Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
PHẦN MỞ ĐẦU
Sau khi dành được hoà bình, thống nhất đất nước, Việt Nam phải đối
mặt với rất nhiều khó khăn về mọi lĩnh vực. Nhiệm vụ hết sức quan trọng của
Đảng và Nhà nước ta lúc đó là vừa phải khắc phục những hậu quả nặng nề
của hai cuộc chiến tranh tàn khốc, khôi phục nền kinh tế để tiến kịp các nước
trên thế giới và khu vực vừa phải thực hiện nhiệm vụ xây dựng Chủ nghĩa xã
hội (CNXH). Tuy nhiên, phải nói rằng trong một thời gian khá dài (sau khi
thống nhất đất nước năm 1975 đến trước năm 1986) nền kinh tế nước ta vẫn
là nền sản xuất nhỏ, mang tính tự cấp tự túc vận hành theo cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp. Thêm vào đó, do có một số sai lầm về nhận thức trong quá
trình xây dựng CNXH đã khiến cho nền kinh tế Việt Nam rơi vào tình trạng
khủng hoảng, trì trệ kéo dài, đời sống nhân dân hết sức khó khăn.
Trước bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước ta xác định cần phải đổi mới nền
kinh tế đất nước. Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam (tháng 12 – 2986)
đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả
hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội VI là cột mốc đánh dấu
bước chuyển quan trọng trong nhận thức của Đảng cộng sản Việt Nam. Tuy
nhiên, tuỳ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh của đất nước trong từng thời kỳ mà
Đảng ta đã liên tục đưa ra những chiến lược và kế hoạch cụ thể khác nhau
trong các kỳ Đại hội tiếp theo. Có thể thấy rõ rằng Quan điểm lịch sử cụ thể
đã được Đảng và Nhà nước ta vận dụng triệt để trong công cuộc đổi mới kinh
tế (trong đó xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là một trong
những nội dung cơ bản của quá trình đổi mới quản lý kinh tế).
Một thực tế không thể phủ nhận được là nước ta sau hơn 20 năm đổi
mới, nước ta đã đạt được rất nhiều thành tựu to lớn về mọi mặt của đời sống
kinh tế xã hội: kinh tế ngày càng phát triển, đời sống nhân dân ngày càng
được cải thiện,… Điều này đã cho chúng ta thấy được sự tài tình của Đảng và
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Nhà nước ta trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Để hiểu được
rõ hơn sự vận dụng những lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn
của Việt Nam trong thời gian qua, trong bài tiểu luận Triết học của mình, em
xin chọn đề tài: “Vận dụng quan điểm lịch sử, cụ thể để phân tích quá trình
xây dựng nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay” để nghiên cứu, tìm hiểu.
Để hoàn thành bài viết này, em đã nhận được sự hướng dẫn tận tình của
cô giáo TS. Nguyễn Thị Bích Thủy. Tuy nhiên do thời gian và trình độ có hạn
nên sẽ còn nhiều sai sót. Em kính mong nhận được sự hướng dẫn của các thầy
cô để bài viết của em được tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
NỘI DUNG
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
I, Quan điểm lịch sử, cụ thể.
1.Cơ sở của quan điểm lịch sử, cụ thể.
Cơ sở khách quan của quan điểm lịch sử, cụ thể chính là hai nguyên lý
của phép biện chứng duy vật : Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và Nguyên
lý về sự phát triển.
1.1.Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
Mối liên hệ phổ biến là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định,
sự tác động qua lại, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay
giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới.
Khái niệm về mối liên hệ phổ biến nói lên rằng mọi sự vật hiện tượng
trong thế giới dù phong phú và đa dạng nhưng đều tồn tại trong mối liên hệ
giữa các sự vật và hiện tượng khác, đều chịu sự tác động, sự quy định lẫn
nhau, làm tiền đề cho sự phát triển của nhau, không sự vật nào tồn tại biệt lập
ngoài mối liên hệ với các sự vật hiện tượng khác.
Mối liên hệ phổ biến còn nói lên rằng các bộ phận, các yếu tố, các giai
đoạn phát triển khác nhau của mỗi sự vật đều có tác động quy định lẫn nhau,
mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại cho mình.
Mối liên hệ phổ biến có những đặc điểm sau:
- Tính khách quan: Liên hệ là vốn có của các sự vật, hiện tượng, không
phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, là điều kiện tồn tại và phát
triển của các sự vật hiện tượng, con người không thể tạo ra được mối liên hệ
của các sự vật hiện tượng mà chỉ có thể nhận thức và vận dụng mối liên hệ
đó.
- Tính đa dạng: Các sự vật hiện tượng trong thế giới là đa dạng, phong
phú, do đó mối liên hệ phổ biến cũng đa dạng phong phú được thể hiện qua
nhiều hình thức: mối liên hệ chung –riêng, bên trong – bên ngoài, trực tiếp –
gián tiếp, tất nhiên - ngẫu nhiên, cơ bản – không cơ bản.
1.2.Nguyên lý về sự phát triển.
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Nguyên lý về sự phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá
trình vận động tiến từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn
thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật.
Mọi sự vật hiện tượng của thế giới đều không ngừng biến đổi và
chuyển hoá lẫn nhau, cái mới kế tiếp cái cũ, giai đoạn sau kế thừa giai đoạn
trước tạo thành quá trình phát triển tiến lên mãi mãi. Phát triển là khuynh
hướng chung tất yếu của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.
Nguồn gốc, nguyên nhân của sự phát triển là sự thống nhất và đấu tranh
của các mặt đối lập trong bản thân sự vật, hiện tượng.
Cách thức và hình thái của sự phát triển là sự thay đổi dần về lượng dẫn
đến sự thay đổi về chất và ngược lại.
Tính chất của sự phát triển:
- Tính khách quan: sự phát triển của các sự vật, hiện tượng không phụ
thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.
- Tính phức tạp của sự phát triển:
+ Phát triển không chỉ là sự tăng đơn thuần về mặt lượng mà bao hàm
cả sự nhảy vọt về chất.
+ Phát triển bao hàm sự phủ định cái cũ và nảy sinh cái mới, sự lặp lại
cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn.
2.Nội dung của quan điểm lịch sử, cụ thể:
Quan điểm này cho rằng mọi sự vật, hiện tượng của thế giới đều tồn tại,
vận động và phát triển trong những điều kiện thời gian và không gian cụ thể,
xác định, những điều kiện này sẽ có ảnh hưởng trực tiếp tới tính chất, đặc
điểm của sự vật. Cùng một sự vật nhưng nếu tồn tại trong những điều kiện
không gian và thời gian cụ thể khác nhau thì tính chất, đặc điểm của nó sẽ
khác nhau, thậm chí có thể làm thay đổi hoàn toàn bản chất của sự vật. Ví dụ,
một luận điểm nào đó là luận điểm khoa học trong điều kiện này, nhưng sẽ
không phải là luận điểm khoa học trong điều kiện khác.
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Từ nội dung trên ta có thể thấy rằng, quan điểm lịch sử cụ thể có ý
nghĩa rất to lớn trong quá trình nghiên cứu và cải tạo tự nhiên, xã hội. Khi vận
dụng quan điểm này cần phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Khi nhận thức về sự vật và tác động vào sự vật phải chú ý điều kiện,
hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, môi trường cụ thể trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và
phát triển.
- Khi nghiên cứu một lý luận khoa học nào đó cần phải phân tích hoàn
cảnh ra đời và phát triển của lý luận đó.
- Khi vận dụng một lý luận nào đó vào thực tiễn cũng cần phải tính đến
những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nơi đó. Đồng thời cần phải có những
bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tiễn để đạt được hiệu quả
tốt nhất.
II. Nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCN.
1.Nền kinh tế thị trường, ưu điểm, nhược điểm.
1.1.Kinh tế thị trường là gì?
Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa, tức là
một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội mà trong đó sản phẩm sản xuất ra để trao
đổi, để bán trên thị trường. Trong nền kinh tế thị trường toàn bộ các yếu tố
“đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều thông qua thị trường. Kinh tế thị
trường phát triển qua hai giai đoạn: kinh tế thị trường tự do và kinh tế thị
trường hỗn hợp (còn gọi là kinh tế thị trường hiện đại). Sự khác biệt cơ bản
giữa hai giai đoạn này là, kinh tế thị trường hỗn hợp có sự điều tiết của Nhà
nước.
1.2. Ưu điểm của nền kinh tế thị trường.
Nền kinh tế thị trường kích thích cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, tổ
chức kinh tế, từ đó dẫn đến:
- Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, làm tăng năng xuất lao động.
- Thúc đẩy sự phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất.
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
- Đẩy mạnh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, tạo điều kiện ra đời
của sản xuất lớn có xã hội hoá cao; đồng thời chọn lọc được những người sản
xuất, kinh doanh giỏi.
- Hàng hoá, dịch vụ dồi dào, phong phú, chất lượng ngày càng được
nâng cao, thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu của xã hội.
1.3.Nhược điểm của nền kinh tế thị trường.
- Phân phối thu nhập không công bằng dẫn đến hoá giàu nghèo trong xã
hội và mâu thuẫn xã hội.
- Cạnh tranh khốc liệt giữa các doanh nghiệp tất yếu dẫn đến khủng
hoảng chu kì, triệt tiêu lẫn nhau và thất nghiệp.
- Mục tiêu theo đuổi lợi nhuận tối đa luôn luôn gắn liền với những thủ
đoạn không lành mạnh: lạm dụng tài nguyên của xã hội gây ô nhiễm môi
trường; đầu cơ, buôn lậu và lối sống duy vật chất xem thường đạo đức và
truyền thống xã hội.
- Độc quyền của những doanh nghiệp lớn và các nước lớn trong việc
khống chế và lưu thông giá cả, đầu cơ nâng cao giá hoặc bán phá giá,… làm
lũng đoạn nền kinh tế.
2.Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
2.1.Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam được hiểu như thế
nào?
Đại hội IX của Đảng cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: Kinh tế thị trường
định hướng XHCN là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật
của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các
nguyên tắc và bản chất của CNXH, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức
quản lý, và phân phối. Nói cách khác, kinh tế thị trường định hướng XHCN
chính là nền kinh tế hang hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước nhằm mục tiêu dân giàu; nước mạnh; xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Kinh tế thị trường định hướng XHCN có nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Kinh tế thị trường đinh hướng XHCN thực hiện phân phối chủ yếu theo
kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp
vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã
hội.
2.2.Vì sao Việt Nam lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Như đã biết, Việt Nam là một nước nghèo, kinh tế - kỹ thuật lạc hậu,
trình độ xã hội còn thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Đi lên CNXH là
mục tiêu lý tưởng của những người cộng sản và nhân dân Việt Nam, là khát
vọng ngàn đời thiêng liêng của cả dân tộc. Nhưng đi lên CNXH bằng cách
nào? Đó là câu hỏi lớn và cực kỳ hệ trọng. Suốt một thời gian dài, Việt Nam
cũng như nhiều nước khác đã áp dụng mô hình CNXH kiểu Xô - viết mô hình
kinh tế kế hoạch tập trung mang tính bao cấp. Mô hình này đã thu được
những kết quả quan trọng, nhất là đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ đất nước
có chiến tranh. Nhưng về sau mô hình này bộc lộ những khuyết điểm, và
trong công tác chỉ đạo cũng phạm phải một số sai lầm mà nguyên nhân sâu xa
của những sai lầm đó là bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và
hành động đơn giản, nóng vội, không tôn trọng quy luật khách quan, nhận
thức về CNXH không đúng với thực tế Việt Nam.
Đảng cộng sản Việt Nam trên cơ sở nhận thức tính quy luật phát triển
của thời đại và sự khái quát, đúc rút từ kinh nghệm phát triển kinh tế thị
trường thế giới, đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng CNXH ở Việt Nam và ở
Trung Quốc, để đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, nhằm sử dụng kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu từng
bước quá độ lên CNXH. Đây là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử
phát triển của kinh tế thị trường. Cũng có thể nói kinh tế thị trường là cái “phổ
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
biến”, còn kinh tế thị trường định hướng XHCN là “cái đặc thù” của Việt
Nam, phù hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể của Việt Nam.
Sự lựa chọn mô hình phát triển “kinh tế thị trường định hướng XHCN”
là sự khẳng định quyết tâm khắc phục triệt để hệ thống kế hoạch hoá tập trung
(đồng nghĩa với nền kinh tế phi thị trường và lạc hậu), để xây dựng hệ thống
kinh tế thị trường phát triển (kinh tế thị trường định hướng XHCN). Đây
không phải là nền kinh tế thị trường dập khuôn theo kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa (đã và đang bị phủ định). Đây phải là hệ thống kinh tế thị trường
văn minh, đảm bảo định hướng cao về mặt xã hội, tuân theo nguyên tắc xã hội
hoá – xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rõ ràng rằng Đảng và Nhà nước ta đã vận
dụng triệt để quan điểm lịch sử cụ thể trong việc lựa chọn phát triển kinh tế
đất nước theo mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN. Lựa chọn mô
hình này không phải là sự gán ghép chủ quan giữa kinh tế thị trường và
CNXH, mà là sự nắm bắt và vận dụng xu thế vận động khách quan của kinh
tế thị trường trong thời đại ngày nay.
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
III.Quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt
Nam dưới góc nhìn của quan điểm lịch sử cụ thể.
Theo quan điểm lịch sử cụ thể trong triết học Mác – Lênin, khi nghiên
cứu quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta,
thì việc tìm hiểu tình hình trong và ngoài nước là hết sức cần thiết.
1.Những điều kiện, hoàn cảnh khi nước ta chủ trương xây dựng nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN.
1.1.Điều kiện, hoàn cảnh trong nước.
- Về kinh tế:
Bức tranh chung của nền kinh tế Việt Nam năm trước đổi mới là tăng
trưởng thấp khoảng 3,7% /năm, làm không đủ ăn và dựa vào nguồn viện trợ
từ nước ngoài là chủ yếu. Những năm đó nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng
hoảng nghiêm trọng, siêu lạm phát vào năm 1986 kéo theo giá cả leo thang
và không thể kiểm soát được.
Thêm vào đó, do bị chiến tranh tàn phá nặng nề lại chịu ảnh hưởng của
nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp kéo dài đã làm cho nền kinh tế Việt
Nam đã nghèo nàn lại càng lạc hậu về mọi mặt: công nghiệp, nông nghiệp
dịch vụ, giao thông vận tải,...
- Về chính trị:
Vì nước ta đi thẳng lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN nên đã gặp phải
rất nhiều khó khăn và bỡ ngỡ trong việc xây dựng một hệ thống chính trị
vững mạnh. Thêm vào đó, khi chúng ta đang trong giai đoạn đầu của công
cuộc đổi mới – giai đoạn rất quan trọng mà chính trị là yếu tố định hướng dẫn
đường thì CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ hàng loạt đã gây
nhiều hoang mang cho Đảng ta. Bên cạnh đó, còn có rất nhiều thế lực phản
động đã và đang tìm cách chống phá quá trình xây dựng CNXH ở nước ta.
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
- Về văn hoá – xã hội:
Với hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, nước ta đã tạo
dựng được một nền văn hóa riêng với những giá trị tinh thần truyền thống tốt
đẹp: chủ nghĩa yêu nước, lòng thương người, tinh thần đoàn kết dân tộc, đức
tính cần kiệm, khiêm tốn, giản dị,…trong đó chủ nghĩa yêu nước là cốt lõi của
bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam. Cùng chế độ chính trị đúng đắn, với bề
dày văn hoá đó, chúng ta có rất nhiều điều kiện thuận lợi để xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN tiên tiến. Tuy nhiên, ngoài những phẩm
chất tốt đẹp đó thì trong trong hoạt động kinh tế, nhân dân ta vẫn còn thiếu
tính năng động, tính quyết đoán - những phẩm chất quan trọng của một nhà
quản lý kinh tế.
1.2. Điều kiện, hoàn cảnh khu vực và trên thế giới.
Nước ta nằm trong khu vực Đông Nam Á, Thái Bình Dương, là một
khu vực được coi là có nền kinh tế năng động và có tốc độ tăng trưởng cao
nhất thế giới trong những năm gần đây. Hầu hết các nước trong khu vực đã
xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường được mấy thập kỷ và trở thành
các nước công nghiệp mới (NIC).
Trên thế giới, mặc dù còn nhiều diễn biến phức tạp nhưng hoà bình và
hợp tác vẫn là xu thế chủ đạo của thời đại ngày nay. Cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ đạt được những bước tiến vượt bậc, đặc biệt là trong các
lĩnh vực: tin học, viễn thông, sinh học, vật liệu mới và năng lượng mới làm
cho lực lượng sản xuất ngày càng phát triển mạnh mẽ, từ đó dẫn đến sự phân
công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc. Chính vì thế mà ngày nay không
một nền kinh tế của một nước nào đó có thể đứng tách ra khỏi cộng đồng
quốc tế. Tình hình đó đòi hỏi một sự hợp tác ngày càng rộng tạo nên thế phụ
thuộc lẫn nhau giữa các nước dù lớn hay nhỏ, phát triển hay đang phát triển.
Trong lịch sử phát triển của xã hội có lẽ chưa bao giờ có một sự hợp tác để
phát triển rộng lớn như hiện nay với sự hình thành nhiều tổ chức kinh tế khu
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
vực và thế giới như: EU, AFTA, ASEAN (Hiệp hội các quốc gia Đông Nam
Á), WTO (tổ chứ thương mại thế giới),…
Trước những điều kiện chủ quan và khách quan như vậy, Đảng và Nhà
nước ta đã quyết định chuyển nền kinh tế đất nước phát triển theo hướng kinh
tế thị trường định hướng XHCN để vừa phát triển kinh tế đất nước theo kịp
các nước trên khu vực và trên thế giới, vừa đảm bảo mục tiêu đi lên CNXH.
2.Thực trạng quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
ở Việt Nam.
2.1.Giai đoạn trước năm 1986.
Từ sau Hội nghị Trung ương 6 khoá IV đến trước Đại hội VI, dưới áp
lực của tình thế khách quan, nền kinh tế nước ta đã có cải tiến theo hướng thị
trường, chủ yếu ở cấp vi mô, mang tính cục bộ, không triệt để và thiếu đồng
bộ. Những bước cải tiến mới như khoán sản phẩm trong nông nghiệp theo chỉ
thị 100 – CT/TW của ban bí thư khoá IV, bù giá vào lương ở Long An, thực
hiện Nghị định 25, 26- CP của Chính phủ, Nghị quyết Trung ương 8 khoá V
về giá, lương, tiền (1985),…Tất cả những việc làm đó là những căn cứ thực
tế, những bước chuyển ban đầu để Đảng ta đi tới quyết định thay đổi cơ chế
kinh tế tại Đại hội VI (1986).
2.2.Giai đoạn từ năm 1986 đến năm 1990.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn và đầy đủ hơn về CNXH và con
đường đi lên CNXH ở Việt Nam, Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam
(tháng 12 – 1986) đã nhìn thẳng vào sự thật, thừa nhận những sai lầm, thiếu
sót chủ quan trong lãnh đạo và điều hành do nóng vội muốn nhanh chóng tiến
lên CNXH. Đại hội cũng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm
thực hiện có hệu quả hơn công cuộc xây dựng CNXH. Đại hội đã đưa ra
những quan niệm mới về con đường, phương pháp xây dựng CNXH, đặc biệt
là quan niệm về công nghiệp hoá XHCN trong thời kỳ quá độ, về cơ cấu kinh
tế, thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hang hoá và thị trường, phê
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
phán triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, và khẳng định chuyển hẳn
sang hạch toán kinh doanh. Đại hội chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần với những hình thức kinh doanh phù hợp; coi trọng việc kết hợp
lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, chăm lo toàn diện và phát huy nhân tố con
người, có nhận thức mới về chính sách xã hội.
Đại hội VI là một cột mốc đánh dấu bước chuyển quan trọng trong
nhận thức của Đảng cộng sản Việt Nam về CNXH và con đường đi lên
CNXH ở Việt Nam. Đó là kết quả của cả một quá trình tìm tòi, thử nghiệm
suy tư, đấu tranh tư tưởng rất gian khổ, là kết tinh trí tuệ và công sức của toàn
Đảng, toàn dân ta trong nhiều năm.
Đến Hội nghị Trung ương 6 (tháng 3 -1989), khoá VI, phát triển thêm
một bước, đưa ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch gồm
nhiều thành phần đi lên CNXH, coi “chính sách kinh tế nhiều thành phần” có
ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH.
2.3.Giai đoạn từ năm 1991 đến năm 2000.
Trong giai đoạn này, chủ trương phát triển nền kinh tế đất nước được
Đảng ta nêu rõ trong Nghị quyết Đại hội VII (tháng 6 – 1991) và Đại hội VIII
(tháng 6 – 1991).
Tại Đại hội VII, Đảng ta khẳng định: “phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước”.
Đến Đại hội VIII, Đảng ta mới đưa ra một kết luận mới rất quan trọng:
“Sản xuất hàng hoá không đối lập với CNXH mà là thành tựu phát triển của
nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan cần thiết cho công cuộc xây dựng
CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng”.
Trong giai đoạn này, Đảng ta cũng mới chỉ nói đến kinh tế hàng hoá, cơ
chế thì trường chứ chưa dùng đến khái niệm “kinh tế thị trường”. Nhưng điều
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
này cũng là thành tựu khá lớn trong tư duy nhận thức của Đảng ta về phát
triển nền kinh tế đất nước và xây dựng CNXH.
2.4.Giai đoạn từ năm 2001 đến nay:
Như đã nói ở trên, phải đến Đại hội IX của Đảng (tháng 4 – 2001) mới
chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng XHCN”. Đại hội
khẳng định: “Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là đường lối
chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ
đi lên CNXH ở Việt Nam”. Đây là kết quả sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi,
tổng kết thực tiễn, và là bước phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng cộng
sản Việt Nam.
Kế thừa tư duy tại Đại hội IX, Đại hội X đã làm sáng tỏ thêm một bước
nội dung cơ bản của định hướng XHCN trong phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở nước ta thể hiện trên 4 tiêu chí lớn là:
- Về mục tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta
là nhằm: thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao
đời sống nhân dân; đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người
vươn lên làm giàu chính đáng,…
- Thứ hai, về phương hướng phát triển: phát triển các thành phần kinh
tế và khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. Kinh tế Nhà nước
cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh
tế quốc dân.
- Thứ ba, về định hướng xã hội và phân phối: Phải thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội ngay trong từng bước đi và trong từng chính sách phát triển;
tăng trưởng kinh tế phải gắn chặt chẽ và đồng bộ với phát triển xã hội, văn
hóa, giáo dục và đào tạo,…giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát
triển con người.
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
- Thứ tư, trong lĩnh vực quản lý: Phát huy vai trò làm chủ xã hội của
nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp
quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Bên cạnh đó, Đảng ta cũng đã đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ
5 năm 2006 – 2010 và đến năm 2020 với một số chỉ tiêu về kinh tế như:
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 theo giá so sánh gấp hơn
2,1 lần năm 2000. Trong 5 năm 2006 – 2010, tốc độ tăng trưởng GDP là 7,5 –
8%/năm và phấn đấu đạt trên 8%/năm. GDP bình quân đầu người theo giá
hiện hành đạt khoảng 1.050 – 1.100 USD; tổng kim ngạch xuất khẩu tăng
16%/năm; tỷ lệ huy động GDP vào ngân sách đạt 21 – 22% vào năm 2010,…
Chúng ta có thể nhận thấy rõ ràng rằng, tuỳ thuộc vào tình hình thực tế
trong nước cũng như quốc tế trong từng giai đoạn và Đảng và Nhà nước ta đã
đưa ra những kế hoạch, chiến lược cũng như mục tiêu cụ thể phù hợp trong
từng thời kỳ. Điều đó đã chứng tỏ rằng Quan điểm lịch sử, cụ thể trong Triết
học Mác – Lênin được Đảng ta vận dụng rất nhuần nhuyễn trong thực tế quá
trình đổi mới nền kinh tế mà cụ thể là quá trình xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Chính nhờ sự tài tình đó của Đảng
cộng sản Việt Nam mà nước ta đã đạt được rất nhiều thành tựu đáng kể trên
nhiều phương diện sau hơn 20 năm đổi mới, đưa đất nước đi lên theo kịp các
nước khác trong khu vực và trên thế giới, đời sống của nhân dân ngày càng
được cải thiện.
3.Những thành tựu đạt được trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
Vượt qua những khó khăn, thách thức, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta, quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở nước ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng trên
nhiều phương diện kinh tế - xã hội.
3.1.Về kinh tế.
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
- Nền kinh tế nước ta đã vượt qua thời kỳ suy giảm, tốc độ tăng trưởng
khá cao và phát triển tương đối toàn diện.
Giai đoạn 1991 – 1996, tốc độ tăng trưởng kinh tế là khá cao, nhưng từ
năm 1997, do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính – kinh tế Châu
Á (1997 – 1999), tốc độ tăng trưởng GDP giảm dần, năm 1999 chỉ còn 4,9%
so với 9,5% năm 1996. Năm 2000, tốc độ tăng trưởng kinh tế có tăng lên
nhưng chưa cao và vững chắc. Vượt qua giai đoạn suy giảm, trong 5 năm
2000 – 2005, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta đã tăng dần, năm sau cao
hơn năm trước, bình quân đạt 7,51%, đạt kế hoạch đề ra (7,5%), riêng năm
2005 đạt 8,43%.
- Kinh tế vĩ mô tương đối ổn định, các mối quan hệ và cân đối chủ yếu
trong nền kinh tế được cải thiện, tạo điều kiện thuận lợi cần thiết cho sự phát
triển kinh tế. Quan hệ cung cầu cơ bản là phù hợp, bảo đảm các hang hoá thiết
yếu, không để xảy ra những biến động lớn trên thị trường. Giá tiêu dung tăng
bình quân 5,1% (riêng năm 2004 tăng 9,5%; năm 2005 tăng 8,4% nhưng
không gây xáo trộn lớn trên thị trường). Thu chi ngân sách có nhiều tiến bộ,
mức tăng thu 19,1%/năm, tỷ lệ GDP vào ngân sách hang năm 24,4%.
- Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá. Cơ cấu ngành chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng công nghiệp
và dịch vụ ngày càng tăng, còn tỷ trọng nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tiếp tục
giảm. Cơ cấu vùng kinh tế đã có sự điều chỉnh theo hướng phát huy lợi thế so
sánh của từng vùng.
- Hoạt động kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế có những
bước tiến mới rất quan trọng
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu 5 năm 2000 – 2005 đạt 111 tỷ USD ,
tăng ình quân 17,5%/năm (kế hoạch 16%/năm). Một số sản phẩm của nước ta
như gạo, cao su, may mặc, giày dép, hải sản,… đã có sức cạnh tranh trên thị
trường thế giới.
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Vốn đầu tư nước ngoài cả ODA và FDI liên tục tăng qua các năm. Hội
nhập kinh tế quốc tế có nhiều bước tiến mới. Quan hệ kinh tế giữa nước ta với
các tổ chức quốc tế và các nước trên thế giới và khu vực tiếp tục được mở
rộng.
- Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN bước đầu được xây
dựng. Thị trường hàng hoá phát triển tương đối nhanh, một số loại thị trường
mới hình thành.
Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách vận hành nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN được xây dựng tương đối đồng bộ.
Hoạt động của các loại hình doanh nghiệp và bộ máy quản lý Nhà nước
được đổi mới một bước quan trọng theo thể chế kinh tế mới.
Một số loại thị trường mới như: khoa học và công nghệ, tài chính, bất
động sản,… được hình thành và phát triển phù hợp với cơ chế kinh tế mới.
3.2.Về văn hoá – xã hội.
Văn hoá và xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt; việc gắn phát triển kinh tế
với giải quyết các vấn đề xã hội có chuyển biến tốt, đời sống các tầng lớp
người dân được cải thiện
Thành tựu này được thể hiện cụ thể như: giáo dục và đào tạo được chú
trọng phát triển và đầu tư nhiều hơn (năm 2005 chi cho giáo dục đào tạo đạt
18% tổng chi ngân sách); khoa học công nghệ ngày càng phát triển và có
nhiều thành tựu được áp dụng vào thực tế để phát triển kinh tế - xã hội; công
tác bảo vệ môi trường, chăm sóc sức khoẻ người dân; tạo việc làm, xóa đói
giảm nghèo được chú trọng và đạt nhiều kết quả tốt.
3.3.Về chính trị và quốc phòng, an ninh.
Độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh chính trị được giữ vững,
trật tự an toàn xã hội được đảm bảo; tiềm lực quốc phòng, an ninh được tăng
cường; hoạt động đối ngoại phát triển mạnh.
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có tiến bộ trên cả ba
lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc
được phát huy.
Công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng luôn được chú trọng và đạt được
nhiều kết quả tích cực.
4.Những tồn tại và hạn chế của quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở Việt Nam.
Bên cạnh những thành tựu to lớn mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã
đạt được, trên thực tế trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở nước ta vẫn còn tồn tại một số yếu kém trên một số mặt của
nền kinh tế - xã hội cần khắc phục đó là:
4.1.Về kinh tế.
Mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế trong những năm gần đây khá cao,
nhưng nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, địa phương còn nhiều tiềm năng chưa
được khai thác tốt. Đầu tư của Nhà nước còn dàn trải và kém hiệu quả, tình
trạng lãng phí trong chi tiêu ngân sách và tiêu dùng trong xã hội còn nghiêm
trọng. Tốc độ tăng trưởng của nước ta so với các nước trong khu vực như
Trung Quốc, Ấn Độ còn thấp; quy mô nền kinh tế còn nhỏ, thu nhập bình
quân đầu người còn thấp, khoảng cách với các nước trong khu vực chưa được
rút ngắn.
Chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn kém. Do cân
đối vĩ mô của nền kinh tế chưa thật vững chắc, nên dễ bị ảnh hưởng bởi
những biến động từ bên ngoài. Trình độ khoa học công nghệ, năng suất lao
động còn thấp dẫn đến giá thành sản phẩm trong nước còn cao so với khu vực
và thế giới.
Mặc dù cơ cấu chung của nền kinh tế đã có sự chuyển dịch tích cực
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng tốc độ còn chậm. Cơ cấu
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
thành phần kinh tế, cơ cấu vùng kinh tế, cơ cấu đầu tư,…còn chưa tương
xứng với tiềm năng nên chưa phát huy được hết thế mạnh vốn có.
4.2.Về văn hoá – xã hội.
Trong những năm qua, chính sách về văn hoá – xã hội chậm được đổi
mới, chưa phù hợp với cơ chế kinh tế và theo kịp với yêu cầu của xã hội. Các
chính sách xã hội hóa giáo dục, y tế,…chưa được cụ thể hóa, còn nhiều lúng
túng trong tổ chức thực hiện…
Kết quả xoá đói giảm nghèo chưa thật vững chắc, chất lượng giáo dục
và đào tạo còn thấp, khoa học và công nghệ chưa đáp ứng kịp yêu cầu của
công nghiệp hóa, hiện đại hoá; quản lý Nhà nước về một số lĩnh vực như y tế,
thể thao,…còn nhiều yếu kém.
Tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông gia tăng, gây lo lắng cho mỗi gia đình
và toàn xã hội. Tệ quan lieu, tham nhũng, lãng phí vẫn nghiêm trọng, chưa
được ngăn chặn và đẩy lùi, gây nhiều bức xúc trong dư luận và xã hội.
4.3.Về chính trị và quốc phòng, an ninh.
Ở một số địa bàn, còn những yếu tố gây mất ổn định xã hội ,như sự
kiện bạo loạn chính trị xảy ra ở một số tỉnh Tây Nguyên năm 2004. Sự phối
hợp giữa an ninh, quốc phòng, đối ngoại trong việc giải quyết một số vấn đề
còn thiếu chặt chẽ.
Tổ chức và hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân còn một số khâu chậm đổi mới. Bộ máy quản lý Nhà nước các cấp,
nhất là cấp cơ sở còn yếu kém. Cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu.
Tình trạng nhũng nhiễu, cửa quyền, thiếu trách nhiệm ở một bộ phận
công chức chậm được khắc phục (ví dị như vụ PMU 18).
Công tác tổ chức cán bộ còn nhiều mặt yếu kém; chất lượng và hiệu
quả kiểm tra, giám sát chưa cao.
5.Giải pháp khắc phục những tồn tại và hạn chế của quá trình xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Để nhanh chóng rút ngắn khoảng cách tụt hậu với các nước trong khu
vực cũng như trên thế giới và tiến lên CNXH, Việt Nam cần phải tiếp tục thực
hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế một cách có hiệu quả, trong đó xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN hiệu quả là một nhiệm vụ hết sức
quan trọng. Muốn vậy, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta cần phải nhanh chóng
khắc phục những yếu kém và hạn chế còn tồn tại trong thới gian qua. Sau đây
là một số giải pháp cụ thể:
5.1.Về kinh tế.
Nhà nước có vai trò hết sức quan trọng trong việc đảm bảo phát triển
nhanh chóng phải đi đôi với phát triển bền vững, tăng trưởng về số lượng phải
đi liền với nâng cao về chất lượng; từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển
với bạn bè khu vực và thế giới,…Chính vì vậy, trong thời gian tới, Nhà nước
cần làm tốt các chức năng sau:
- Định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và
cơ chế, chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường.
- Tạo môi trường pháp lý và cơ chế, chính sách thuận lợi để phát huy
các nguồn lực xã hội cho phát triển. Cần thực hiện quản lý Nhà nước bằng hệ
thống pháp luật, giảm hẳn sự can thiệp hành chính vào hoạt động của thị
trường và doanh nghiệp.
- Hỗ trợ phát triển, chăm lo xây dựng kệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội quan trọng, hệ thống an sinh xã hội.
- Đảm bảo tính bền vững và tích cực của các cân đối kinh tế vĩ mô, hạn
chế các rủi ro và tác động tiêu cực của cơ chế thị trường.
5.2.Về văn hoá – xã hội.
Trên cơ sở giải quyết tốt các vấn đề kinh tế, Nhà nước ta sẽ có đủ cơ sở
và điều kiện để giải quyết các vấn đề xã hội.
- Nhà nước cần tăng chi ngân sách cho giáo dục và y tế, và có những
chính sách khuyến khích, đầu tư nhiều hơn nữa cho hai lĩnh vực này.
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368
- Phải gắn tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, phát triển toàn
diện con người, thực hiện, dân chủ, tiến bộ, và công bằng xã hội, tạo nhiều
việc làm để giải quyết thất nghiệp, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với
xoá đói giảm nghèo.
- Phải coi trọng hơn nữa vấn đề bảo vệ môi trường và cải thiện môi
trường ngay trong từng bước phát triển.
- Tăng cường đầu tư cho hoạt động nghiên cứu khoa học – công nghệ
và ứng dụng những thanh tựu đó vào thực tiễn.
5.3.Về chính trị và quốc phòng, an ninh.
Song song với việc giải quyết các vấn đề kinh tế và xã hội, Đảng và
Nhà nước ta cần hết sức chú trọng công tác đảm bảo ổn đinh chính trị vì ổn
định chính trị là tiền đề, điều kiện để phát triển nhanh và bền vững.
- Muốn vậy, Nhà nước ta cần tăng cường ngân sách cho công tác quốc
phòng, an ninh., quan tâm đến đời sống tinh thần cũng như vật chất của các
chiến sĩ làm nhiệm vụ vì sự bình yên của Tổ quốc.
- Cùng với việc chủ động hội nhập và hợp tác quốc tế với bạn bè thế
giới thì đảm bảo ổn định chính trị cũng là một biện pháp để thu hút sự đầu tư
và hợp tác của nước ngoài, do đó cũng cần hết sức chú trọng đến việc ứng
dụng những tiến bộ khoa học công nghệ quân sự vào trong công tác an ninh,
quốc phòng.
Trên đây chỉ là một số giải pháp nhất định, cần phải tuỳ thuộc và điều
kiện thực tế của nước ta trong từng thời kỳ mà Đảng và Nhà nước ta cần phải
có những điều chỉnh cho phù hợp.
Website: http://www.docs.vn Email :
[email protected] Tel : 0918.775.368