Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo từ thực tiễn quận đống đa, thành phố h...

Tài liệu Trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo từ thực tiễn quận đống đa, thành phố hà nội

.PDF
92
1109
132

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN QUỐC TUẤN TRÁCH NHIỆM CHÍNH TRỊ CỦA CÁN BỘ LÃNH ĐẠO TỪ THỰC TIỄN QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC HÀ NỘI , 2016 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN QUỐC TUẤN TRÁCH NHIỆM CHÍNH TRỊ CỦA CÁN BỘ LÃNH ĐẠO TỪ THỰC TIỄN QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành : Chính trị học Mã số : 60 31 02 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. Trần Đình Hảo HÀ NỘI , 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn Thạc sỹ Chính trị học “Trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo từ thực tiễn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội” là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này./. Hà Nội, ngày 30 tháng 7 năm 2016 Tác giả luận văn Nguyễn Quốc Tuấn MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 Chương 1. LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM CHÍNH TRỊ CỦA CÁN BỘ LÃNH ĐẠO .................................................................................................................. 7 1.1. Cán bộ lãnh đạo và trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo ..................... 7 1.2. Trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo trong một số lĩnh vực .............. 17 1.3. Mối quan hệ của trách nhiệm chính trị với các phạm trù trách nhiệm khác....... 23 Chương 2. THỰC TRẠNG TRÁCH NHIỆM CHÍNH TRỊ CỦA CÁN BỘ LÃNH ĐẠO Ở QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ........................ 29 2.1. Khái quát về quận Đống Đa, thành phố Hà Nội ......................................... 29 2.2. Trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo ở quận Đống Đa, thành phố Hà Nội ................................................................................................................... 34 Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO TRÁCH NHIỆM CHÍNH TRỊ CỦA CÁN BỘ LÃNH ĐẠO Ở QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ................................................................................................................... 56 3.1. Một số quan điểm và phương hướng nhằm nâng cao trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo ở quận Đống Đa, thành phố Hà Nội ............................... 56 3.2. Một số giải pháp ........................................................................................ 61 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 78 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Ủy ban nhân dân : UBND Hội đồng nhân dân : HĐND Cơ quan hành chính nhà nước : CQHCNN Cơ quan nhà nước : CQNN Cơ quan chuyên môn : CQCM Mặt trận tổ quốc : MTTQ MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong thời gian qua, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nước ta đã có những đóng góp quan trọng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) đã chỉ rõ: "Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đã có bước trưởng thành và tiến bộ về nhiều mặt. Đa số cán bộ, đảng viên có ý thức rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, có ý thức phục vụ nhân dân, được nhân dân tin tưởng”. Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng cũng chỉ rõ những thành tựu 30 năm đổi mới là thành quả của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó có sự đóng góp to lớn của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo được tôi luyện, trưởng thành qua thử thách, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần độc lập tự chủ, trung thành với lý tưởng cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn, có ý chí, nghị lực để vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, chịu trách nhiệm với những quyết định của mình trước Đảng và nhân dân, là nhân tố quan trọng quyết định đến sự phát triển của đất nước. Trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo luôn được đề cao trong việc thực hiện những nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao phó. Trong nhà nước pháp quyền, nếu vi phạm công vụ làm ảnh hưởng đến cá nhân, tổ chức thì phải chịu trách nhiệm tương xứng với tính chất và mức độ hành vi vi phạm, đặc biệt là trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo cơ quan, đơn vị. Đảng và Nhà nước ta đang nỗ lực xây dựng nhà nước pháp quyền, việc đề cao trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo các cơ quan nhà nước là một việc làm cần quan tâm hơn nữa trong việc cải cách hành chính nhà nước và thực hiện tốt việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ được giao. Hiện nay, nhà nước ta đang thực hiện cải cách hành chính và hướng đến xây dựng nhà nước pháp quyền, vì vậy đặt ra yêu cầu đối với mỗi cán bộ công chức trong việc thực thi nhiệm vụ ngày càng cao, đặc biệt là phải chịu trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ được giao nhất là đối với người cán bộ lãnh đạo. Người cán bộ lãnh đạo phải làm gương, đi đầu, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm, từ đó làm nền tảng cho công cuộc cải cách một cách có hiệu lực và hiệu quả. 1 Thể chế hóa quan điểm của Đảng, Quốc hội đã ban hành Hiến pháp năm 2013; Luật tổ chức Chính phủ ngày 19/6/2015; Luật tổ chức chính quyền địa phương 19/6/2015; Luật Phòng chống tham nhũng ngày 29/11/2005; Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí ngày 29/11/2005; Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ngày 18/6/2009; Luật cán bộ, công chức ngày 13/11/2008... Những văn bản pháp luật đó là cơ sở pháp lý hết sức quan trọng cho việc thực thi công vụ của cán bộ lãnh đạo cơ quan nhà nước. Sự cần thiết phải nghiên cứu về trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo xuất phát từ thực trạng trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo ở Việt Nam hiện nay. Bên cạnh những mặt đạt được, thực tiễn thực hiện trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo còn nhiều hạn chế. Theo đánh giá của Trung ương Đảng, cụ thể là: Nghị quyết số 12-NQ/TW Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay đã nêu: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc”. Tuy nhiên, rất khó định lượng cụ thể “một bộ phận” hay “một bộ phận không nhỏ” là bao nhiêu người trong đội ngũ cán bộ, công chức ở nước ta. Việc xử lý trách nhiệm người cán bộ lãnh đạo trong thực tiễn chưa đạt được như mong đợi, ở nhiều nơi, nhiều cấp, còn xảy ra tình trạng người cán bộ lãnh đạo có những hành vi vi phạm, gây thiệt hại cho nhà nước và xã hội nhưng vẫn ung dung trong hàng ngũ công quyền, trong quá trình xử lý vẫn còn tình trạng nể nang, né tránh. Vì vậy, tiếp tục nâng cao sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực của nhà nước trong việc xử lý trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo là yêu cầu cấp bách đặt ra hiện nay. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu về trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo đã được tiến hành từ lâu, song do gắn với chỉnh thể chung trong việc tham mưu cho Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật nên vấn đề này chưa được tách ra và bàn 2 luận cụ thể. Việc tiếp tục tìm hiểu toàn diện về vấn đề này để có sự đánh giá khách quan và chi tiết giúp tham mưu cho Đảng và Nhà nước ta hoàn thiện vấn đề này trong lãnh đạo, quản lý là yêu cần cần thiết tập trung nghiên cứu hiện nay. Vì vậy, tôi chọn “Trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo từ thực tiễn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo được một số tác giả nghiên cứu và đề cập ở những khía cạnh khác nhau dưới nhiều hình thức như bài viết khoa học, bài tham luận, báo chí như: - Hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay, PGS. TS. Trịnh Đức Thảo - Phó viện trưởng Viện Nhà nước và Pháp luật - Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. - Trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, Tạp chí cộng sản, TS. Nguyễn Minh Phương, Viện Khoa học tổ chức, Bộ Nội vụ; - Xác định rõ trách nhiệm trong quản lý hành chính nhà nước, Ths. Trần Thị Thanh Mai, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh khu vực I; - Vai trò người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước trong thực hiện công tác cải cách hành chính, tác giả Huỳnh Duy Nhân (http://www.bentre.gov.vn); - Vai trò người đứng đầu trong chống tham nhũng, tác giả Hồng Hải, (http://www.qdnd.vn); - Xử tham nhũng nhưng chưa “đụng” đến người đứng đầu, tác giả Quốc Thanh (http://tuoitre.vn/chinh-tri-xa-hoi); Những bài viết đó đã luận giải một số khía cạnh khác nhau về trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo. Tuy nhiên, các bài viết chỉ phản ánh ở mức độ nghiên cứu hẹp và đi vào những vấn đề mang tính chất cụ thể mà chưa bàn luận toàn diện vấn đề, nhất là trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo tại một quận nội thành của thành phố Hà Nội. Bên cạnh đó, các công trình nghiên cứu chưa được hệ thống hóa một cách toàn diện những vấn đề cơ bản về lý luận và pháp lý về trách nhiệm chính trị của cán bộ 3 lãnh đạo từ đó chưa có cơ sở xác định và cân nhắc việc xử lý trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo khi có vi phạm trong quá trình thực thi nhiệm vụ. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Việc nghiên cứu của luận văn với mục đích làm rõ vấn đề lý luận, cơ sở pháp lý về trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo trong các cơ quan Nhà nước. Phản ánh thực trạng trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo ở quận Đống Đa, thành phố Hà Nội trong một số lĩnh vực hoạt động. Từ đó, đưa ra các giải pháp nâng cao trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo ở quận Đống Đa, thành phố Hà Nội trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Cơ sở lý luận về trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo. - Thực trạng trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo ở quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. - Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo ở quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu - Nghiên cứu trách nhiệm chính trị của Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận; Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc UBND; Chủ tịch UBND phường trên địa bàn quận Đống Đa. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo là phạm vi lớn với nhiều nội dung, trong khuôn khổ của luận văn chỉ tập trung luận giải về một số nội dung sau: - Phạm vi về không gian: nghiên cứu và đánh giá thực trạng về trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo tại quận Đống Đa, thành phố Hà Nội, là quận trung tâm của Thủ đô, các vấn đề đặt ra của quận Đống Đa trong quản lý cần được quan tâm kịp thời. - Phạm vi về thời gian: khảo sát nghiên cứu thực trạng về trách nhiệm chính trị và xử lý trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo ở quận Đống Đa, thành phố Hà Nội từ năm 2010 đến nay. 4 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Đề tài luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp chủ yếu để thực hiện luận văn là: - Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp: Việc nghiên cứu luận văn dựa trên kết quả phân tích tài liệu thứ cấp là các công trình nghiên cứu có liên quan đến trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo. Qua đó, kế thừa và bổ sung thêm những kết quả của nghiên cứu trước. Từ những tài liệu tác giả luận văn có sự phân tích, tổng hợp và đưa ra những luận giải riêng về vấn đề trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo. - Phương pháp điều tra xã hội học, khảo sát thực tế: Với phương pháp này, tôi đã tiến hành khảo sát ý kiến của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đang làm ở cơ quan Đảng, nhà nước, tổ chức chính trị xã hội trên địa bàn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội về đánh giá trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo trên một số lĩnh vực quan trọng và mang tính thời sự hiện nay. - Phương pháp phân tích; phương pháp tổng hợp; thu thập số liệu: tác giả luận văn chủ yếu tiến hành phân tích các quy định pháp luật cũng như các báo cáo công tác các lĩnh vực nghiên cứu của các cơ quan tại quận Đống Đa, thành phố Hà Nội trên cơ sở đó tổng hợp, thu thập số liệu và rút ra những điểm khái quát nhằm phục cho các nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài. - Phương pháp so sánh: Nghiên cứu trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo bằng cách so sánh quy định về trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo trong văn bản pháp luật này với văn bản pháp luật khác xem đã bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ chưa hay có mâu thuẫn, chồng chéo không. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Về lý luận, luận văn góp phần định hình và làm vững chắc thêm khung lý luận về trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo trong cơ quan nhà nước. 5 - Về thực tiễn, kết quả nghiên cứu có ý nghĩa thực tiễn trong việc nghiên cứu hoàn thiện các quy định của pháp luật, việc thực thi các quy định của pháp luật về trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo trên địa bàn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung. Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên Học viện khoa học xã hội và các cơ sở đào tạo về lý luận chính trị. Từ những kết quả nghiên cứu của luận văn là căn cứ để tiếp tục triển khai nghiên cứu sâu hơn về trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo. 7. Cơ cấu của luận văn Luận văn bao gồm các chương sau: Chương 1: Cơ sở lý luận về trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo. Chương 2: Thực trạng trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo ở quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo ở quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. 6 Chƣơng 1 LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM CHÍNH TRỊ CỦA CÁN BỘ LÃNH ĐẠO 1.1. Cán bộ lãnh đạo và trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo 1.1.1. Một số khái niệm a) Chính trị Thuật ngữ “chính trị” có nguồn gốc từ một danh từ tiếng Hy Lạp là “polis”, là một trong những khái niệm cho đến nay vẫn chưa được xác định thống nhất trong giới khoa học, thậm chí còn gây ra những cuộc tranh luận gay gắt. Trong khi đó, quan niệm hiện đại về chính trị có rất nhiều nghĩa. Trong nhiều cuốn từ điển chính trị được hiểu theo các nghĩa như sau [23]: - Là một bộ phận của đạo đức có liên hệ nhiều hơn với cơ cấu nhà nước hay cơ cấu xã hội nói chung so với cá nhân riêng biệt; một bộ phận của triết học đạo đức có liên quan với những quan hệ và nghĩa vụ đạo đức của chính phủ hay các tổ chức xã hội khác; đạo đức xã hội. - Là hoạt động chính trị hay là thực tiễn chính trị; - Là quan hệ chính trị hay là cuộc cạnh tranh giữa các nhóm lợi ích xung đột với nhau, cũng như các cá nhân vì quyền lực và vai trò thủ lĩnh. - Là sự lãnh đạo chính trị (thực hiện chính sách, đường lối) vì cá mục đích riêng tư. - Là các nguyên tắc, các chính kiến, các ý kiến hay sở thích chính trị của các cá nhân riêng tư. - Là tổng thể các mối quan hệ tương tác hay cạnh tranh giữa những người sống trong cùng một xã hội. - Là khoa học chính trị. Mỗi nhóm nghiên cứu có cách thức định nghĩa riêng về chính trị. Theo quan điểm của mỗi nhóm họ có xu hướng tìm hiểu nghiên cứu về chính trị đi theo những hướng khác nhau, từ đó rút ra những kết luận khác nhau về chính trị: 7 Nhóm định nghĩa xã hội học về chính trị họ căn cứ trên cách tiếp cận xã hội học, các định nghĩa chính trị thông qua những hiện tượng xã hội khác nhau như: kinh tế, nhóm xã hội, pháp luật, đạo đức, văn hóa, tôn giáo. Nhóm các định nghĩa thực thể luận về chính trị: Nhóm định nghĩa này định hướng vào việc vạch ra cơ sở đầu tiên cấu thành chính trị. Trong nhóm này phổ biến nhất là định nghĩa về chính trị như hành động hướng vào quyền lực: giành lấy nó, giữ lấy và sử dụng nó. Theo M. Weber, chính trị là “khát vọng tham gia vào quyền lực hay là có ảnh hưởng tới việc phân chia quyền lực, cho dù là giữa các quốc gia, giữa các nhóm người ở bên trong một quốc gia”. Nhóm định nghĩa khoa học kiến tạo cho rằng: các hoạt động chính trị vạch ra tính động thái, quá trình chính trị. Họ đánh giá chính trị như là quá trình soạn thảo, thông qua và thực hiện những quyết định bắt buộc đối với toàn thể xã hội. Quan niệm như vậy về chính trị cho phép phân tích những giai đoạn thực hiện quan trọng nhất của nó. Những giai đoạn đó bao gồm: xác định mục đích chính trị, thông qua quyết định; tổ chức quần chúng và huy động các nguồn lực để thực hiện các mục đích ấy; điều tiết hoạt động chính trị… Khái quát các nhóm định nghĩa về chính trị, chúng ta có thể khái quát định nghĩa về chính trị như sau: Chính trị là hoạt động của các nhóm xã hội và của cá nhân nhằm nhận thức và thể hiện lợi ích tập thể mẫu thuẫn của mình, nhằm hoạch định những quyết sách bắt buộc đối với toàn thể xã hội, được thực hiện nhờ quyền lực nhà nước”. b) Trách nhiệm chính trị * Quan niệm về trách nhiệm Thuật ngữ trách nhiệm được sử dụng rất phổ biến trong ngôn ngữ đời sống hằng ngày cũng như trong những các văn bản pháp luật. Trong tiếng Anh, có hai thuật ngữ cùng được hiểu là „„trách nhiệm”: Một là “responsibility”; Hai là “accountability”. Hai từ này thường được dùng thay thế cho nhau, tuy nhiên, có sự khác biệt cơ bản giữa hai thuật ngữ trách nhiệm với nghĩa là “responsibility” thường được hiểu là việc phải làm, như là bổn phận, nghĩa vụ [13]. Còn "accountability" có 8 nghĩa rộng hơn responsibility, không chỉ có nghĩa là những việc phải làm, mà còn bao gồm việc đứng ra nhận và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện những việc đó. “Trách nhiệm” theo nghĩa là “Accountability” thể hiện khả năng của một cá nhân, tổ chức thừa nhận về những gì mình đã làm khi thực hiện một việc nào đó; đồng thời, nó bao hàm nghĩa vụ giải thích, báo cáo, thông tin, biện giải về những việc đó và những hệ quả, cũng như việc sẵn sàng chịu sự đánh giá, phán xét, thậm chí là trừng phạt cả về mặt pháp lý và đạo đức đối vói những hệ quả đó. Ở Việt Nam hiện nay cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về thuật ngữ “trách nhiệm”. Một số tác giả tiếp cận thuật ngữ “trách nhiệm” theo nghĩa là nghĩa vụ, nhiệm vụ, bổn phận, quyền hạn. Ví dụ, tác giả Đỗ Minh Hợp hiểu trách nhiệm là “bổn phận phải thực hiện, nó còn là điều không được làm, được làm, phải làm và nên làm (...). Trách nhiệm là những gì mà họ buộc phải làm và phải chịu sự giám sát của người khác” [25]. Theo tác giả Nguyễn Văn Phúc, trách nhiệm “thường được hiểu là khả năng của con người ý thức được những kết quả hoạt động của mình, đồng thời là khả năng thực hiện một cách tự giác những nghĩa vụ được đặt ra cho mình” [41]. Còn tác giả Cao Minh Công thì cho rằng “trách nhiệm là sự thực hiện bổn phận, nghĩa vụ của chủ thể đối với người khác, với xã hội một cách tự giác. Trách nhiệm đối lập với vô trách nhiệm, gắn liền với chịu trách nhiệm” [9, tr.43]. Một số tác giả lại hiểu trách nhiệm có nghĩa là “chịu trách nhiệm” với hàm ý là phải gánh một hậu quả bất lợi nào đó. Tác giả Lê Như Thanh cho rằng trách nhiệm “đó là hậu quả bất lợi (sự phản ứng mang tính trừng phạt của nhà nước) mà công chức phải gánh chịu khi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ được giao phó, tức là khi vi phạm trách nhiệm theo nghĩa tích cực. Trách nhiệm tiêu cực thể hiện trong việc áp dụng các biện pháp xử lý những chủ thể vi phạm các nghĩa vụ và quyền” [44, tr. 43]. Trách nhiệm ở đây đồng nghĩa với hậu quả bất lợi phải gánh chịu, là chịu trách nhiệm khi thực hiện không đúng trách nhiệm theo nghĩa là nghĩa vụ, nhiệm vụ, bổn phận, quyền hạn. Như vậy, cả hai góc độ tiếp cận trên đây về trách nhiệm đều có những điểm hợp lý, tùy vào mục đích vận dụng mà có thể dùng một trong hai cách hiểu cho phù hợp. 9 * Trách nhiệm chính trị Trách nhiệm chính trị là loại trách nhiệm rất quan trọng của cán bộ lãnh đạo. Đây là loại hình trách nhiệm được xác định bởi các quan hệ và thể chế chính trị. Việc thiết lập nên chủ thể của trách nhiệm chính trị, cơ chế đảm bảo, cũng như chế tài áp dụng đối với các chủ thể này... đều thông qua cơ chế chính trị. Chủ thể của trách nhiệm chính trị là những người nắm các chức danh được hình thành thông qua sự tín nhiệm của cử tri hoặc cơ quan đại diện cử tri, cụ thể là thông qua cơ chế bầu hay phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm. Cơ sở của trách nhiệm chính trị là sự tín nhiệm của cá nhân hoặc cơ quan có thẩm quyền hoặc có ảnh hưởng mang tính quyết định đến chức vụ mà chính khách đang nắm giữ. Tùy thể chế mà trách nhiệm chính trị được xác lập dựa trên sự tín nhiệm của cử tri một cách trực tiếp (người dân trực tiếp bầu) hoặc một cách gián tiếp - thông qua cơ quan đại diện cử tri (HĐND và Quốc hội). Về nội dung, nhìn chung trách nhiệm chính trị là trách nhiệm về “hình ảnh chính trị”. Hình ảnh chính trị của cán bộ lãnh đạo xuất phát từ yếu tố quan trọng và cơ bản nhất, đó là các chính sách mà cán bộ lãnh đạo có trách nhiệm xây dựng và tổ chức thực hiện. Cán bộ lãnh đạo có trách nhiệm ban hành và triển khai thực hiện chính sách ở ngành, lĩnh vực, địa phương mình quản lý. Chế tài duy nhất của trách nhiệm chính trị, đó là sự “bất tín nhiệm”. “Trách nhiệm chính trị được xác lập dựa trên sự tín nhiệm. Và sự bất tín nhiệm chính là loại chế tài duy nhất ở đây” [15]. Với trách nhiệm chính trị, còn tín nhiệm thì người cán bộ lãnh đạo còn chức quyền, hết tín nhiệm thì người cán bộ lãnh đạo hết chức quyền. Người cán bộ lãnh đạo có thể không mắc lỗi và không phải chịu trách nhiệm pháp lý, nhưng họ phải từ chức, đơn giản vì họ không làm tốt vai trò của mình và cơ quan, đơn vị cần có những người khác thay thế để làm tốt hơn. Nếu họ không từ chức, thì sẽ bị bãi nhiệm vì không nhận được đủ sự tín nhiệm của cử tri. Trên cơ sở phân tích về thuật ngữ “trách nhiệm” và thuật ngữ “chính trị” từ góc độ quản lý nhà nước có thể hiểu “trách nhiệm chính trị” theo hai hướng như sau: Một là, Trách nhiệm chính trị là trách nhiệm trong những việc nên làm, phải 10 làm, bao gồm việc tự đứng ra nhận và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến ngành, lĩnh vực quản lý. Hai là, Trách nhiệm chính trị là việc chịu trách nhiệm bất lợi, áp dụng các biện pháp xử lý của pháp luật về kết quả thực hiện nhưng việc nên làm, phải làm, được làm. c) Cán bộ lãnh đạo Theo Luật cán bộ công chức 2008: “Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước” [30]. Cán bộ lãnh đạo của tổ chức, thành viên đứng đầu này thể hiện những ứng xử của mình trong các mối quan hệ giữa mình với các nhân viên và giữa mình với các chủ thể bên ngoài, chủ thể cấp trên (nếu có). Những ứng xử trong nội bộ tổ chức là cơ bản, quyết định sự toàn vẹn tư cách chủ thể người cán bộ lãnh đạo, còn trong mối quan hệ với bên ngoài, ứng xử của cán bộ lãnh đạo tổ chức phản ánh sự giao tiếp, trao đổi cũng có khi là bổn phận phải báo cáo, phải cung cấp. Trong phạm vi của đề tài này, những người cán bộ lãnh đạo được đề cập là: - Chủ tịch ủy ban nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện); - Chủ tịch ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã); - Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân các cấp. Trong các CQNN cán bộ lãnh đạo sẽ là người chịu trách nhiệm chính quản lý CQNN nơi mình công tác trong quá trình thực thi công vụ, đó là những ứng xử của cán bộ lãnh đạo với các thành viên khác của một cơ quan, và đây cũng là những ứng xử phổ biến, liên tục và cơ bản của người cán bộ lãnh đạo trong các CQNN nói trên. “Vị trí cao nhất” của cán bộ lãnh đạo được hình thành nên bởi các yếu tố cơ bản là nghĩa vụ, quyền, việc chịu trách nhiệm. Các yếu tố cụ thể về nghĩa vụ, quyền, việc 11 chịu trách nhiệm của từng cán bộ lãnh đạo các tổ chức khác nhau là không giống nhau. Điều này phụ thuộc vào nhiều yếu tố: đặc điểm từng tổ chức, từng bối cảnh, giai đoạn, thời kỳ, từng địa phương, vùng lãnh thổ, quốc gia khác nhau; mối quan hệ trách nhiệm theo chiều ngang, chiều dọc giữa các cơ quan, tổ chức trong hệ thống; mức độ phân cấp giữa cấp trên, cấp dưới; tương quan quyền lực trong tổ chức; các yếu tố thể chế chính trị, văn hóa, lịch sử... Tuy nhiên, nhìn chung, tất cả những người ở vị trí đứng đầu có điểm chung, đó là: cán bộ lãnh đạo là người gánh vác nghĩa vụ lớn lao, nặng nề nhất, tương xứng với nghĩa vụ đó là có quyền lực cao nhất, quyền lợi nhiều nhất, đồng thời cũng là người chịu trách nhiệm cao nhất về hoạt động của tổ chức. Tóm lại, cán bộ lãnh đạo là người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị với những thẩm quyền và trách nhiệm tương ứng để hoàn thành tốt vai trò là người lãnh đạo. d) Trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo Dưới góc độ là người cán bộ lãnh đạo có các nghĩa vụ mà bất cứ người nào ở vị trí cao nhất trong tổ chức cũng phải thực hiện, đó là thực hiện vai trò của người lãnh đạo như: Thiết lập tầm nhìn cho tổ chức; Tập hợp quần chúng; cổ vũ, động viên toàn bộ đội ngũ; Xây dựng chiến lược cho tổ chức; Ra quyết định; Tạo ra những sự thay đổi; Tạo dựng môi trường làm việc lành mạnh, đồng thời thực hiện vai trò của người quản lý như lập kế hoạch, ngân sách, tổ chức, biên chế, kiểm soát, và giải quyết vấn đề [51, p.26]. + Cán bộ lãnh đạo phải chịu trách nhiệm trước vi phạm của bản thân: Việc gánh chịu trách nhiệm chính trị do chính hành vi của mình gây ra là lẽ đương nhiên có ở mỗi vị trí công việc của người cán bộ lãnh đạo. Người cán bộ lãnh đạo cũng là một thành viên cấu thành tổ chức, cơ quan, đơn vị nên bản thân người cán bộ lãnh đạo phải gánh chịu trách nhiệm chính trị với bất kỳ hình thức nào, miễn là nó tương xứng với tính chất, mức độ của sự vi phạm. + Khi các thành viên khác của CQNN vi phạm: Không phải mọi sự vi phạm trong quản lý từ phía các thành viên khác của 12 CQNN đều làm cho cán bộ lãnh đạo phải chịu trách nhiệm. Trước hết, mỗi cá nhân trong CQNN thuộc sự quản lý của cán bộ lãnh đạo, phải chịu trách nhiệm chính trị về sự vi phạm công vụ của mình, về phía cán bộ lãnh đạo, trong những trường hợp nhất định, cán bộ lãnh đạo mới liên đới chịu trách nhiệm chính trị về những vi phạm do thành viên khác của CQNN gây ra, trong vai trò là người quản lý của CQNN. Trên cơ sở những phân tích trên về thuật ngữ “trách nhiệm”, “trách nhiệm chính trị” và “cán bộ lãnh đạo” từ góc độ quản lý, “trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo” có thể được hiểu như sau: Một là, Trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo là những việc mà cán bộ lãnh đạo nên làm, phải làm, bao gồm việc tự đứng ra nhận và chịu trách nhiệm liên đới về những vi phạm do thành viên khác của CQNN gây ra, trong vai trò là người lãnh đạo của CQNN. Hai là, Trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo là việc chịu trách nhiệm bất lợi, áp dụng các biện pháp xử lý của pháp luật về kết quả thực hiện không tốt những việc nên làm, phải làm, được làm của người cán bộ lãnh đạo. 1.1.2. Tiêu chí đánh giá trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo Để một chủ thể quản lý nói chung và cán bộ lãnh đạo chịu trách nhiệm chính trị cần có hai tiêu chí sau: a) Tiêu chí 1: Căn cứ vào các quy định của pháp luật Cán bộ lãnh đạo là một định chế pháp lý, vậy không thể quy trách nhiệm và buộc người cán bộ lãnh đạo gánh chịu hậu quả bất lợi nếu có khi phạm xảy ra mà thiếu vắng những quy định trong pháp luật về những hành vi nào của cán bộ lãnh đạo phải chịu trách nhiệm chính trị. Việc xác định trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo theo các quy định trong pháp luật gặp khó khăn là các lĩnh vực quản lý thuộc thẩm quyền của cán bộ lãnh đạo rất đa dạng, phong phú và nhiều khi đan xen với nhau, liên hệ với nhau rất chặt chẽ, làm cho việc liệt kê những hành vi nào phải chịu trách nhiệm chính trị bao giờ cũng mang tính tương đối và nằm trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau. 13 Về pháp lý hiện nay, căn cứ xác định chế độ trách nhiệm chính trị đối với cán bộ lãnh đạo và cấp phó của cán bộ lãnh đạo được quy định như sau: + Căn cứ nghĩa vụ, nhiệm vụ, quyền hạn, quyền lợi của cán bộ, công chức và những việc cán bộ, công chức, viên chức không được làm quy định tại Luật cán bộ, công chức và các văn bản pháp luật khác liên quan. Căn cứ vào mối quan hệ và nội dung phân công công tác giữa trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo với cấp phó của cán bộ lãnh đạo trong chỉ đạo, quản lý, điều hành cơ quan, tổ chức, đơn vị của Nhà nước [10]. b) Tiêu chí 2: Căn cứ vào hành vi vi phạm chế độ trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo Những hành vi không hợp pháp của cán bộ lãnh đạo chưa hẳn đều bị áp dụng trách nhiệm chính trị. Để xác định được hành vi nào phải chịu trách nhiệm chính trị, về lý thuyết pháp luật, hành vi đó phải hội đủ các điều kiện cần thiết (cấu thành vi phạm pháp luật) để chịu trách nhiệm chính trị. Theo quy định hiện hành, cán bộ lãnh đạo có hành vi vi phạm những nội dung sau đây sẽ chịu trách nhiệm chính trị [10]: + Chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị được giao lãnh đạo, quản lý. + Gương mẫu và nghiêm chỉnh chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và chỉ đạo của cấp trên; tổ chức, điều hành cơ quan, tổ chức, đơn vị thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, có chất lượng và đúng thời hạn được giao; quyết định chủ trương, giải pháp cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ và chịu trách nhiệm về quyết định đó. + Căn cứ các quy định về phân công, phân cấp và nhiệm vụ, quyền hạn được giao, ban hành văn bản quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của các cấp phó, các cơ quan, tổ chức, đơn vị cấu thành hoặc từng cán bộ, công chức, viên chức thuộc quyền. + Tuyển dụng, sử dụng, đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng, nâng lương, cử dự thi nâng ngạch, quyết định nâng ngạch, bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật, cho nghỉ chế 14 độ và quản lý đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo đúng chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. + Quản lý, sử dụng có hiệu quả tài sản công được giao; phòng, chống cháy nổ và bảo đảm an toàn lao động tại cơ quan, tổ chức, đơn vị. + Thực hiện đúng quy định của pháp luật về văn hóa công sở; không để xảy ra tình trạng cán bộ, công chức, viên chức thuộc thẩm quyền quản lý có thái độ hách dịch, cửa quyền, gây phiền hà cho công dân, doanh nghiệp trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, công vụ. + Tổ chức thực hiện Quy chế dân chủ trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; giải quyết khiếu nại, tố cáo trong phạm vi thẩm quyền theo đúng quy định của pháp luật. + Thực hiện đúng các quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước; về phát ngôn, khai thác, quản lý và sử dụng mạng Internet trong cơ quan, tổ chức, đơn vị. + Các chế độ trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật. Tóm lại, chỉ có thể áp dụng trách nhiệm chính trị đối với các vi phạm của cán bộ lãnh đạo khi hội đủ các lý lẽ nêu trên, trong đó quy định của pháp luật về những hành vi của cán bộ lãnh đạo phải chịu trách nhiệm là nền tảng. 1.1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo a. Yếu tố khách quan Các yếu tố thuộc về nhà nước, điều kiện kinh tế - văn hóa - xã hội, yếu tố công dân...là những yếu tố hết sức rộng lớn, ảnh hưởng đến việc thực hiện trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo ở nhiều chiều cạnh, mức độ với tính chất khác nhau. Sự ảnh hưởng này có thể là tích cực hay tiêu cực, trực tiếp hay gián tiếp, ít hay nhiều tùy thuộc vào bối cảnh, thời điểm cũng như nhiều vấn đề khác có liên quan đến việc thực hiện trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo. Nhìn chung, khi điều kiện kinh tế văn hóa - xã hội ổn định, thuận lợi sẽ khiến cho việc thực hiện trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo dễ dàng đạt kết quả mong muốn và ngược lại. Trong các yếu tố về điều kiện kinh tế - văn hóa - xã hội, yếu tố liên quan đến văn hóa, đặc biệt là văn hóa quản lý, văn hóa trách nhiệm có ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện trách nhiệm chính trị của cán bộ lãnh đạo. Trong môi trường mà văn 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan