Tổng hợp những bài nghiên cứu về bài thơ Đàn ghi-ta của Lorca cho học sinh và giáo viên tham khảo
ĐÀN GHI TA CỦA LORCA
Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn ghita
* F.G. Lorca
những tiếng đàn bọt nước
Tây-Ban-Nha áo choàng đỏ gắt
li-la li-la li-la
đi lang thang về miền đơn độc
với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn
Tây-Ban-Nha
hát nghêu ngao
bỗng kinh hoàng
áo choàng bê bết đỏ
Lorca bị điệu về bãi bắn
chàng đi như người mộng du
tiếng ghi-ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi-ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi-ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi-ta ròng ròng
máu chảy
không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng
đường chỉ tay đã đứt
dòng sông rộng vô cùng
Lorca bơi sang ngang
trên chiếc ghi-ta màu bạc
chàng ném lá bùa cô gái di-gan
vào xoáy nước
chàng ném trái tim mình
vào lặng yên bất chợt
li-la li-la li-la...
(Khối vuông Rubic – NXB TPM – 1985)
Đất nước Tây Ban Nha xinh đẹp với những trận đấu bò rực lửa, với tiếng ghi
ta say lòng đã đi vào trong thơ của Garcia Lorca, nhà thơ nhân dân, người
chiến sĩ chống phát xít. Sự hy sinh anh dũng của ông trước họng súng của
bọn phát xít Franco đã để lại nhiều tiếc thương cho nhân dân Tây Ban Nha.
Sức ám ảnh của những bài thơ đầy chất lãng tử của người nghệ sĩ Tây Ban
Nha ấy đã gặp gỡ với hồn thơ Thanh Thảo làm nên bài thơ độc đáo Đàn ghi
ta của Lorca trong tập thơ Khối vuông rubic.
Trước hết cần phải thấy không phải ngẫu nhiên mà Thanh Thảo lại
chọn hình tượng đàn ghi ta gắn với giây phút cuối cùng của F.G.Lorca. Bởi
lẽ người chiến sĩ này đã dùng tiếng ghi ta cất lên lời ca tranh đấu chống lại
chủ nghĩa phát xít. Đàn ghi ta là tâm hồn Lorca, là khí phách kiên cường của
những người chiến sĩ yêu tự do hòa nhịp trái tim mình với quần chúng nhân
dân. Bởi vậy, nỗi xúc động của Thanh Thảo làm nên cảm hứng của bài thơ
cũng bắt đầu từ câu thơ của Lorca: “Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn
ghi ta”.
Viết về một nhà thơ hiện đại, một người con của đất nước Tây Ban
Nha, Thanh Thảo đã dựng nên một chân dung bằng thơ sống động. Không
gian mở đầu bài thơ là những biểu tượng đặc trưng của văn hóa xứ sở những
trận đấu bò, hiện hữu tất cả chất say phóng cuồng nghệ sĩ:
những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt
li-la li-la li-la
đi lang thang về miền đơn độc
với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn...
Cái độc đáo của bài thơ này chính là ở những thủ pháp hiện đại mà
hình ảnh không hề cầu kỳ xa lạ vẫn giúp người đọc hình dung chất Tây Ban
Nha không trộn lẫn. Thanh Thảo có lối diễn đạt câu thơ không viết hoa đầu
dòng, tạo mạch thơ liên tục, xâu chuỗi với nhau để nối kết các biểu tượng
đầy sức ám ảnh : đất nước của những làn điệu ghi ta – Tây Ban cầm, của áo
choàng matador - đấu sĩ, của những giấc mơ hiệp sĩ của chàng Đôn Kihôtê
đã cuốn hút người đọc bằng chất men say chếnh choáng cả vầng trăng.
Không chỉ có thế, ghi ta của chàng nghệ sĩ còn vang những âm điệu rất lạ
« li-la li-la li-la » gọi về sắc tím của hoa tử đinh hương, âm thanh và màu sắc
hoà quyện, dìu dịu vẻ đẹp của một nỗi buồn trữ tình. Bài thơ cuốn người đọc
vào cái âm hưởng li-la ngân mãi không dứt ấy. Đó cũng là những gì đã xuất
hiện trong thơ Lorca, ca ngợi một đất nước Tây Ban Nha tươi đẹp và hào
hiệp với khát vọng công lý, tự do.
Tây Ban Nha của thời Lorca còn là đất nước sôi sục những cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa phát xít , ghi ta của Lorca cất lên lời ca tranh đấu :
«Ghi ta bần bật khóc – Không thể nào - dập tắt » (thơ Lorca). Bởi vậy diễn
tả khoảnh khắc người chiến sĩ ấy bị bọn phát xít sát hại, Thanh Thảo cũng
đã dựng nên bầu không gian kinh hoàng những ấn tượng chết chóc : Tây
Ban Nha hát nghêu ngao - bỗng kinh hoàng –áo choàng bê bết đỏ-Lorca bị
điệu về bãi bắn – chàng đi như người mộng du…Những câu thơ tiếp nối diễn
tả tột cùng cho cảm giác đau đớn uất nghẹn trước sự tàn bạo của bọn độc tài
phát xít :
tiếng ghi ta nâu
bầu trời cô gái ấy
tiếng ghi ta lá xanh biết mấy
tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan
tiếng ghi ta
ròng ròng máu chảy…
Điệp khúc dồn dập qua nhịp thơ Thanh Thảo như đã lột tả được cái
bàng hoàng căm phẫn trong bản ghi ta bi tráng! Màu nâu của đất, của làn da
rám nắng, màu xanh của lá của bầu trời như tương phản gay gắt và dữ dội
với màu đỏ ròng ròng máu chảy. Cảm giác vỡ oà đau đớn uất nghẹn trong
tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan. Nỗi kinh hoàng trong cảm giác mất mát
cũng nhân lên gấp bội, nỗi đau như xé lòng khi hình dung ra cảnh kẻ thù sát
hại người nghệ sĩ tranh đấu cho tự do.
Những câu thơ tiếp theo như đặc tả cho một sự sống khác, mãnh liệt,
âm thầm mà bất tử :
không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng
Đoạn thơ tái hiện khoảnh khắc kẻ thù của Lorca hèn hạ thủ tiêu chàng,
ném xác xuống giếng, nhưng qua hình tượng âm thanh tiếng đàn ta nhận ra
một sức sống mãnh liệt vẫn tiếp tục. Cảm giác bi tráng hiện hữu qua những
liên tưởng về cỏ mọc hoang, giọt nước mắt vầng trăng, đáy giếng tạo cảm
giác trống vắng sau sự hy sinh anh dũng của Lorca. Thanh Thảo rất có ý
thức khi so sánh tiếng đàn với cỏ mọc hoang để cảm nhận về sức lan toả của
sự sống mãnh liệt không gì có thể hủy hoại được. Có khoảng lặng sau ánh
sáng vầng trăng nhưng đủ diễn tả nỗi tiếc thương long lanh trong đáy giếng,
nơi kẻ thù tưởng có thể vùi chôn tinh thần tự do bất tử của Lorca.
Vì lẽ đó, những câu thơ Thanh Thảo đã tái hiện sự sống của Lorca thật
kỳ diệu và xúc động, con người đã hoá thân vào âm thanh của đàn ghi ta, tan
chảy hoà cùng dòng sông bất tận:
Lorca bơi sang ngang
Trên chiếc ghi ta màu bạc
Chàng ném lá bùa cô gái di gan
Vào xoáy nước
Chàng ném trái tim mình
Vào lặng yên bất chợt
li-la li-la li-la...
Những câu thơ diễn tả một hành trình đối mặt với định mệnh của
người nghệ sĩ tài hoa người Tây Ban Nha, như một thái độ bình thản trước
số phận. Lá bùa - định mệnh, trái tim lặng yên để làm nên một sự sống
trường tồn vượt qua và vút lên vang động khắp không gian. Khúc đàn tự do
ấy lại vang lên : li-la li-la li-la... Tiếng đàn mang tên loài hoa theo tiếng Tây
Ban Nha như một sự sống lặng lẽ toả hương, hiện hữu giữa cuộc đời. Hai lần
Thanh Thảo dùng động từ ném để diễn tả nhằm làm nổi bật lên vẻ đẹp của
con người từ lâu dám coi khinh cái chết, bởi cái chết do kẻ thù gây ra cũng
không thể ngăn cản tư tưởng, tâm hồn Lorca hoà vào với sự sống bất tử của
nhân dân.
Đàn ghi ta của Lorca là một bài thơ hay của Thanh Thảo, không chỉ
đã tạo dựng chân dung người nghệ sĩ - chiến sĩ Garcia Lorca một cách trung
thực, mà còn khiến người đọc cảm nhận rõ vẻ đẹp tâm hồn, tính cách đậm
chất Tây Ban Nha của Lorca. Bài thơ giàu nhạc điệu, ngỡ như chính tác giả
đã để lòng mình đồng điệu với sự sống Lorca trong giờ phút đối mặt với
họng súng quân thù.
Tiếng đàn ấy, sức sống ấy vẫn ngân vang những tiếng li-la li-la li-la
để hiện hữu sống động hình ảnh một Lorca với chiếc ghi ta màu bạc, vẫn
rong ruổi trên hành trình dân tộc Tây Ban Nha, hát lên bài ca tranh đấu, bài
ca tình yêu sự sống. Phút gặp gỡ của nhà thơ Việt Nam Thanh Thảo với
Lorca đã làm nên một bài thơ còn nóng hổi hơi thở cuộc sống hiện đại, ca
ngợi người chiến sĩ trong đội ngũ đấu tranh vì tự do công lý, quyết không
cúi đầu trước các thế lực bạo tàn./.
Trần Hà Nam
Tôi đã yêu bài thơ này bằng tình yêu nguyên thủy của một chàng trai mới
lớn, vì cái chất lãng tử cứ hiện ra trên từng dòng thơ. Tưởng như Thanh
Thảo đã thật sự có những khoảnh khắc hoá thân, nhập vai để sống tận cùng
chất nghệ sĩ của G. Lorca. Trong một tập thơ mà anh từng tuyên bố : « Tôi
thích tỉnh rụi, tỉnh khô, tỉnh như sáo ...» thì bài thơ như một hiện hữu đối lập
của Khối vuông rubic. Nhưng đến giờ, ngẫm kỹ lại thì bài thơ vẫn rất tỉnh
vì đã đem lại cho người đọc một chân dung thật nhất, rõ nhất về G.Lorca –
nhà thơ, nhạc sĩ tài hoa của xứ sở bò tót và đấu sĩ.
Thanh Thảo là người có biệt tài ám ảnh người khác bằng cái tỉnh rụi như
không, khi viết những câu thơ tưởng không có gì mà nếu muốn bắt chước
anh viết thử như vậy thì chẳng khác nào nàng Đông Thi bắt chước Tây Thi
nhăn mặt để tự biến mình thành ngớ ngẩn. Từ một Đêm trên cát viết về Cao
Bá Quát bắt đầu với những mắt cá ngủ mê trong điện Thái Hoà - một ẩn dụ
để hiện lên sau đó một nhân vật đầy suy tư về thời đại, rất xưa mà rất mới –
cho đến một nỗi niềm ta như chú nghé thèm đám cỏ trong một bài thơ nho
nhỏ Đất Cù Trâu cũng vẫn là một ẩn ức được diễn tả một cách rất quái theo
kiểu Thanh Thảo. Dài dòng như vậy vì sau này tôi mới đọc anh nhiều để
nghiệm ra, còn lúc ấy dù rất ngạo mạn hay phê bậy bạ vào các trang thơ của
các tiền bối những lời chê phạm thượng (tất nhiên chẳng loại trừ anh), tôi đã
phải ghi ngay một chữ « Hay ! » bên lề trang sách ngay khi vừa đọc « những
tiếng đàn bọt nước ...».
Ám ảnh sắc màu đỏ gắt, âm thanh li-la li-la li-la cứ theo tôi suốt một thời
gian dài (sau này tôi mới kịp hiểu li-la còn là tên một loài hoa theo tiếng Tây
Ban Nha). Để rồi, theo bước chân chàng lãng tử , theo câu thơ lãng tử, tôi
chứng kiến một sự sống G.Lorca đi lang thang về miền đơn độc, đi như
người mộng du, tôi thả hồn theo tiếng ghi-ta nâu, tiếng ghi-ta lá xanh biết
mấy, tiếng ghi-ta tròn bọt nước vỡ tan, tiếng ghi-ta ròng ròng máu chảy.
Tưởng chừng tôi thấy rõ G.Lorca đối diện với họng súng mà tâm hồn còn
mải miết hướng về bầu trời cô gái ấy, không màng cái chết cận kề. Tôi theo
tiếng ghi-ta, theo hành trình Lorca bơi sang ngang trên chiếc ghi-ta màu
bạc... Tất cả làm thành một cảm tính thơ không thể cắt nghĩa cho đến tận
bây giờ đã hai mươi năm trôi qua vẫn còn nguyên vẹn. Giọt nước mắt vầng
trăng làm nên phút thăng hoa âm thanh bất diệt li-la li-la li-la cứ ngân mãi,
hoà quyện cả màu sắc, âm thanh, ánh sáng, sự sống thành một thể thống
nhất. Định Mệnh – lá bùa trôi vào xoáy nước khép lại một cuộc đời người
chiến sĩ chống phát-xít kiên cường, chàng ném trái tim mình vào lặng im bất
chợt, nhưng tiếng đàn – hồn thơ vẫn như lan toả trên dòng sông cuộc sống
vĩnh cửu, mà mỗi giọt – âm - thanh ấy tan hoà thành sắc li-la tím mãi màu
tưởng vọng.
Thanh Thảo đã từng viết : « Lorca là nhà thơ của những giấc mơ, của
những linh cảm nhoi nhói, một nhà thơ có thể biến những giấc mơ thành
nhịp điệu, có thể biến những linh cảm thành ngôn từ. Lorca siêu thực một
cách tự nhiên, và hiện thực một cách tự nhiên » (Lorca trong tôi – Mãi mãi
là bí mật, NXB Lao động, 2004). Một nhà thơ đã có một Lorca trong lòng
như vậy, nên Đàn ghi-ta của Lorca có thể xem như là một gặp gỡ đẹp tạo
thành phút « bùng nổ » của năng lượng sáng tạo Thanh Thảo. Với những bài
thơ như vậy, dường như mọi lời bình giải bỗng thành... vô duyên !
TRẦN HÀ NAM
(Bài đã đăng tạp chí Sông Trà)
Tôi đã yêu bài thơ này bằng tình yêu nguyên thủy của một chàng trai mới
lớn, vì cái chất lãng tử cứ hiện ra trên từng dòng thơ. Tưởng như Thanh
Thảo đã thật sự có những khoảnh khắc hoá thân, nhập vai để sống tận cùng
chất nghệ sĩ của G. Lorca. Trong một tập thơ mà anh từng tuyên bố : “Tôi
thích tỉnh rụi, tỉnh khô, tỉnh như sáo ...» thì bài thơ như một hiện hữu đối lập
của Khối vuông rubic. Nhưng đến giờ, ngẫm kỹ lại thì bài thơ vẫn rất tỉnh vì
đã đem lại cho người đọc một chân dung thật nhất, rõ nhất về G.Lorca – nhà
thơ, nhạc sĩ tài hoa của xứ sở bò tót và đấu sĩ.
Thanh Thảo là người có biệt tài ám ảnh người khác bằng cái tỉnh rụi như
không, khi viết những câu thơ tưởng không có gì mà nếu muốn bắt chước
anh viết thử như vậy thì chẳng khác nào nàng Đông Thi bắt chước Tây Thi
nhăn mặt để tự biến mình thành ngớ ngẩn. Từ một Đêm trên cát viết về Cao
Bá Quát bắt đầu với những mắt cá ngủ mê trong điện Thái Hoà - một ẩn dụ
để hiện lên sau đó một nhân vật đầy suy tư về thời đại, rất xưa mà rất mới –
cho đến một nỗi niềm ta như chú nghé thèm đám cỏ trong một bài thơ nho
nhỏ Đất Cù Trâu cũng vẫn là một ẩn ức được diễn tả một cách rất quái theo
kiểu Thanh Thảo. Dài dòng như vậy vì sau này tôi mới đọc anh nhiều để
nghiệm ra, còn lúc ấy dù rất ngạo mạn hay phê bậy bạ vào các trang thơ của
các tiền bối những lời chê phạm thượng (tất nhiên chẳng loại trừ anh), tôi đã
phải ghi ngay một chữ “Hay !” bên lề trang sách ngay khi vừa đọc “những
tiếng đàn bọt nước ...». Ám ảnh sắc màu đỏ gắt, âm thanh li-la li-la li-la cứ
theo tôi suốt một thời gian dài (sau này tôi mới kịp hiểu li-la còn là tên một
loài hoa theo tiếng Tây Ban Nha). Để rồi, theo bước chân chàng lãng tử ,
theo câu thơ lãng tử, tôi chứng kiến một sự sống G.Lorca đi lang thang về
miền đơn độc, đi như người mộng du, tôi thả hồn theo tiếng ghi-ta nâu, tiếng
ghi-ta lá xanh biết mấy, tiếng ghi-ta tròn bọt nước vỡ tan, tiếng ghi-ta ròng
ròng máu chảy. Tưởng chừng tôi thấy rõ G.Lorca đối diện với họng súng mà
tâm hồn còn mải miết hướng về bầu trời cô gái ấy, không màng cái chết cận
kề. Tôi theo tiếng ghi-ta, theo hành trình Lorca bơi sang ngang trên chiếc
ghi-ta màu bạc... Tất cả làm thành một cảm tính thơ không thể cắt nghĩa cho
đến tận bây giờ đã hai mươi năm trôi qua vẫn còn nguyên vẹn. Giọt nước
mắt vầng trăng làm nên phút thăng hoa âm thanh bất diệt li-la li-la li-la cứ
ngân mãi, hoà quyện cả màu sắc, âm thanh, ánh sáng, sự sống thành một thể
thống nhất. Định Mệnh – lá bùa trôi vào xoáy nước khép lại một cuộc đời
người chiến sĩ chống phát-xít kiên cường, chàng ném trái tim mình vào lặng
im bất chợt, nhưng tiếng đàn – hồn thơ vẫn như lan toả trên dòng sông cuộc
sống vĩnh cửu, mà mỗi giọt – âm - thanh ấy tan hoà thành sắc li-la tím mãi
màu tưởng vọng.
Thanh Thảo đã từng viết : “Lorca là nhà thơ của những giấc mơ, của
những linh cảm nhoi nhói, một nhà thơ có thể biến những giấc mơ thành
nhịp điệu, có thể biến những linh cảm thành ngôn từ. Lorca siêu thực một
cách tự nhiên, và hiện thực một cách tự nhiên” (Lorca trong tôi – Mãi mãi
là bí mật, NXB Lao động, 2004). Một nhà thơ đã có một Lorca trong lòng
như vậy, nên Đàn ghi-ta của Lorca có thể xem như là một gặp gỡ đẹp tạo
thành phút “bùng nổ” của năng lượng sáng tạo Thanh Thảo. Với những bài
thơ như vậy, dường như mọi lời bình giải bỗng thành... vô duyên !
TRẦN HÀ NAM
Nòi nghệ sĩ vốn dễ đồng bệnh tương lân. Do đồng bệnh mà đồng điệu. Cho
nên, có một cách để hiểu một kẻ viết : cứ xem anh viết về ai, có thể biết anh
là ai. Trong các thi sĩ nội, Thanh Thảo mê nhất Nguyễn Đình Chiểu, Cao Bá
Quát, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Văn Cao, Đặng Đình Hưng... Còn
những thi sĩ ngoại, thấy anh viết đậm về Aragông, Êxênhin, Maicôpxki,
Pasternac, Lorca... Về từng vị đều có những kí thác, những đồng điệu riêng.
Nhưng, trong số những tay bút Tây phương anh ngưỡng mộ, thì trường hợp
về Lorca, xem ra, thành công hơn cả. Là một nhà thơ lớn của Tây Ban Nha
hiện đại, Lorca đã đem được chất dân gian Anđaluxia cùng sức sống của xứ
sở bò tót vào thơ mình. Lại thạo dân nhạc, ông thường thích đi khắp xứ như
một gã Digan đơn độc mà hát lên những bài thơ của mình như những khúc
romance, ballad. Bởi vậy, Lorca như một nghệ sĩ kép : thi si kiêm nhạc sĩ.
Cũng bởi vậy nhiều bài thơ Lorca thường sống cuộc đời kép : thi phẩm và
nhạc phẩm (1). Có người sẽ nghĩ : thơ về một nghệ sĩ độc đáo như thế, nếu
có được một hình thức kép nữa thì thật là tam hợp ! Nhưng, tam hợp lại dễ
sinh tam tai. Thanh Thảo không dại thế. Vả, làm thế cũng đâu ra võ của anh.
Không thuộc kiểu thi sĩ mớm thơ cho nhạc, càng không phải một tay vãi
nhạc vào thơ. Anh vẫn đi lại với nhạc, nhưng theo chiêu riêng : vừa nhập cấu
trúc ca khúc vào lòng bài thơ vừa khảm thêm tiếng nhạc vào lời thơ. Nên, dù
dan díu với nhạc, trước sau thơ anh vẫn luôn là thơ. Ngoài vốn thi liệu được
tái chế, tái tạo từ di sản thơ của chính Lorca, thì ngôn ngữ của nhạc, cấu trúc
của ca khúc sẽ bắc những nhịp cầu tương giao để hồn kẻ hậu sinh nói lời
đồng điệu với bậc tiền nhân của xứ sở Tây ban cầm. Ngón ấy chẳng tương
thích sao ? Đàn ghi-ta của Lorca chính là một lối thơ mà ở đó lời thơ đã
cườm vào nét nhạc, hình tượng thơ đã cùng cấu trúc nhạc bay đôi. Thậm chí,
để tiếng nói của thơ mình thêm phong phú, Thanh Thảo còn mô phỏng
những âm thanh từa tựa các nốt đàn ghita, mô phỏng cả lối diễn tấu vẫn
thường đệm cho người hát khi diễn
nữa.
*
Thanh Thảo đã chọn thời điểm bi phẫn nhất của cuộc đời Lorka cho cảm
hứng của thi phẩm : lúc ông bị bắn chết. Lorca luôn dự cảm và bị ám ảnh
khôn nguôi bởi cái chết. Nhưng ông cũng không thể ngờ cái chết phũ phàng
nhất đã ập xuống thân phận mình. Đối với lòng tiếc thương, mọi cái chết đều
ngang trái. Cái chết của Lorca càng ngang trái bội phần. Vì ông bị phatxit
giết hại khi mới 37 tuổi, xác ông còn bị chúng quẳng xuống một cái giếng để
phi tang. Mất mát kinh hoàng là thế, nhưng oái oăm thay, cái chết còn là một
giải thoát. Giải thoát bất đắc dĩ nhưng hoàn toàn. Hẳn suy tư Thanh Thảo đã
bị vây ám giữa những phản trái kia của cái chết. Nhất là lúc anh đọc được
cái câu như một lời nguyện cuối, một di chúc viết sớm của Lorca : Khi tôi
chết hãy chôn tôi với cây đàn ghi-ta. Và thế là thi phẩm đã tự chọn cho nó
một hình hài : vừa là thơ viếng vừa như một bi ca.
*
Có một cách mà từ xưa người ta đã dùng đến "mệt mỏi", trong những trường
hợp thế này, là : lấy tên các tác phẩm của người ấy hay lời văn trong đó đem
ghép lại với nhau cho chúng tạo ra một nội dung nào đó(2). Thanh Thảo
chọn cách khác. Thi liệu anh viết về Lorca toàn là những thi ảnh rất ám
trong thế giới nghệ thuật của chính Lorca, mà sau những lãng quên chúng
vẫn không thôi đeo bám Thanh Thảo : đàn ghi-ta, bài ca mộng du, con ngựa
đen, vầng trăng đỏ, chàng kĩ sĩ đơn độc, áo choàng đấu sĩ, sắc máu đấu
trường, cô gái Di gan, lá bùa hộ mệnh, hoa tử đinh hương... Và, tất nhiên,
làm sao có thể thiếu được dòng sông cùng với cỏ mọc hoang vốn là những
hình ảnh - biểu tượng từ lâu vẫn miên man với ngòi thơ Thanh Thảo ! Cảm
hứng vụt dậy thì liền gọi luôn những đạo quân ấy về cho cùng đầu quân (đầu
thai thì đúng hơn) vào thi phẩm này. Nhờ đó, hình tượng Lorca và suy cảm
Thanh Thảo đã nói chung một thứ tiếng là dòng thi liệu đã trộn vào nhau đó.
Thì tương giao, tâm giao cũng còn là thế chứ sao ?
Trong xử lý thi liệu, Thanh Thảo có dùng những lối kết hợp khá phổ biến ở
thơ tượng trưng. Ta gặp những Tiếng đàn bọt nước, tiếng ghi-ta nâu, tiếng
ghi-ta lá xanh, tiếng ghi-ta tròn, tiếng ghi-ta ròng ròng máu chảy, về miền
đơn độc, vầng trăng chếnh choáng, chôn cất tiếng đàn, đường chỉ tay, dòng
sông rộng... Nhiều thi ảnh được tượng trưng hoá, khiến chúng có dạng một
hình thể chứa nhiều hình ảnh. Đường chỉ tay là hiện thân của thiên mệnh.
Đường chỉ tay đã đứt tượng trưng cho cú giáng phũ phàng trái ngang của số
mệnh. Chiếc ghi-ta tượng trưng cho âm nhạc và thơ ca. Nó là cây đàn lia của
chàng nghệ sĩ tài hoa. Chiếc ghita màu bạc là biến ảnh của chiếc ghi-ta nâu
khi đã sang cõi khác. Đúng hơn, là chiếc ghi-ta đã hoá, giờ sang cõi siêu
sinh. Thi sĩ bơi trên chiếc ghi-ta chính là bơi trên con thuyền của thi ca đang
vượt qua bến bờ sinh tử. Lá bùa cô gái di-gan là cái đẹp huyền bí. Xoáy
nước là tai hoạ định mệnh trên dòng sông của số phận, cũng là cái dòng sông
ranh giới giữa cõi sống và cõi chết, giữa thực tại và hư vô. Hành động ném
lá bùa và ném trái tim đều giàu hàm ý tượng trưng về sự giã từ, sự giải thoát
của Lorca... Lối viết này không còn xa lạ đối với người đọc thơ Xuân Diệu,
Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Chế Lan Viên hay nhóm Xuân Thu nhã tập hồi Thơ
Mới. Nhưng, nó đã được Thanh Thảo dùng nhuần nhị và ăn nhập để tạo ra
cho thơ mình một cách nói hàm súc. Riêng cái câu giọt nư¬ớc mắt vầng
trăng trong đoạn bày tỏ nỗi đau xót và tiếc thương trước cái chết hết sức
thương tâm của Lorca mà lời thơ kết hợp cả trượng trưng thơ Đường với
tượng trưng Thơ Mới :
không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như¬ cỏ mọc hoang
giọt nư¬ớc mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng
cũng thấy được vẻ súc tích của nó. Có phải câu ấy được viết theo lối "nghệ
thuật sắp đặt" không, mà cứ đơn giản y như đặt hai hình ảnh bên nhau : giọt
nước mắt - vầng trăng thế thôi ? Giữa chúng chẳng có một quan hệ từ nào.
Thì ra, lắm khi, việc tước bỏ quan hệ từ lại là cách gia tăng nghĩa cho hình
ảnh và lời thơ. Vì giờ đây, giữa chúng lại có thể phát sinh nhiều kiểu quan
hệ, tạo ra nhiều làn nghĩa : 1) quan hệ đẳng lập : giọt nước mắt (và) vầng
trăng ; 2) quan hệ song song : giọt nước mắt (với) vầng trăng ; 3) quan hệ so
sánh : giọt nước mắt (như) vầng trăng ; 4) quan hệ sở hữu : giọt nước mắt
(của) vầng trăng ; 5) quan hệ đồng nhất : giọt nước mắt (là) vầng trăng...
Người đọc có một thoáng phân vân : vậy ý thực của câu thơ sẽ theo nghĩa
nào ? Nhưng thoáng ấy sẽ qua nhanh bởi chỉ có câu trả lời duy nhất : nó phải
là sự giao thoa và lung linh của tất cả các làn nghĩa ấy. Chẳng thế sao, trong
mạch cảm xúc, trong hình tượng chủ đạo cũng như cấu tứ, các làn nghĩa kia
đâu có loại trừ nhau. Trái lại, chúng làm giàu và làm đẹp cho nhau cả thôi.
Vậy chả súc tích
sao ? *
Còn mạch triển khai của thi phẩm lại là hợp lưu của cả hai dòng tự sự và
nhạc. Việc tái hiện sự kiện Lorca bị hành hình với những diễn biến phũ
phàng, dù chỉ là chấm phá, cũng đã ít nhiều đem lại một cái "cốt" cho thi
phẩm. Muốn kể, thì cũng kể được đôi chút. Tâm tư người đọc bị cuốn ngay
vào mạch kể qua các diễn biến ấy với những kinh hoàng, đau đớn và tiếc
thương cho một con người vô tội, một bậc tài hoa oan khuất. Nhưng, dường
như cái mạch kia còn tuân theo các bước phát triển thuộc về cấu trúc của
một ca khúc nữa. Sự kiện Lorca bị hành hình vào bài thơ này đã dàn thành
bốn phần nội dung với những khúc có dụng ý hẳn hoi về độ dài và tiết nhịp.
Đầu tiên, phần giới thiệu, là hình ảnh Lorca theo lối ấn tượng : những tiếng
đàn bọt nư¬ớc / Tây - ban - nha áo choàng đỏ gắt / li-la li-la li-la / đi lang
thang về miền đơn độc / với vầng trăng chếnh choáng / trên yên ngựa mỏi
mòn. Tiếp nối, phần phát triển, Lorca bị giết : Tây - ban - nha / hát nghêu
ngao / bỗng kinh hoàng / áo choàng bê bết đỏ / Lorca bị điệu về bãi bắn /
chàng đi như¬ ngư¬ời mộng du. Kế đó, phần cao trào, là nỗi tiếc thương
trước sự thực phũ phàng : tiếng ghi-ta nâu / bầu trời cô gái ấy / tiếng ghi-ta
lá xanh biết mấy / tiếng ghi-ta tròn bọt nư¬ớc vỡ tan / tiếng ghi-ta ròng
ròng / máu chảy // không ai chôn cất tiếng đàn / tiếng đàn như¬ cỏ mọc
hoang / giọt nư¬ớc mắt vầng trăng / long lanh trong đáy giếng. Và cuối
cùng, phần kết, với hình ảnh Lorca lìa bỏ tất cả và giải thoát : đư¬ờng chỉ
tay đã đứt / dòng sông rộng vô cùng / Lorca bơi sang ngang / trên chiếc ghita màu bạc // chàng ném lá bùa cô gái di-gan / vào xoáy n¬ước / chàng ném
trái tim mình / vào lặng yên bất chợt / li-la li-la li-la... Tất nhiên, trước sau,
đây vẫn là sản phẩm thơ chứ không phải là một sản phẩm nhạc. Nên các
bước của cấu trúc này không thể "cóp" y sì theo lối "một ăn một" với những
bước chuyển gam như trong một nhạc phẩm thực sự được. Mà làm cách ấy
đối với thơ, chắc gì tránh khỏi sống sượng? Chiêu thức nhuần nhuyễn nhất,
có lẽ là thế : nhập cấu trúc ca khúc vào với cốt tự sự để chúng đồng thể với
nhau.
Nếu chỉ dừng lại ở đó không thôi thì sắc thái ca khúc trong việc tổ chức
mạch thơ hãy còn mơ hồ, chưa thuyết phục.
Thú vị và bất ngờ nhất là việc khảm vào mạch ấy những âm thanh như cách
diễn tấu của nhạc công khi đệm cho người hát một ca khúc. Sự có mặt của
hai chuỗi li-la li-la li-la ở phần đầu và phần kết là thế. Thú thực, khi mới đọc
bài thơ này trong tập Khối vuông Rubic, tôi thấy cái chuỗi kia là một nét lạ,
nhưng nhác nghĩ : lại một trò "tân hình thức" đây. Cha Thanh Thảo này cũng
bày đặt gớm. Nhưng đọc kĩ hơn thì thấy hình như có một nghĩa lý nào đó
hay hay, chứ không hẳn chỉ là những con âm rỗng nghĩa. Nhưng thực hư ra
sao, thì cứ tù mà tù mù. Mãi sau, đọc kĩ hơn vào cấu trúc mới vỡ lẽ : té ra
đây lại là sự giao duyên kì thú của thơ và nhạc. Cụ thể là giao thoa giữa
thanh âm và thi ảnh. Mở đầu là hai câu : Những tiếng đàn bọt nước / Tây
Ban Nha áo choàng đỏ gắt. Thanh Thảo chọn hai hình ảnh này khởi đầu một
thi phẩm giống như kiểu tạo những âm chủ cho một nhạc phẩm. Chúng là
những tương phản kín đáo mà gay gắt : âm thanh hồn nhiên - sắc màu chói
gắt, tiếng đàn thảo dân - áo choàng đấu sĩ, vẻ khiêm nhường - sự ngạo nghễ,
niềm hân hoan - nỗi kinh hoàng, nghệ thuật - bạo lực, thân phận bọt bèo thực tại tàn khốc... Cặp hình ảnh cứ ngỡ tương phùng nào ngờ lại tương
tranh. Nội dung chủ đạo mà thi phẩm triển khai sẽ là phận người trong một
hiện thực đầy tranh chấp đối chọi như thế. Rồi ngay sau hai câu mào đầu đó
là chuỗi âm thanh li-la li-la li-la. Nó như một chuỗi nốt đàn buông do người
đệm đàn (ghi ta) lướt qua hàng dây để kết thúc phần dạo, đánh dấu khoảng
ngắt cho người hát chính thức bắt lời trình diễn ca khúc. Và thi phẩm cũng
kết thúc bằng sự trở lại của chuỗi âm thanh ấy. Nó tựa những tiếng đàn đệm
cuối cùng nhằm tạo những dư âm sau khi lời hát đã ngừng. Đấy chẳng phải
là một lối phối âm quen thuộc trong diễn tấu ca khúc sao ? Mà cũng có thể
hình dung nó như tiếng huýt sáo ngẫu hứng của người ca sĩ trên nền nhạc
khi diễn tấu. Ngẫu hứng mà đầy xao xuyến. Khi âm thanh gây niềm xao
xuyến thì tự nó cũng chất chứa thi vị chứ sao !
Song, nếu chỉ có thế, thì việc phỏng âm nhạc ấy bất quá, cũng chưa đi xa
hơn bao nhiêu một trò trang sức hoa mĩ. Về nghĩa, lila lại chính là một loài
hoa có màu tím ngát rất được người phương Tây ưa chuộng : hoa lila - tức
hoa tử đinh hương. Chuỗi âm thanh kế tiếp gợi hình ảnh những tràng hoa
chuỗi hoa bật tím liên tiếp. Đó là những đoá hoa người đời, người thơ thầm
kính viếng hương hồn Lorca hay chính là ngàn muôn đoá hoa của sự sống
đang nảy nở từ cái chết đau thương của nhà thi sĩ, thể hiện sức sống bất diệt
của những giá trị chân chính trên cõi đời này ? Có thể là thế này, có thể là
thế kia, mà có lẽ là cả hai. Vì thế, chính cái chuỗi âm thanh ngỡ không đâu
ấy lại chứa đựng rất nhiều cảm thương, niềm tin và lòng ngưỡng mộ sâu kín
của người viết. Thiếu ý nghĩa của một thi ảnh, chuỗi li la kia khó vượt qua
một trò diễn âm thanh cầu kì.
*
Mỗi nghệ phẩm là một sản phẩm không lặp lại. Không chỉ nội dung, mà
ngay cả hình thức. Năng lượng sáng tạo có thể tích tụ lâu dài trong cả ý thức
và tiềm thức, bằng cả vốn sống, vốn văn hoá cùng kinh nghiệm nghệ thuật.
Nhưng nó chỉ xuất ra có một lần. Mỗi bài thơ là một lần loé sáng, một tia lửa
không lặp lại. Tôi ngờ, bản thân người viết cũng chẳng bao giờ kiểm soát hết
được những gì loé lên trong tia lửa ấy. Sáng tạo nghệ thuật là thế ; phải thế
mới là nghệ thuật. Thanh Thảo có thể sử dụng tiếp những chiêu y sì thế này
để viết thi phẩm khác nữa không ? Nếu có, e rằng khó tránh khỏi hậu quả
của nhân bản vô tính về hình thức. Là người ham tìm tòi cách tân, Thanh
Thảo hiểu rõ điều đó. "Với những bài thơ hay - anh viết, thi sĩ sáng tạo với
toàn bộ thể chất và tâm linh mình, và không biết cái nào bắt đầu trước : thể
xác hay tâm linh ? đó là những bài thơ ngư¬ời ta chỉ phóng ra có một lần,
xuất ra có một lần, rồi ngắt. Phần tích điện, phần thu góp là cả một quá trình
nhưng sáng tạo là khoảnh khắc. Khoảnh khắc ấy xảy ra càng đột ngột bao
nhiêu càng tốt bấy nhiêu".Và anh cũng tâm niệm : "Những ngư¬ời tìm đến
sự hoàn mĩ của hình thức nghệ thuật thường dễ gặp nhau. Mà trong nghệ
thuật, trong thơ, hình thức là gì ? Hình thức chính là sự hiện diện nghệ thuật
riêng của từng nghệ sĩ. Không có cái hình thức đó thì cũng chẳng bao giờ có
nghệ
thuật. (3) Tôi nghĩ, với thi phẩm nàychẳng hạn, anh đã có được điều đó.
Bắt đầu từ năm học 2008-2009, bài thơ " Đàn ghi-ta của Lor-ca" của nhà
thơ Thanh Thảo được chính thức đưa vào chương trình ngữ văn lớp 12. Để
giúp các thầy cô giáo và học sinh lớp 12 có điều kiện hiểu thêm về nhà thơ
Lor-ca và sáng tác thơ của Ông, cũng như hiểu thêm bài thơ viết về Lor-ca
của Thanh Thảo, xin giới thiệu một bài viết của nhà thơ Thanh Thảo về Lorca và về xuất xứ của bài thơ "Đàn ghi-ta của Lor-ca".
LORCA TRONG TÔI
"Tôi không muốn nhìn thấy máu!" ( ! Que no quiero verla!), Lorca đã
thảng thốt kêu lên trong một bài thơ định mệnh của mình, bài "Bi ca cho
Ignacio Sanchez Mejias". Nhưng "máu đã chảy tràn" chỉ một năm sau khi
bài thơ tuyệt tác này ra đời, và máu đó chính của Lorca. Nhà thơ đã không
nhìn thấy máu mình chảy tràn trên đất Tây Ban Nha. Nhưng toàn thế giới đã
thấy, và đã kêu nghẹn lên câu thơ "Tôi không muốn nhìn thấy máu!".
Linh cảm về "một cái chết được báo trước" luôn ám ảnh Lorca, và chính nó
đã trở thành một trong những động lực lớn nhất của thơ ông. Tình yêu, sự
chết và cái đẹp là ba nỗi ám ảnh lớn trong thơ Lorca, nó hoán đổi nhau, cái
này là tiền đề cho cái kia, kết thành một vòng tròn vĩnh hằng. Lorca đã chấp
nhận và tôn vinh sự chết như đã chấp nhận và tôn vinh tình yêu, cái đẹp vì
ông đã thấy trong cái đẹp có sự chết cũng như trong cái chết có tình yêu.
Trong bài thơ "Bài ca mộng du", khi hai người bạn mê man trèo lên lan can
cao tít, "lan can của vầng trăng - nơi nước gieo vang dội", họ trèo lên và để
lại phía sau những vệt máu, vệt nước mắt, để lại phía sau cả cuộc đời họ để
đi tới tận cùng khát vọng của mình, tình yêu của mình, cái đẹp của đời và cái
chết của mình. Hình ảnh cuối cùng mà họ nhìn thấy là một nàng di-gan đong
đưa, móc nối vào "nhũ băng vầng trăng" mà đong đưa, hình ảnh rõ nhất của
cái đẹp và sự chết hòa trộn vào nhau. Nhưng:
"đêm bỗng dưng thân thiết
như một chốn quê nào
đám dân phòng say xỉn
đập vào cửa ồn ào"
Cái hình ảnh quá xoàng xĩnh ấy bỗng dưng thành biểu tượng của đời sống,
bỗng dưng thân thiết đến nghẹn ngào trước đôi mắt sắp khép lại vĩnh viễn
của nhà thơ. Trong những bài thơ đẹp nhất, du dương nhất Lorca thỉnh
thoảng vẫn có những "cú rơi" như thế, những cú rơi khiến ta phải chới với
hai tay mình mong ghì siết lấy đời sống, tình yêu và cái đẹp, ghì siết mà cảm
một cách da thịt rằng mình đang ôm ghì cái chết. Lorca là nhà thơ của những
giấc mơ, của những linh cảm nhoi nhói, một nhà thơ có thể biến những giấc
mơ thành nhịp điệu, có thể biến những linh cảm thành ngôn ngữ. Lorca siêu
thực một cách tự nhiên, và hiện thực một cách tự nhiên. Năng lượng sáng
tạo trong ông nhiều tới mức dường như ông phóng bút là thành thơ, mở
miệng là thành những khúc romance, ballad... "Khi tôi chết - hãy chôn tôi
với cây đàn ghi-ta", cây đàn ghi-ta ở đây giống như cây đàn lyre, là biểu
tượng của thi ca, khởi phát và giữ nhịp cho thơ ca, chứ không đơn giản như
có nhạc sĩ ở ta nhầm nó là "cây đàn ghi-ta - của Victo Hara" hay "cây đàn
ghi-ta, của đại đội ba". Lorca muốn được chết "tử tế trên giường mình",
muốn được nằm trong đất cùng với cây đàn thơ của mình, nhưng sự Tàn Bạo
lại không muốn vậy. Bởi bọn phát xít là giống ruồi nhặng, chúng là cái chết
mang hình con nhặng, "cái chết đẻ trứng vào vết thương" như một câu thơ
tuyệt vời của Lorca đã chỉ chính xác. Mà những vết thương như thế có quá
nhiều trong thơ Lorca, nó song hành với hình ảnh một chàng kỵ sĩ cô đơn
"con ngựa đen, vầng trăng đỏ", với hình ảnh nàng di-gan như ngọn lửa xanh
"xanh thân hình, xanh tóc". Và Lorca hỏi: "Há anh không thấy vết thương
tôi - Từ ngực lên tới cổ?" Khi Lorca cầm trên tay cây đàn thơ của mình,
chàng như một torero (đấu sĩ) bước vào đấu trường trong cuộc chiến một
mất một còn với con-bò-tót-định-mệnh, một "con bò cô đơn với trái tim cao
- Xem thêm -