷ luật lao động và trách nhiệm vật chất (Điều 83 Bộ luật Lao động sửa đổi, bổ sung). Ngoài ra, theo khoản 2 Điều 49 của Bộ luật Lao động sửa đổi, bổ sung có nêu: "… mọi quy định về lao động trong doanh nghiệp phải được sửa đổi cho phù hợp với thỏa ước tập thể", như vậy về mặt pháp lý thì nội quy lao động không được trái với thỏa ước lao động tập thể. Nội quy lao động phải được thông báo đến từng người và những điểm chính phải được niêm yết ở những nơi cần thiết trong doanh nghiệp. Một trong những nội dung quan trọng của nội quy lao động là xác định hành vi vi phạm kỷ luật và các hình thức xử lý tương ứng. Bộ luật Lao động đã có quy định tại Điều 84 và Điều 85 các hình thức xử lý kỷ luật lao động và những trường hợp phạm lỗi nặng của người lao động nhưng doanh nghiệp được quyền cụ thể hóa cho phù hợp với đặc điểm của đơn vị mà không trái với quy định của pháp luật. Do đó, tuân thủ kỷ luật lao động có ý nghĩa cả về mặt kinh tế, chính trị và xã hội. Kỷ luật lao động là cơ sở để tổ chức lao động khoa học và có hiệu quả trong từng đơn vị cũng như trên toàn xã hội. Việc duy trì kỷ luật lao động sẽ giúp cho người sử dụng lao động có thể bố trí, sắp xếp lao động một cách hợp lý nhằm ổn định đời sống người lao động cũng như trật tự, nề nếp trong doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động. Hơn nữa, kỷ luật lao động còn là nhân tố quan trọng để tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả công việc. Ngoài ra, kỷ luật lao động còn là căn cứ cụ thể để người lao động tự rèn 14 luyện, phấn đấu để trở thành người lao động trong xã hội hiện đại, có tác phong công nghiệp, là cơ sở để họ đấu tranh với những tiêu cực trong lao động sản xuất. Khi bàn về vấn đề này, V.I. Lênin đã nói: Chúng ta phải củng cố cái mà bản thân chúng ta đã giành được, cái mà chúng ta đã ban bố trong các sắc lệnh đã hợp pháp, đã quy định, đã chủ trương, chúng ta phải củng cố tất cả những cái đó dưới những hình thức vững bền của kỷ luật lao động hàng ngày. Đó là nhiệm vụ gay go nhất nhưng đem lại nhiều kết quả nhất, vì chỉ có hoàn thành nhiệm vụ đó, chúng ta mới thiết lập được chế độ xã hội chủ nghĩa 27, tr. 78. Như vậy, có thể thấy rằng, dù xem xét dưới góc độ xã hội (vấn đề con người), góc độ kinh tế (năng suất, chất lượng, hiệu quả) hay dưới góc độ kỹ thuật (sự đa dạng hóa của hệ thống các ngành nghề) đều đòi hỏi phải thiết lập kỷ luật trong quá trình lao động. Vấn đề này cũng được xem như là một nội dung thuộc quyền quản lý lao động của người sử dụng lao động trong các đơn vị sử dụng lao động. 1.1.1.2. Ý nghĩa của kỷ luật lao động Đại hội X của Đảng nhấn mạnh: "Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế...", "...đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương...". Đảng ta đã cũng khẳng định chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 - 2010 là chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Kỷ luật lao động là một trong những vẫn đề gắn liền với tiến trình công nghiệp hóa đất nước. Do đó, tác phong công nghiệp là yêu cầu tất yếu đối với người lao động trong xã hội công nghệ hiện đại. Nó đồng thời còn được xem như là một trong những nhân tố quan trọng góp phần đem lại thắng lợi công cuộc xây dựng đất nước. Việt Nam là một trong những nước đi 15 lên từ nông nghiệp, ảnh hưởng nhiều năm của cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp, với hàng loạt chính sách kinh tế xã hội tương ứng đã tạo ra một đội ngũ lao động chưa năng động, phần đông có tâm lý ỷ lại và chờ đợi nâng lương theo thời gian. Thêm vào đó, đại đa số lao động nước ta xuất thân từ nông dân, mang theo đầy đủ nhưng dấu vết xã hội của nền sản xuất nhỏ tự cung, tự cấp lạc hậu, phân tán; có tác phong gia trưởng độc đoán, làm ăn tùy tiện, không tôn trọng các quy trình, quy tắc, quy phạm kỹ thuật; thiếu kế hoạch, quy hoạch. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến tác phong làm việc của người lao động cũng như nội dung các quy định của pháp luật kỷ luật lao động. Bởi vậy, việc thực hiện, tuân thủ kỷ luật lao động có ý nghĩa cả về mặt kinh tế, chính trị - xã hội và pháp lý. Về phương diện kinh tế, kỷ luật lao động là cơ sở để tổ chức lao động trong từng đơn vị, cũng như trong toàn xã hội. Thông qua kỷ luật lao động, người sử dụng lao động có thể sắp xếp, bố trí lao động một cách hợp lý để ổn định sản xuất kinh doanh, ổn định doanh nghiệp. Nếu xác định được nội dung hợp lý, kỷ luật còn là yếu tố quan trọng nhằm tăng năng suất, chất lượng, tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu… Ở Việt Nam, trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường, vấn đề kỷ luật lao động càng trở nên quan trọng. Trật tự, nề nếp của một doanh nghiệp và ý thức tuân thủ kỷ luật của người lao động là những yếu tố cơ bản để duy trì quan hệ lao động ổn định, hài hòa. Đó cũng là điều kiện để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, xuất khẩu lao động và chuyên gia, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động và thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đối với nước ta, một nước đang đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, việc thiết lập củng cố kỷ luật theo hướng công nghiệp, hiện đại là một vấn đề có tính bức xúc. Những thói quen, tập quán của một nền sản xuất nhỏ, tiểu nông vẫn còn tồn tại và là một vấn đề đè nặng lên nền sản xuất của chúng ta hiện nay, gây nhiều thiệt hại vô hình và hữu hình. 16 Chính việc chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về kỷ luật lao động sẽ tạo và rèn luyện cho người lao động có được tác phong làm việc công nghiệp. Việc nâng cao hiệu quả sử dụng kỹ thuật mạnh lệ thuộc trực tiếp vào trình độ kỷ luật lao động trong các tập thể sản xuất. Phân tích mối liên hệ giữa kỷ luật lao động, tập thể sản xuất và tiến bộ khoa học kỹ thuật cho phép xác định quy luật phổ biến là: trình độ kỷ luật lao động trong tập thể càng cao thì quá trình sản xuất càng ổn định, tính liên tục của nó càng bền vững, tốc độ quay vòng quỹ sản xuất ngày càng nhanh, mức độ sinh lợi của vốn ngày càng cao 55, tr. 10. Các quy định về thời gian làm việc, các quy tắc và trật tự trong quá trình làm việc sẽ dần buộc người lao động phải tuân thủ đúng kỷ luật lao động, tạo cho họ thói quen chấp hành kỷ luật. Trên cơ sở đó, người lao động sẽ hoàn thành tốt các nghĩa vụ được giao. Về phương diện pháp lý, kỷ luật lao động là căn cứ pháp lý để người sử dụng lao động thực hiện quyền của mình trong việc tổ chức, điều hành lao động theo nhu cầu sản xuất kinh doanh, trong việc khen thưởng những người chấp hành tốt và xử lý đối với những người vi phạm. Người sử dụng lao động có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh nên đương nhiên cũng có quyền tự chủ trong lĩnh vực tổ chức và quản lý lao động. Khi sử dụng lao động, người sử dụng lao động có quyền thiết lập kỷ luật lao động theo nhu cầu quản lý của mình. Bởi vậy, việc quy định cụ thể các hình thức kỷ luật áp dụng đối với từng hành vi vi phạm cụ thể nhằm tránh việc lạm quyền của người sử dụng lao động, tránh sự thiên vị, không công bằng trong việc xử lý vi phạm kỷ luật lao động. Đồng thời, kỷ luật lao động là cơ sở pháp lý để người lao động đánh giá và từ đó có những nhận thức đúng đắn trong quá trình lao động. Về phương diện chính trị - xã hội, ý nghĩa của kỷ luật lao động được ghi nhận ở ý thức, trách nhiệm, thói quen của con người đối với công việc. Trong nền sản xuất nhỏ, người thợ thủ công làm việc có thể rất tự do, tùy tiện. 17 Thời gian làm việc của họ có thể tùy theo từng ngày, sản phẩm được làm theo kinh nghiệm của cá nhân không thật cần thiết phải tuân thủ theo một tiêu chuẩn cố định nào. Nhưng trong nền sản xuất hiện đại, người lao động phải đi làm đúng giờ, sự chậm trễ của người lao động sẽ ảnh hưởng và gây trở ngại đến hoạt động lao động của toàn bộ dây chuyền sản xuất, ảnh hưởng đến những người lao động khác. Hơn nữa, để đảm bảo chất lượng của sản phẩm theo đúng tiêu chuẩn, trong quá trình làm việc, người lao động phải tuân theo các quy trình kỹ thuật, một trình tự nhất định. Nếu người lao động không tuân thủ sẽ gây rối loạn trong quá trình lao động, dễ dẫn đến hư hỏng máy móc thiết bị, sản phẩm, năng suất lao động không cao. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, việc tuân thủ tốt kỷ luật lao động còn là một trong các yếu tố thu hút đầu tư trong nước cũng như nước ngoài, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động. Khi nội dung kỷ luật lao động được xây dựng đáp ứng các tiêu chuẩn nghề nghiệp, tiêu chuẩn pháp lý, tiêu chuẩn đạo đức là cơ sở giúp cho người lao động có cơ sở để đánh giá hành vi lao động của mình cũng như những người xung quanh, thông qua đó có thái độ đồng tình hay phản ứng và từ đó lựa chọn được hành vi xử sự cho phù hợp khi tham gia quan hệ lao động. Hơn nữa, khi kỷ luật lao động được đảm bảo và tuân thủ, thì quan hệ quan hệ lao động sẽ ổn định và phát triển, hạn chế tranh chấp lao động và đình công, ở một chừng mực nào đó chính là góp phần làm bình ổn xã hội. 1.1.2. Các biện pháp bảo đảm tăng cƣờng kỷ luật lao động - Biện pháp giáo dục, thuyết phục Giáo dục thuyết phục là biện pháp làm cho người lao động hiểu rõ mục đích, tác dụng của kỷ luật lao động, từ đó nâng cao ý thức tôn trọng và tự giác chấp hành. Đây là biện pháp quan trọng và bao trùm nhất. Trong điều kiện hiện nay biện pháp này càng có điều kiện để thực hiện vì quan hệ lao động được hình thành trên cơ sở hợp đồng, có sự thương lượng thỏa 18 thuận giữa các bên. Người lao động tự nguyện tham gia quan hệ, tự thỏa thuận các điều khoản trong hợp đồng nên cũng sẽ tự nguyện chấp hành kỷ luật lao động. - Biện pháp tác động xã hội Tác động về mặt xã hội chính là việc tạo ra hướng dư luận xã hội vào việc phê phán lên án những hành vi vi phạm kỷ luật lao động. Có nghĩa là thông qua dư luận của người lao động, đoàn thể xã hội mà phê phán những người có hành vi vi phạm, đồng thời biểu dương những người có thành tích tốt. Trong văn bản pháp luật trước kia, biện pháp này rất được coi trọng và được quy định tại Thông tư 13/LB-TT ngày 30.8.1966: "Công nhân viên chức phạm sai lầm khuyết điểm thì xí nghiệp cơ quan tiến hành kiểm thảo để nhận rõ mức độ thiếu sót. Kiểm thảo làm ngoài giờ làm việc. Sau khi đã kiểm thảo xong, nếu xét thấy cần phải thi hành kỷ luật thì đưa ra hội đồng kỷ luật". Ngày nay, biện pháp này không được doanh nghiệp sử dụng nhiều nhưng trên thực tế vai trò của nó vẫn rất quan trọng, có trường hợp biện pháp này đóng vai trò quyết định. Xã hội ngày nay rất phát triển, sự giác ngộ về chính trị, xã hội và pháp luật của quần chúng chúng lao động ngày càng được nâng cao; những hành vi vi phạm kỷ luật lao động sẽ bị lên án kịp thời và có hiệu lực. Tùy theo từng trường hợp cụ thể, sự lên án của dư luận xã hội sẽ ở một phân xưởng, một doanh nghiệp hay thậm chí có thể lan rộng ra ngoài xã hội. Trong vấn đề này, vai trò của các tổ chức quần chúng: công đoàn, thanh niên, phụ nữ, đặc biệt là tổ chức công đoàn có một vị trí rất quan trọng. - Biện pháp khuyến khích khen thưởng Biện pháp này do tác động trực tiếp đến quyền lợi vật chất, lợi ích kinh tế của người lao động nên đã có tác dụng rất lớn đến người lao động trong việc chấp hành kỷ luật lao động. Việc khuyến khích khen thưởng cả về mặt tinh thần lẫn lợi ích vật chất đối với những người chấp hành tốt kỷ luật sẽ làm cho người lao động thấy được những lợi ích thiết thực của việc chấp hành 19 kỷ luật. Đồng thời nó còn là động lực, mục tiêu để người lao động phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ lao động nói chung, tuân thủ kỷ luật nói riêng. - Biện pháp xử lý vật chất Biện pháp này thực hiện để nhắc nhở, trừng phạt hoặc loại ra khỏi tập thể lao động những người vi phạm kỷ luật lao động tùy theo mức độ vi phạm của họ. Bởi xét cho cùng thì kỷ luật lao động là giáo dục người lao động có được một thái độ lao động tự giác, tận tâm, không phải nhằm mục đích trừng phạt, nhưng đối với những người cố tình vi phạm kỷ luật thì phải xử lý nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục và thông qua đó mới đảm bảo kỷ luật lao động và trật tự xã hội. Tóm lại, những biện pháp trên dù trực tiếp hay gián tiếp cũng đều nhằm mục đích nâng cao ý thức chấp hành kỷ luật của người lao động, bảo đảm và tăng cường kỷ luật lao động trong đơn vị. Pháp luật đã quy định những biện pháp mang tính pháp lý như áp dụng trách nhiệm kỷ luật đối với người lao động có hành vi vi phạm kỷ luật. Tuy nhiên, sẽ nhân văn hơn nếu doanh nghiệp biết kết hợp hài hòa các biện pháp với nhau để người lao động thấy nhận thức rõ và tự nguyện chấp hành kỷ luật lao động và đó cũng chính là tiền đề để ổn định và phát triển doanh nghiệp. 1.2. TRÁCH NHIỆM KỶ LUẬT LAO ĐỘNG VÀ CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH CỦA NÓ 1.2.1. Định nghĩa trách nhiệm kỷ luật lao động Trách nhiệm kỷ luật là một loại trách nhiệm pháp lý do người sử dụng lao động áp dụng đối với những người lao động có hành vi vi phạm kỷ luật lao động bằng cách buộc họ phải chịu một trong các hình thức kỷ luật đã được pháp luật quy định. Để truy cứu trách nhiệm kỷ luật, người ta thường căn cứ vào các yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật như mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và khách thể vi phạm pháp luật. Ngoài tác dụng trừng phạt, việc 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan