Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Trách nhiệm các doanh nghiệp sản xuất và phân phối bán lẻ thực phẩm: Bảo đảm an ...

Tài liệu Trách nhiệm các doanh nghiệp sản xuất và phân phối bán lẻ thực phẩm: Bảo đảm an toàn thực phẩm và khuyến nghị từ phía cơ quan quản lý

.PDF
8
52
98

Mô tả:

Trách nhiệm các doanh nghiệp sản xuất và phân phối bán lẻ thực phẩm: Bảo đảm an toàn thực phẩm và khuyến nghị từ phía cơ quan quản lý
THAM LUẬN “Trách nhiệm các doanh nghiệp sản xuất và phân phối bán lẻ thực phẩm: Bảo đảm an toàn thực phẩm và khuyến nghị từ phía cơ quan quản lý ” CỤC AN TOÀN THỰC PHẨM – BỘ Y TẾ Sản xuất và phân phối bán lẻ thực phẩm có vai trò vô cùng quan trọng trong phát triển kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội. Việc bảo đảm an toàn thực phẩm trong sản xuất, kinh doanh thực phẩm nói chung và trong sản xuất và phân phối bán lẻ thực phẩm có vai trò có một tầm quan trọng đặc biệt không chỉ với sức khỏe của mỗi cá nhân, cộng đồng, sự phát triển của giống nòi mà còn liên quan đối với phát triển kinh tế, thương mại, phát triển văn hóa, xã hội và an ninh chính trị của mỗi địa phương, mỗi quốc gia. 1. Một số vấn đề liên quan 1.1. Các khái niệm liên quan tại Việt Nam (Luật An toàn thực phẩm) a) Thực phẩm (TP): Là sản phẩm mà con người ăn, uống ở dạng tươi sống hoặc đã qua sơ chế, chế biến, bảo quản. TP không bao gồm mỹ phẩm, thuốc lá và các chất sử dụng như dược phẩm. Phân loại TP hiện nay để quản lý gồm: TP tươi sống, TP bao gói sẵn, TP tăng cường vi chất dinh dưỡng, TP chức năng, TP biến đổi gen, TP đã qua chiếu xạ, dịch vụ ăn uống và thức ăn đường phố. b) Cơ sở sản xuất, kinh doanh TP: - Sản xuất TP là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi, thu hái, đánh bắt, khai thác, sơ chế, chế biến, bao gói, bảo quản để tạo ra TP. Sản xuất TP gồm: + Sản xuất ban đầu là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi, thu hái, đánh bắt, khai thác. + Sơ chế TP là việc xử lý sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thu hái, đánh bắt, khai thác nhằm tạo ra TP tươi sống có thể ăn ngay hoặc tạo ra nguyên liệu TP hoặc bán thành phẩm cho khâu chế biến TP. + Chế biến TP là quá trình xử lý TP đã qua sơ chế hoặc TP tươi sống theo phương pháp công nghiệp hoặc thủ công để tạo thành nguyên liệu TP hoặc sản phẩm TP. - Kinh doanh TP là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động giới thiệu, dịch vụ bảo quản, dịch vụ vận chuyển hoặc buôn bán TP. 1 c) An toàn thực phẩm là việc bảo đảm để thực phẩm không gây hại đến sức khỏe, tính mạng con người. d) Điều kiện bảo đảm ATTP là những quy chuẩn kỹ thuật và những quy định khác đối với TP, cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm và hoạt động sản xuất, kinh doanh thực phẩm do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm mục đích bảo đảm thực phẩm an toàn đối với sức khoẻ, tính mạng con người. 1.2. Thực trạng, nguyên nhân mất ATTP trong sản xuất, phân phối lẻ Hiện nay, việc đảm bảo ATTP trong sản xuất, phân phối bán lẻ có “thương hiệu”, được đầu tư, phất triển theo hướng “bền vững” thực hiện các quy định về bảo đảm ATTP khá tốt, đã và được nhiều người tiêu dùng lựa chọn. Tuy nhiên, nguy cơ không bảo đảm ATTP đối với sản phẩm TP kể cả kênh bán buôn, bán lẻ trên thị trường đều chứa đựng nguy cơ mất an toàn thực phẩm, ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng – an sinh xã hội và phát triển kinh tê. Các nguy cơ ô nhiễm đối với TP chủ yếu là: các tác nhân vi sinh vật (vi khuẩn, ký sinh trùng, vi nấm…), hóa chất độc hại (hóa chất bảo vệ thực vật, chất tăng trưởng, hóa chất chống nấm, hóa chất bảo quản…, kim loại nặng, hóa chất độc hại trong nước, đất, phân bón…). Việc gây ra ô nhiễm đối với TP có thể từ khâu trồng trọt (cây giống, môi trường nước, đất canh tác, phân bón, hóa chất sử dụng trong quá trình trồng trọt, tình trạng ô nhiễm môi trường đất – nước bởi rác thái, nước thải, khí thải; quá trình thu hoạch, sơ chế, bảo quản; vận chuyển; điều kiện vệ sinh nơi kinh doanh bị TP… Nguy cơ gây ô nhiễm thực phẩm đối với TP vẫn diễn biến phức tạp, khó kiểm soát một cách bền vững, triệt để ở các công đoạn của chuỗi cung cấp. Nguyên nhân là do: (1) Tình trạng ô nhiễm môi trường (nguồn đất, nước canh tác); việc quy hoạch khu vực canh tác an toàn còn hạn chế; đa số cơ sở sản xuất nông sản TP là các cơ sở nhỏ, hạn chế về diện tích nuôi trồng trọt, nguồn cây giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và quy trình sản xuất chưa đồng nhất; trang bị, dụng cụ sơ chế, bảo quản, kinh doanh sản phẩm còn thiếu, không bảo đảm các quy định về điều kiện an toàn TP. (2) Nguồn cây giống, phân bón, hóa chất bảo vệ thực vật… được cung cấp chủ yếu là các cơ sở nhỏ lẻ, không rõ nguồn gốc, nhập lậu, kém chất lượng… khó được kiểm soát an toàn TP thường xuyên và triệt để. (3) Ý thức người sản xuất, kinh doanh TP tuy đã được cải thiện nhưng thực hành, trách nhiệm bảo đảm an toàn TP còn rất hạn chế; còn hiện tượng “gian dối” về nguồn gốc sản phẩm trong sản xuất, kinh doanh; việc “đối phó” và “coi thường” với các quy định pháp luật và cơ quan chức năng vẫn còn tồn tại. 2 (4) Người tiêu dùng vẫn còn thói quen khá phổ biến là “dễ dãi” để lựa chọn, sử dụng TP. Trong thực tế, người tiêu dùng “sẵn sàng” lựa chọn, sử dụng TP ở cả những nơi môi trường kinh doanh bị ô nhiễm, “cảm quan” sản phẩm đã thấy không bảo đảm an toàn mà không cần phải xét nghiệm để xác định. (5) Hiệu quả, hiệu lực quản lý an toàn TP trong kinh doanh TP ở cấp huyện, cấp phường, xã còn chưa cao, chưa thường xuyên; công tác phối hợp liên ngành còn chưa chặt chẽ; việc đầu tư trang bị, kinh phí bảo đảm cho hoạt động thiếu và không thường xuyên. 2. Nguyên tắc quản lý và chính sách trong bảo đảm ATTP 2.1. Nguyên tắc bảo đảm ATTP (Luật An toàn thực phẩm) Trong lý luận, thực tiễn quản lý ATTP và kinh nghiệm quản lý trên thế giới cho thấy: Không có một biện pháp duy nhất và không có một lực lượng duy nhất để đảm bảo an toàn TP triệt để, bền vững mà phải phối hợp chặt chẽ giữa nhà quản lý – nhà khoa học - nhà sản xuất, kinh doanh và người tiêu dùng để triển khai đồng bộ các biện pháp quản lý và kỹ thuật. Tại Việt Nam, nguyên tắc quản lý ATTP: (1) Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh TP phải chịu trách nhiệm về an toàn đối với TP do mình sản xuất, kinh doanh. (2) Quản lý ATTP phải trên cơ sở kỹ thuật tương ứng, quy định do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền ban hành và tiêu chuẩn do tổ chức, cá nhân sản xuất công bố áp dụng. (3) Quản lý ATTP phải đảm bảo phân công, phân cấp rõ ràng và phối hợp liên ngành. (4) Quản lý ATTP phải được thực hiện trong suốt quá trình sản xuất, kinh doanh TP trên cơ sở phân tích nguy cơ đối với an toàn TP. (5) Quản lý ATTP phải đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. 2.2. Chính sách của Nhà nước về ATTP (Luật An toàn thực phẩm) (1) Xây dựng chiến lược, quy hoạch tổng thể về bảo đảm ATTP, quy hoạch vùng sản xuất thực phẩm an toàn theo chuỗi cung cấp thực phẩm được xác định là nhiệm vụ trọng tâm ưu tiên. (2) Sử dụng nguồn lực nhà nước và các nguồn lực khác đầu tư nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ phục vụ việc phân tích nguy cơ đối với an toàn thực phẩm; xây dựng mới, nâng cấp một số phòng thí nghiệm đạt tiêu chuẩn khu vực, quốc tế; nâng cao năng lực các phòng thí nghiệm phân tích hiện có; hỗ trợ đầu tư xây dựng các vùng sản xuất nguyên liệu thực phẩm an toàn, chợ đầu mối nông sản thực phẩm, cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm quy mô công nghiệp. 3 (3) Khuyến khích các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất; sản xuất thực phẩm chất lượng cao, bảo đảm an toàn; bổ sung vi chất dinh dưỡng thiết yếu trong thực phẩm; xây dựng thương hiệu và phát triển hệ thống cung cấp thực phẩm an toàn. (4) Thiết lập khuôn khổ pháp lý và tổ chức thực hiện lộ trình bắt buộc áp dụng hệ thống Thực hành sản xuất tốt (GMP), Thực hành nông nghiệp tốt (GAP), Thực hành vệ sinh tốt (GHP), phân tích nguy cơ và kiểm soát điểm tới hạn (HACCP) và các hệ thống quản lý an toàn thực phẩm tiên tiến khác trong quá trình sản xuất, kinh doanh thực phẩm. (5) Mở rộng hợp tác quốc tế, đẩy mạnh ký kết điều ước, thoả thuận quốc tế về công nhận, thừa nhận lẫn nhau trong lĩnh vực thực phẩm. (6) Khen thưởng kịp thời tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh TP an toàn. (7) Khuyến khích, tạo điều kiện cho hội, hiệp hội, tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư, tham gia vào các hoạt động xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, kiểm nghiệm ATTP. (8) Tăng đầu tư, đa dạng các hình thức, phương thức tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức người dân về tiêu dùng TP an toàn, ý thức trách nhiệm và đạo đức kinh doanh của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh TP đối với cộng đồng. 3. Các quy định và chế tài kiểm soát an toàn thực phẩm 3.1. Quy định bảo đảm ATTP trong sản xuất, kinh doanh thực phẩm a) Sản phẩm TP phải bảo đảm an toàn (Luật An toàn TP) - Sản phẩm được sản xuất ở cơ sở đã được chứng nhận đủ điều kiện ATTP, hay cơ sở sản xuất thực phẩm an toàn hoặc vùng sản xuất an toàn. - Sản phẩm phải có địa chỉ sản xuất, thương nhân chịu trách nhiệm về chất lượng, an toàn sản phẩm; thực hiện các quy định về đóng gói và ghi nhãn TP, quy định về bảo quản sản phẩm. - Sản phẩm được công bố về chất lượng, an toàn sản phẩm; sản phẩm phải đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật tương ứng, tuân thủ quy chuẩn về giới hạn vi sinh vật gây bệnh, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, dư lượng thuốc thú y, kim loại nặng, tác nhân gây ô nhiễm và các chất khác có thể gây hại đến sức khỏe và tính mạng con người và được cơ quan chức năng xác nhận công bố sản phẩm… b) Cơ sở đủ điều kiện ATTP để sản xuất, kinh doanh TP (Luật ATTP) Phải có đủ điều kiện an toàn TP theo quy định gồm điều kiện về địa điểm, cơ sở vật chất, trang thiết bị dụng cụ, điều kiện về con người, nước sạch, nguyên liệu 4 dùng trong sản xuất, kinh doanh thực phẩm và xử lý chất thải. Trong Luật An toàn TP và thông tư liên tịch số 13/2014/TTLT-BYT-BNNPTNT-BCT đã hướng dẫn việc phân công, phối hợp trong quản lý nhà nước về an toàn TP trong đó nêu rõ các sản phẩm/nhóm sản phẩm thuộc thẩm quyền quản lý của từng Bộ, UBND. - Các Bộ ban hành điều kiện ATTP đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm do ngành quản lý. - Các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm phải được xác nhận, chứng nhận cơ sở, sản xuất có đủ điều kiện ATTP và được cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn TP theo quy định. c) Xác nhận quảng cáo thực phẩm (Luật An toàn thực phẩm) Quy định về quảng cáo thực phẩm: - Việc quảng cáo thực phẩm do tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm hoặc người kinh doanh dịch vụ quảng cáo thực hiện theo quy định của pháp luật về quảng cáo. - Trước khi đăng ký quảng cáo, tổ chức, cá nhân có thực phẩm cần quảng cáo phải gửi hồ sơ tới cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền để xác nhận nội dung quảng cáo. - Người phát hành quảng cáo, người kinh doanh dịch vụ quảng cáo, tổ chức cá nhân có thực phẩm quảng cáo chỉ được tiến hành quảng cáo khi đã được thẩm định nội dung và chỉ được quảng cáo đúng nội dung đã được xác nhận. d) Phân công quản lý an toàn TP trong sản xuất, kinh doanh TP (Nghị định 38/2012/NĐ-CP) + Bộ Y tế: Quản lý ATTP trong suốt quá trình sản xuất, sơ chế, chế biến, bảo quản, vận chuyển, xuất khẩu, nhập khẩu, kinh doanh đối với phụ gia TP, chất hỗ trợ chế biến TP, nước uống đóng chai, nước khoáng thiên nhiên, TP chức năng và các TP khác theo quy định của Chính phủ; dụng cụ, vật liệu bao gói, chứa đựng TP trong quá trình sản xuất, chế biến, kinh doanh TP thuộc lĩnh vực được phân công quản lý. + Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn: Quản lý ATTP đối với sản xuất ban đầu nông, lâm, thủy sản, muối; quản lý ATTP trong suốt quá trình sản xuất, thu gom, giết mổ, sơ chế, chế biến, bảo quản, vận chuyển, xuất khẩu, nhập khẩu, kinh doanh đối với ngũ cốc, thịt và các sản phẩm từ thịt, thủy sản và sản phẩm thủy sản, rau, củ, quả và sản phẩm rau, củ, quả, trứng và các sản phẩm từ trứng, sữa tươi nguyên liệu, mật ong và các sản phẩm từ mật ong, TP biến đổi gen, muối và các nông sản TP khác theo quy định của Chính phủ; 5 dụng cụ, vật liệu bao gói, chứa đựng TP trong quá trình sản xuất, chế biến, kinh doanh TP thuộc lĩnh vực được phân công quản lý. + Bộ Công thương: Quản lý ATTP trong suốt quá trình sản xuất, chế biến, bảo quản, vận chuyển, xuất khẩu, nhập khẩu, kinh doanh đối với các loại rượu, bia, nước giải khát, sữa chế biến, dầu thực vật, sản phẩm chế biến bột và tinh bột và các TP khác theo quy định của Chính phủ; Quản lý ATTP đối với dụng cụ, vật liệu bao gói, chứa đựng TP trong quá trình sản xuất, chế biến, kinh doanh TP thuộc lĩnh vực được phân công quản lý. + Ủy ban nhân dân các cấp: Chịu trách nhiệm quản lý ATTP trên địa bàn; quản lý điều kiện bảo đảm an toàn TP đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh TP nhỏ lẻ, thức ăn đường phố, cơ sở kinh doanh, dịch vụ ăn uống, ATTP tại các chợ trên địa bàn và các đối tượng theo phân cấp quản lý. - Phân công đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh TP hỗn hợp quy định tại Thông tư liên tịch số 13/2014/TTLT-BYT-BNNPTNT-BCT ngày 9/4/2014 + Đối với cơ sở sản xuất nhiều loại sản phẩm TP thuộc thẩm quyền quản lý của từ 2 bộ trở lên trong đó có sản phẩm TP thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Y tế thì Bộ Y tế chịu trách nhiệm quản lý. + Đối với cơ sở sản xuất nhiều loại sản phẩm TP thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Công Thương thì Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chịu trách nhiệm quản lý. + Đối với cơ sở kinh doanh nhiều loại sản phẩm TP thuộc thẩm quyền quản lý của từ 2 Bộ trở lên (bao gồm cả chợ và siêu thị) thì Bộ Công Thương chịu trách nhiệm quản lý trừ chợ đầu mối, đấu giá nông sản do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý. - Bộ Y tế chịu trách nhiệm quản lý các cơ sở sản xuất, kinh doanh dụng cụ, vật liệu bao gói chứa đựng TP trừ những loại dụng cụ, vật liệu bao gói chuyên dụng gắn liền và chỉ được sử dụng cho các sản phẩm TP thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Công Thương. 3.2. Chế tài bảo đảm ATTP trong sản xuất, kinh doanh thực phẩm Vi phạm các quy định bảo đảm ATTP trong sản xuất, kinh doanh thực phẩm đều bị xử lý theo quy định của pháp luật. Việc xử lý căn cứ vào: - Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường và khắc phục hậu quả theo quy định của pháp luật. 6 - Người lợi dụng chức vụ, quyền hạn vi phạm quy định của Luật này hoặc các quy định khác của pháp luật về an toàn thực phẩm thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. - Mức phạt tiền đối với vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; trường hợp áp dụng mức phạt cao nhất theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính mà vẫn còn thấp hơn 07 lần giá trị thực phẩm vi phạm thì mức phạt được áp dụng không quá 07 lần giá trị thực phẩm vi phạm; tiền thu được do vi phạm mà có bị tịch thu theo quy định của pháp luật. - Quy định tại Nghị định số 178/2013/NĐ-CP: Mục tiêu của chế tài xử phạt ngăn chặn những hành vi vi phạm quy định ATTP, tạo ra sự đồng thuận cao, trách nhiệm và tự giác trong việc thực hiện các biện pháp bảo đảm ATTP. Các chế tài xử phạt phải được xây dựng dựa trên việc lượng giá hành vi vi phạm ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng người tiêu dùng; bên cạnh đó phải bảo đảm đồng bộ, thống nhất, phù hợp với luật pháp chung và phải bảo đảm tính khả thi của chế tài xử phạt. Quy định tại Nghị định số 178/2013/NĐ-CP, mức phạt tiền tối đa đối với hành vi vi phạm hành chính về ATTP là 100 triệu đồng đối với cá nhân và 200 triệu đồng đối với tổ chức. Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, cá nhân, tổ chức còn có thể bị áp dụng một hoặc nhiều hình thức xử phạt bổ sung như tước quyền sử dụng giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính về ATTP. Nếu gây hậu quả nghiêm trong sẽ bị truy tố theo điều 244 của Bộ luật hình sự. Như vậy chế tài xử phạt vi phạm ATTP hiện nay không phải là quá nhẹ. Tuy nhiên khi áp dụng vào thực tế có nhiều khó khăn: + Hạn chế lực lượng thanh tra liên ngành nên các hoạt động thanh tra chưa được thường xuyên, liên tục; + Nhiều trường hợp khó định danh hành vi vi phạm quy định ATTP ngay (cần xét nghiệm, kiểm nghiệm); + Đối tượng vi phạm là những người thu nhập thấp, khó thực thi như đối tượng lao động có thời vụ, lao động phổ thông không ổn định, nhất là phụ nữ, những người di cư từ nông thôn ra đô thị, ít vốn. + Giá trị hàng hóa thực phẩm của các cơ sở sản xuất, kinh doanh nhỏ, chủ cơ sở, người sản xuất, kinh doanh sẵn sàng “bỏ của chạy lấy người”. 4. Truyền thông nâng cao nhận thức, trách nhiệm chuyển đổi hành vi bảo đảm an toàn thực phẩm trong sản xuất, kinh doanh bán lẻ 7 Một trong những thách thức trong bảo đảm ATTP hiện nay đó là sự “gian dối” trong sản xuất, kinh doanh TP nói chung và trong việc trà trộn TP không đạt chất lượng bán cùng sản phẩm “sạch” nói riêng vì mục đích “lợi nhuận”. Nguyên nhân chính là do “trách nhiệm” bảo đảm an toàn TP của các đối tượng tham gia trong quá trình sản xuất, kinh doanh chưa cao, chưa thường xuyên, chưa triệt để. Trong đó, việc lực lượng quản lý còn thiếu, trang thiết bị kiểm tra, giám sát, kinh phí hoạt động chưa đủ, độ bao phủ và hiệu quả các biện pháp thanh tra, kiểm tra của các cơ quan chức năng còn giới hạn… là điều kiện thuận lợi để hoạt động sản xuất, kinh doanh TP gian dối tồn tại ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng, phát triển kinh tế và an sinh xã hội. Để khắc phục tình trạng này một cách bền vững cần tăng cường công tác thông tin – truyền thông – giáo dục để nâng cao nhận thức, trách nhiệm của người sản xuất, kinh doanh TP. - Yêu cầu cung cấp thông tin, giáo dục, truyền thông về ATTP: Chính xác, kịp thời, rõ ràng, đơn giản, thiết thực; Phù hợp với truyền thống, văn hoá, bản sắc dân tộc, tôn giáo, đạo đức xã hội, tín ngưỡng và phong tục tập quán; Phù hợp với từng loại đối tượng được tuyên truyền. - Nội dung thông tin, giáo dục, truyền thông về ATTP: Thông tin, tuyên truyền, phổ biến kiến thức, pháp luật về an toàn thực phẩm; Nguyên nhân, cách nhận biết nguy cơ gây ngộ độc thực phẩm, bệnh truyền qua thực phẩm và các biện pháp phòng, chống sự cố về an toàn thực phẩm; Thông tin về các điển hình sản xuất, kinh doanh thực phẩm bảo đảm an toàn; việc thu hồi thực phẩm không bảo đảm an toàn, xử lý đối với cơ sở vi phạm nghiêm trọng pháp luật về an toàn thực phẩm. - Đối tượng tiếp cận thông tin, giáo dục, truyền thông về ATTP: Tổ chức, cá nhân được quyền tiếp cận thông tin, giáo dục, truyền thông về an toàn thực phẩm. Ưu tiên tiếp cận cho các đối tượng: Người tiêu dùng thực phẩm; Người quản lý, điều hành các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm; người trực tiếp sản xuất, kinh doanh thực phẩm; Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm tươi sống, sản xuất, kinh doanh thực phẩm nhỏ lẻ; người dân khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Việc chuyển đổi các hành vi không bảo đảm ATTP thực sự là một cuộc chiến lâu dài, gian khó của cả xã hội và gắn liền với việc xây dựng “xã hội công dân”, xây dựng xã hội với mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh./. 8
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan