Đăng ký Đăng nhập

Tài liệu Tong hop cau hoi tcdn (20 cau)

.DOCX
16
438
119

Mô tả:

ÔN TẬP TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 2 1. Một doanh nghiệp có rủi ro cao thì lợi nhuận sẽ lớn? Sử dụng nguyên tắc doanh lợi và rủi ro trong tài chính doanh nghiệp, bình luận ý kiến trên. 2. Nêu một ví dụ thực tế về nguyên tắc giá trị thời gian của tiền trong quản lý tài chính doanh nghiệp? Cho biết tầm quan trọng của nguyên tắc này trong quản lý tài chính? 3. Khả năng hoạt động của doanh nghiệp được phân tích thông qua báo cáo tài chính như thế nào? Bình luận về những báo cáo tài chính của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam? 4. Cách xác định chi phí vốn trung bình của doanh nghiệp 5. Nhận xét vấn đề về chi phí vốn của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. 6. Chứng khoán phái sinh 7. Có ý kiến cho rằng, chi phí vốn chủ sở hữu luôn thấp hơn chi phí nợ vay. Bình luận ý kiến trên? Tại sao các doanh nghiệp niêm yết của Việt Nam lại ưa thích phát hành cổ phiếu hơn là phát hành trái phiếu để tăng vốn? 8. Một doanh nghiệp sử dụng càng nhiều nợ thì càng có lợi? Hãy bình luận ý kiến trên và liên hệ tình hình thực tế ở Việt Nam hiện nay? 9. Phân tích mối quan hệ giữa chi phí vốn và tỷ lệ chiết khấu được sử dụng trong đánh giá hiệu quả tài chính dự án đầu tư. 10. Mức “ Thu sử dụng vốn ngân sách nhà nước” ở Việt Nam được quy định giảm, khoản thu này có xu hướng bị loại bỏ. Hãy phân tích. 11. Sử dụng nợ luôn bất lợi cho DN? 12. Lý thuyết về thị trg hiệu quả? Qđịnh trong thị trg ntn? 13. Trình bày mối liên hệ giữa các bảng báo cáo tài chính của doanh nghiệp 14. Khả năng thanh toán của DN được pt ntn thông qua các BCTC? Nhận xét về tình hình pt TC của các doanh nghiệp VN hiện tại. 15. Phân biệt DT và thu, CP và chi. 16. Trả cổ tức bằng tiền tốt or không? Chính sách cổ tức 17. Việc tăng thuế TNDN trong khi các yếu tố khác ko đổi chắc chắn làm giảm tỷ lệ nợ trong cơ cấu vốn 18. Cơ cấu vốn và chi phí vốn của DN. Nhận xét về cơ cấu vốn của DN VN hiện nay 19. Đòn bẩy tài chính tạo ra rủi ro tài chính. Tại sao các nhà quản trị không loại bỏ rủi ro này bằng cách chỉ tài trợ cho hoạt động kinh doanh bằng vốn cổ phần, tránh sử dụng Nợ vay? 20. Tại sao nói đòn bẩy kinh doanh là đòn bẩy giai đoạn đầu, đòn bẩy tài chính là đòn bẩy giai đoạn sau? 1. Một doanh nghiệp có rủi ro cao thì lợi nhuận sẽ lớn? Sử dụng nguyên tắc doanh lợi và rủi ro trong tài chính doanh nghiệp, bình luận ý kiến trên. Lợi nhuận của một khoản đầu tư được hiểu là phần chênh lệch giữa kết quả thu được sau một khoảng thời gian đầu tư và phần vốn gốc mà nhà đầu tư bỏ ra. Lợi nhuận thực tế phản ánh kết quả của hoạt động kinh doanh đã được thực hiện trong khi đó, lợi nhuận kì vọng cho biết mong đợi của nhà đầu tư về kết quả hoạt động kinh doanh trong tương lai. Rủi ro là khả năng hay xác suất xảy ra những kết quả đầu tư ngoài dự kiến hay là khả năng làm cho mức sinh lời thực tế nhận được trong tương lai khác với mức sinh lời dự kiến ban đầu. Khi rủi ro càng lớn tức là khả năng xảy ra sai biệt giữa lợi nhuận kì vọng và lợi nhuận thực tế càng cao. Doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực có độ rủi ro cao tương đương với doanh nghiệp có kì vọng lợi nhuận thu được cao. Nếu hoạt động hiệu quả, DN sẽ thu được lợi nhuận lớn, ngược lại hoạt động kém hiệu quả, chịu thua lỗ thì tồn thất mà DN phải chịu không hề nhỏ. Vậy có thể thấy, rủi ro cao thì lợi nhuận kì vọng cao hay DN muốn có lợi nhuận cao thì phải chấp nhận mức độ rủi ro cao tương ứng chứ không phải “ DN có rủi ro cao thì LN sẽ lớn”. Ý kiến trên vì thế không chính xác. 2. Nêu một ví dụ thực tế về nguyên tắc giá trị thời gian của tiền trong quản lý tài chính doanh nghiệp? Cho biết tầm quan trọng của nguyên tắc này trong quản lý tài chính? Ví dụ minh họa : Một doanh nghiệp đầu tư 100 triệu vào trái phiếu chính phủ kì hạn 2 năm lãi suất coupon là 8%/năm. Lãi suất chiết khấu trên thị trường là 8%/năm. (thị giá=mệnh giá tại thời điểm hôm nay) Sau 1 năm, thu nhập doanh nghiệp nhận được từ khoản đầu tư là : 100*0.08=8 triệu Tại thời điểm đáo hạn, doanh nghiệp nhận được khoản thu nhập là: 100+8= 108 triệu Giá trị tương lai của khoản đầu tư 100 triệu ngày hôm nay là : 8*(1+8%)+108=116.64 triệu (giả sử lãi suất tái đầu tư của khoản coupon nhân được năm 1 là 8%) Giá trị hiện tại của khoản thu nhập 116.64 triệu 2 năm sau là 100 triệu ngày hôm nay (= 8/1.08+108/1.08^2). Tầm quan trọng của nguyên tắc này trong quản lý tài chính: (Phần này mình có đáp án từ TCDN1 cũng khá đầy đủ, khi nào đi in tlieu, mình photo luon trang này cho mọi người.Lười đánh lại.:D) 3. Khả năng hoạt động của doanh nghiệp được phân tích thông qua báo cáo tài chính như thế nào? Bình luận về những báo cáo tài chính của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam? Khả năng hoạt động của doanh nghiệp được ptich thông qua báo cáo tài chính ( trang 47 Gtrinh TCDN- Các tỷ số về khả năng hoạt động ) Bình luận về những báo cáo tài chính của doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam : Thực trạng chất lượng BCTC tại các công ty cổ phần niêm yết trên TTCK Việt Nam Ưu điểm: - Nhìn chung, các CTCP niêm yết đã tuân thủ quy định lập và nộp BCTC định kỳ. Những công ty lớn, có thương hiệu, uy tín trên thị trường chấp hành tốt theo đúng quy định tại QĐ15/2006/QĐ-BTC, tạo ra các báo cáo có chất lượng tốt, thông tin đầy đủ giúp cho các đối tượng sử dụng đưa ra quyết định dễ dàng hơn. - Với quy định hiện nay báo cáo lưu chuyển tiền tệ là báo cáo bắt buộc trong hệ thống báo cáo đã giúp các nhà đầu tư, ngân hàng, chủ nợ… thấy được nguồn tiền hiện tại của công ty. - Bảng thuyết minh BCTC được trình bày chi tiết cung cấp cho người sử dụng đủ thông tin về công ty (vốn chủ sở hữu, tình hình đầu tư, các khoản vay…). Bảng cân đối kế toán và Thuyết minh BCTC được đặt trong mối quan hệ chặt chẽ giúp cho người sử dụng BCTC của công ty đánh giá được tình hình tài chính của công ty - Một số công ty khi lập BCTC hợp nhất đã sử dụng phương pháp vốn chủ sở hữu để hạch toán các khoản đầu tư tài chính cung cấp thông tin trung thực về giá trị tài chính hiện tại của các khoản đầu tư. Hạn chế và nguyên nhân: Dưới góc độ các cơ quan ban hành chính sách và quản lý kinh tế Nhà nước: - Chuẩn mực kế toán Việt Nam còn một số hạn chế và chưa phù hợp so với thay đổi của nền kinh tế. Một số nghiệp vụ trên thực tế đã xuất hiện nhưng chưa có chuẩn mực, thông tư hướng dẫn rõ ràng gây khó khăn cho các công ty khi thực hiện. Những khác biệt thực tế giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) và chuẩn mực BCTC quốc tế (IFRS) có ảnh hưởng lớn đến đối tượng sử dụng BCTC. Liên quan đến các khoản đầu tư chứng khoán (theo phương pháp giá gốc và phương pháp vốn chủ sở hữu): một số chuẩn mực kế toán chưa được soạn thảo hướng dẫn đúng và chi tiết để thực sự làm được trong thực tế như VAS 07, 08, 10,16, 25, 26; chưa hướng dẫn cụ thể phương pháp vốn chủ sở hữu (chỉ mới có TT 161/2007-BTC - chuyển từ BCTC riêng theo phương pháp giá gốc sang BCTC hợp nhất theo phương pháp vốn chủ sở hữu). - Ở một số nước đã có quy định rằng các BCTC phải công bố thông tin về thu nhập của hội đồng quản trị và ban giám đốc bao gồm các khoản thu nhập bằng tiền mặt, cổ phiếu ưu đãi, quyền mua cổ phiếu, cổ phiếu được cấp và giá trị các khoản lợi khác. Ở Việt Nam chưa có quy định này, điều này làm thiệt hại đến các cổ đông nhỏ, các cổ đông không nằm trong ban điều hành trong việc biểu quyết thông qua các phương án phát hành cổ phiếu ưu đãi cho các cán bộ điều hành chủ chốt của công ty. - Báo cáo thay đổi vốn chủ sở hữu là báo cáo quan trọng đối với các công ty cổ phần vì báo cáo này cho biết lợi ích của cổ đông. Ở Việt Nam báo cáo này chưa phải là báo cáo bắt buộc trong hệ thống BCTC, các thuyết minh trong BCTC về chỉ tiêu này chỉ nêu tóm tắt, sơ sài. Dưới góc độ các công ty cổ phần niêm yết: - CTCP đưa ra với nhiều lý do khác nhau khi công bố thông tin chậm so với quy định, tình trạng công bố thông tin theo kiểu đánh đố cũng được nhiều công ty áp dụng như có công ty để file word, excel, PDF (cả PDF từ word chuyển sang lẫn file scan bản cứng), thậm chí có công ty công bố BCTC bằng hàng chục bức ảnh chụp các trang tài liệu cứng. - Phần lớn các công ty thuyết minh BCTC sơ sài, chính sách kế toán áp dụng nêu rất chung và thường trích dẫn theo chuẩn mực kế toán là chính, nhiều khoản mục thực tế không có số liệu phát sinh tại công ty nhưng vẫn có thuyết minh chính sách về khoản mục đó. Phần các thông tin khác như nợ tiềm tàng, thông tin về các bên liên quan, báo cáo bộ phận... nhiều công ty có trình bày nhưng không kỹ hoặc không trình bày. Chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp hay bị bỏ qua không thuyết minh. Các khoản đầu tư, dự phòng, hàng tồn kho, chi phí trả trước... chủ yếu diễn giải các số liệu, không thuyết minh cụ thể. Một số thuyết minh ghi chú xem các phụ lục nhưng công ty không đính kèm phụ lục. - Các công ty phải lập BCTC hợp nhất chưa biết phương pháp điều chỉnh giá gốc trong BCTC riêng sang phương pháp vốn chủ sở hữu trong BCTC hợp nhất. Ban giám đốc, hội đồng quản trị, ban kiểm soát... chưa thực sự quan tâm đến thông tin đầu tư tài chính theo phương pháp vốn chủ sở hữu; Các đối tượng sử dụng BCTC quen với thông tin được báo cáo theo giá gốc; Một số công ty kiểm toán độc lập khi lập báo cáo kiểm toán đã không nêu bật những sai sót này, cho rằng sai sót không trọng yếu hoặc loại trừ khi báo cáo kiểm toán phát hành... - Một số công ty có đầu tư tài chính không trích lập dự phòng giảm giá đầu tư tài chính hoặc trích lập không đủ, không thực hiện trích lập dự phòng trong báo cáo quý, và sau khi kiểm toán năm đã có một sự điều chỉnh giảm lớn về lợi nhuận của mình do công ty trích lập thêm dự phòng đầu tư tài chính. Việc trích lập dự phòng cho danh mục hàng tồn kho, công nợ cũng chưa được các công ty tuân thủ theo đúng yêu cầu của chuẩn mực. - Các công ty hoạt động trong ngành xây dựng chiếm tỷ trọng khá nhiều trong các công ty cổ phần niêm yết trên thị trường hiện nay. Phần lớn các công ty hạch toán doanh thu theo trường hợp thanh toán theo giá trị khối lượng thực hiện, vì cách này đã quen thuộc với các công ty trước đây (theo Chuẩn mực kế toán số 15 về Hợp đồng xây dựng, có hai hình thức thanh toán là thanh toán theo tiến độ kế hoạch và thanh toán theo giá trị khối lượng thực hiện) - Liên quan đến BCTC đã được kiểm toán: có sự khác biệt lớn số liệu trước và sau kiểm toán, lợi nhuận nhiều CTCP bị giảm do cách hiểu, áp dụng các chuẩn mực kế toán giữa công ty niêm yết và phía đơn vị kiểm toán độc lập không thống nhất. Nhiều báo cáo bị kiểm toán viên loại trừ bởi vì đó là những điều kiểm toán viên không thể khẳng định,với những báo cáo này thì mức độ tin cậy rất thấp đối với nhà đầu tư. 4. Cách xác định chi phí vốn trung bình của doanh nghiệp Vốn là nhân tố không thể thiếu để một doanh nghiệp hình thành và phát triển sản xuất, kinh doanh. Có thể hiểu chi phi vốn là chi phí cơ hội của việc sử dụng vốn, được tính bằng số lợi nhuận kỳ vọng đạt được trên vốn đầu tư vào dự án hoặc doanh nghiệp để giữ ko làm giảm số lợi nhuận dành cho chủ sở hữu. Vốn của doanh nghiệp có thể hình thức từ nhiều nguồn tài trợ khác nhau như vay nợ, phát hành trái phiếu, phát hành cổ phiếu, thu nhập giữ lại… Mỗi bộ phận vốn cấu thành có chi phí riêng. Trong khi đó, mỗi doanh nghiệp đều muốn đạt tới một cơ cấu vốn tối ưu nhằm tối đa hóa giá trị cổ phiếu của DN, DN phải tìm cách tài trợ sao cho đảm bảo được cơ cấu vốn tối ưu đó. Tỷ lệ nợ, cổ phần ưu tiên, cổ phần thường cùng với chi phí cơ cấu của vốn được sử dụng để tính chi phí bình quân gia quyền vốn WACC. Giả sử doanh nghiệp có cái nguồn vốn với chi phí như sau:  k d  l·i suÊt cña c¸c khoản nợ mới (trước thuế  k d 1−T  chi phi sau thuế của nợ, trong đó T là tỷ lệ thuế biên   k ps chi phí vốn cổ phiếu ưu đãi k s  chi phí của thu nhập giữ lại; nó bằng với tỷ lệ lợi tức yêu cầu của cổ phiếu thưêng. k  e  chi phí vốn ngoại sinh đạt được bằng cách phát hành cổ phiếu thường bổ sung; khác biệt so với vốn chủ sử hữu được huy động từ thu nhập giữ lại do chi phí gia tăng khi cổ phiếu mới được phát hành.  WACC = chi phí bình quân gia quyền vèn Tính chi phí bình quân gia quyền vốn được trình bầy dưới đây đối với một doanh nghiệp có tài trợ 30% nợ, 10% vốn cố phần ưu đãi và 60% vốn cổ phần thường và chi phí cấu thành sau thuế:  Vèn thµnh cÊu Quyề n số Nî 0,3 Cổ phiếu ưu 0,1 đãi Cổ phiếu 0,6 thường  Chi phí = sau thuế Chi phí gia quyền   8,4% 12,6 = = 2,52% 1,26  16,0 = 9,60 WAC = 13,38% C Khi ®îc kh¸i qu¸t ho¸ thµnh ph¬ng tr×nh th×, WACCw d k d  1−T w ps k ps w ce  k s hayk e  Chi phí vốn trung binh chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều nhân tố.  Hai nh©n tè quan trọng nhất vượt ra ngoài tầm kiểm soát trực tiếp của doanh nghiệp là lãi suất và thuế. Nếu lãi suất trong nền kinh tế tăng, thì chi phí nợ tăng bởi vì doanh nghiệp phải trả cho các chủ nợ lãi suất cao hơn. Lãi suất cao hơn cũng làm gia tăng chi phí vốn cæ phÇn thêng vµ cæ phÇn u ®·i.  Tỷ lệ thuế được sử dụng trong việc xác định chi phí nợ sau thuế - một bộ phận cấu thành WACC, tuy nhiên chính sách thuế tác động đến chi phí vốn theo những cách thức không rõ ràng. Ví dụ, giảm tỷ lệ thuế đánh vào khoản lời vốn so với mức đánh vào thu nhập thông thường hẳn sẽ làm cho các cổ phiếu hấp dẫn hơn vì làm giảm chi phí vốn chủ sở hữu so với chi phí nợ. Điều này hẳn sẽ dẫn tới thay đổi trong cơ cấu vốn mục tiêu.  Một doanh nghiệp có thể tác động tới chi phí vốn thông qua chính sách cơ cấu vốn, chính sách cổ tức và chính sách đầu tư.  Doanh nghiệp có thể thay đổi cơ cấu vốn của mình, và chính sự thay đổi đó có thể tác động tới chi phí vốn. Nếu doanh nghiệp quyết định sử dụng nhiều nợ và ít vốn cổ phần thường hơn, thì thay đổi quyền số trong phương trình xác định WACC sẽ có xu hướng làm giảm WACC. Tuy nhiên, tăng nợ sẽ làm gia tăng mức độ rủi ro cho cả chủ nợ và chủ sở hữu, và sẽ dẫn tới tăng WACC - cuối cùng là triệt tiêu những tác động của thay đổi quyền số.  §èi víi bÊt kú møc ®é thu nhËp nµo, tû lÖ chi tr¶ cæ tøc cµng cao, møc ®é thu nhËp gi÷ l¹i cµng thÊp vµ ®iÓm gÉy cña thu nhËp gi÷ l¹i trong ®êng chi phi von can bien MCC cµng thÊp.  Khi chúng ta ước tính chi phí vốn, chúng ta sử dụng tỷ lệ lợi tức yêu cầu đối với cổ phiếu của doanh nghiệp và chi phí nợ mới làm điểm khởi đầu cho phân tích. Mức độ chi phí phản ánh mức độ rủi ro đối với các tài sản của doanh nghiệp. Vì thế, chúng ta ngầm giả định rằng vốn mới sẽ được đầu tư vào tài sản cùng loại và có cùng mức độ rủi ro đối với tài sản hiện hành. Giả định này sẽ là không chính xác nếu doanh nghiệp đột nhiên thay đổi chính sách đầu tư của mình.  5. Nhận xét vấn đề về chi phí vốn của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Như chúng ta đã biết, vốn là một trong những đầu vào cơ bản cho tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong bối cảnh nền kinh tế chúng ta vừa thoát khỏi những ảnh hưởng của khủng hoảng toàn cầu, và vẫn đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn thực tại như lạm phát, lãi suất cao, tỷ giá bất ổn định, TTCK liên tục chạm đáy, và thêm vào đó là với chính sách tiền tệ thắt chặt, dường như việc tiếp cận các nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam lại càng khó khăn hơn bao giờ hết. Khi xem xét chi phí vốn, ta cần xem xét 2 vấn đề : cơ cấu vốn ( tức là tỷ trọng của từng loại vốn trong tổng nguồn ) và chi phí của từng loại vốn đó. 1. Cơ cấu vốn của các DN VN hiện nay: Như đã biết, một cấu trúc nguồn vốn hợp lí phải đảm bảo sự hài hòa giữa vốn chủ sở hữu và các khoản nợ phải trả, có chi phí sử dụng vốn thấp và rủi ro chấp nhận được, phù hợp với điều kiện kinh doanh cụ thể của DN. Sự kết hợp giữa hai nguồn vốn này phụ thuộc vào đặc điểm của ngành mà DN hoạt động, tuỳ thuộc vào quyết định của người quản lý trên cơ sở xem xét tình hình kinh doanh và tài chính của DN. Cấu trúc nguồn vốn của DN được thể hiện qua các chỉ tiêu chủ yếu sau: Hệ số nợ = Nợ phải trả/Tổng nguồn vốn Hệ số nợ phản ánh trong một đồng vốn kinh doanh bình quân mà DN đang sử dụng có bao nhiêu đồng được hình thành từ vốn nợ. Hệ số vốn chủ sở hữu = vốn chủ sở hữu/Tổng nguồn vốn = 1 - Hệ số nợ Hệ số vốn chủ sở hữu phản ánh trong một đồng vốn kinh doanh mà DN đang sử dụng có bao nhiêu đồng do chủ sở hữu DN bỏ ra. Nếu hệ số vốn chủ sở hữu càng cao, các khoản nợ của DN càng được đảm bảo khả năng thanh toán và dĩ nhiên tài chính của DN càng nằm trong giới hạn an toàn. Ngược lại, hệ số nợ cao chứng tỏ DN sử dụng nhiều nợ vay, có khả năng gặp phải rủi ro thanh toán lớn khi khoản vay đáo hạn. Tuy nhiên, vốn vay sẽ là nhân tố quan trọng kích thích DN đang có những hợp đồng, dự án thực sự hiệu quả tận dụng tốt lợi thế đòn bẩy tài chính để gia tăng lợi nhuận. Do vậy, nhìn vào cấu trúc nguồn vốn có thể đánh giá được một cách khái quát chính sách tài trợ vốn kinh doanh của DN, mức độ an toàn trong sử dụng tài sản, mức độ an toàn hay rủi ro khác trong kinh doanh… Ở Việt Nam cũng như một số quốc gia những năm qua tồn tại các DN có “đặc quyền ” sử dụng vốn vay quá mức. Tình trạng này thường diễn ra trong các DNNN. Trên danh nghĩa DNNN hoạt động sản xuất kinh doanh bình đẳng với các DN khác, tuy nhiên trong thực tế DNNN hầu như vẫn được hưởng khoản “lợi ích vô hình”, đó là dễ dàng hơn trong tiếp cận các nguồn vốn vay. Nếu không có sự quản lý, giám sát chặt chẽ, nhiều DNNN sẽ sử dụng vốn vay tràn lan mà không bị áp lực về nguy cơ phá sản. Chính những điều đó đã khiến cho cấu trúc nguồn vốn của các DN này bị mất cân đối nghiêm trọng, vốn cho hoạt động kinh doanh chủ yếu dựa vào nguồn vốn đi vay. Vì vậy, phải tìm đội ngũ nhà quản lý DNNN thực sự tài năng, có chuyên môn, năng lực quản lý và phát triển kinh doanh, coi trọng việc tái cấu trúc nguồn vốn hướng đến hoạt động tài chính minh bạch và lành mạnh. Bên cạnh đó, cần loại bỏ những nhà quản lý DN yếu kém, làm ăn thua lỗ kéo dài hoặc không phát huy được ưu thế của DNNN đúng với thế mạnh, tiềm năng. 2. Chi phí nguồn vốn DNo hiện nay : Theo khảo sát hiện nay, ở VN khoảng hơn 32% doanh nghiệp cho biết vay vốn ngân hàng vẫn là nguồn huy động vốn chính trong thời gian qua. Hai hình thức huy động vốn phổ biến tiếp theo là huy động vốn trong nội bộ DN (21%) và vốn đối ứng của khách hàng (17%). Chi phí nguồn vay : Mặc dù tín dụng ngân hàng vẫn là kênh truyền thông được ưa chuộng, nhưng các DN cho rằng lạm phát và lãi suất cao, cộng với tỷ giá không ổn định và thắt chặt cho vay và hạn mức tín dụng quá khắt khe của các ngân hàng đang là những yếu tố ảnh hưởng lớn nhất tới khả năng huy động vốn của DN. Mức lãi suất vay vốn hiện nay của các NHTM đều lớn hơn 20%/năm. Khó khăn lớn nhất mà họ phải đối mặt là lãi suất và các loại phí đi vay quá cao, đồng thời, khó đáp ứng điều kiện cho vay của các nhà đầu tư hay bên cung ứng vốn. Trong bối cảnh siết tín dụng và thị trường chứng khoán ảm đạm như hiện nay, DN cho rằng quan trọng nhất là phải tái cấu trúc nguồn vốn để sử dụng hiệu quả đồng vốn hiện có của DN, tối ưu hóa các nguồn vốn nhàn rỗi và thu hẹp danh mục đầu tư với những dự án chưa cần thiết để tiết kiệm chi phí. Lãi suất và tỉ giá hiện đang là vấn đề rất lớn với DN nhưng đây cũng là cơ hội để DN tái cấu trúc để hoạt động hiệu quả hơn. Chi phí vốn ở Việt Nam cao hơn nhiều so với các nước khác. Nó tác động đến dòng chảy của vốn vì người ta sẽ tìm tới những thị trường có chi phí thấp hơn”. Các DN Việt Nam cần phải bảo toàn vốn trong những lúc "bão tố", còn khi sóng yên biển lặng thì cũng phải duy trì quan hệ tốt với ngân hàng. Thực tế có những DN vay vốn ở mức lãi suất 17% - 18% do có quan hệ tốt và được ngân hàng tin tưởng. Chi phí vốn CSH : Nguồn vốn CSH vẫn luôn là một nguồn quan trọng đối với mỗi DN. Trong bối cảnh huy động vốn khó khăn như hiện nay, các DN cân nhắc các nguồn vốn khác như liên kết theo chiều dọc, sáp nhập theo chiều ngang, từ các quỹ đầu tư, tham gia vào thị trường chứng khoán quốc tế và huy động từ các nhà đầu tư nhỏ lẻ. Một số DN lớn, có uy tín đã biết tận dụng nguồn vốn trên kênh quốc tế như Hoàng Anh Gia Lai là ví dụ khi phát hành thành công 100 triệu USD TPDN và niêm yết trên TTCK Singapore. Sắp tới Vincom cũng có ý định phát hành 300 triệu USD TP cũng niêm yết tại Singapore. Tuy nhiên, theo khảo sát, chỉ có 10% DN cho rằng tìm kiếm vốn từ các quỹ đầu tư nước ngoài là một biện pháp hiệu quả để đảm bảo vốn cho sản xuất kinh doanh. Khó khăn là hiện hữu nhưng đó cũng là cơ hội cho các doanh nghiệp có trình độ quản lý vốn tốt chiếm ưu thế để vươn lên, mở rộng thị phần. Như vậy. vấn đề nguồn vốn nào dành cho DN luôn là một vấn đề đau đầu của bất cứ nhà quản trị tài chính. Yêu cầu cấp thiết đối với mỗi DN là phải có một chính sách tái cấu trúc nguồn vốn , tức là cấu trúc lại nguồn vốn hợp lý hơn với các chi phí vốn nhằm cân bằng giữa rủi ro và tỷ suất sinh lời để đạt tới tối đa hóa giá trị DN. Quyết định cấu trúc nguồn vốn là một vấn đề hết sức quan trọng đối với mỗi DN, bởi nó là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu và rủi ro tài chính mà DN có thể phải đối mặt. Tuy nhiên không phải bất kỳ DN nào cũng có thể xác định được cho mình ngay từ đầu một cấu trúc nguồn vốn hợp lý đảm bảo cho DN kinh doanh hiệu quả. Kể cả khi DN đã xây dựng được một cấu trúc nguồn vốn hợp lý thì cấu trúc đó cũng không phải là bất biến trong một thời gian dài. Bối cảnh hiện nay đòi hỏi nhà quản lý DN ở Việt Nam ngày càng phải am hiểu sâu về lĩnh vực tài chính DN - điều còn thiếu ở rất nhiều lãnh đạo DN Việt Nam. 6. Chứng khoán phái sinh Chứng khoán phái sinh là những hợp đồng tài chính, hay công cụ tài chính mà giá trị của nó được xác định dựa vào giá trị của một công cụ khác, thường gọi là công cụ cơ sở (the underlying).  Phân loại : Chứng khoán phái sinh hay còn gọi là công cụ phái sinh, theo chuẩn mực Quốc tế, bao gồm nhiều loại. Nhưng có thể liệt kê 5 loại chứng khoán phái sinh chủ yếu sau: quyền mua cổ phần; chứng quyền; hợp đồng kỳ hạn; hợp đồng tương lai; và quyền lựa chọn. Quyền mua cổ phần (hay quyền mua trước) là quyền ưu tiên mua trước dành cho các cổ đông hiện hữu của một công ty cổ phần được mua một số lượng cổ phần trong một đợt phát hành CP phổ thông mới tương ứng với tỷ lệ cổ phần hiện có của họ trong công ty, tại mức giá xác định, thấp hơn mức giá chào mời ra công chúng và trong một thời hạn nhất định. Chứng quyền là một loại chứng khoán trao cho người nắm giữ nó quyền được mua một số lượng xác định một loại chứng khoán khác, thường là cổ phiếu thường, với một mức giá xác định và trong một thời hạn nhất định. Quyền này được phát hành khi tổ chức lại các công ty hoặc khi công ty nhằm mục tiêu khuyến khích các nhà đầu tư tiềm năng mua các trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi có những điều kiện kém thuận lợi. Để chấp nhận những điều kiện đó, nhà đầu tư có được một lựa chọn đối với sự lên giá có thể xảy ra của cổ phiếu thường. Hợp đồng kỳ hạn là một thoả thuận trong đó một người mua và một người bán chấp thuận thực hiện một giao dịch hàng hoá với khối lượng xác định, tại một thời điểm xác định trong tương lai với một mức giá ấn định vào ngày hôm nay. Hợp đồng tương lai là một thoả thuận đòi hỏi một bên của hợp đồng sẽ mua hoặc bán một hàng hoá nào đó tại một thời hạn xác định trong tương lai theo một mức giá đã định trước. Chức năng kinh tế cơ bản của các thị trường hợp đồng tương lai là cung cấp một cơ hội cho những người tham gia thị trường để phòng ngừa rủi ro về những biến động giá bất lợi. Quyền lựa chọn: Một quyền chọn là một hợp đồng cho phép người nắm giữ nó được mua (nếu là quyền chọn mua) hoặc được bán (nếu là quyền chọn bán) một khối lượng nhất định hàng hoá tại một mức giá xác định và trong một thời hạn nhất định. Các hàng hoá cơ sở này có thể là cổ phiếu, chỉ số cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số trái phiếu, thương phẩm ...  Mặt tiêu cực của công cụ phái sinh: Có thể gây ra thua lỗ lớn do việc sử dụng các công cụ đòn bẫy hay vay mượn; rủi ro do đối tác không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng (đặc biệt là trong hợp đồng swaps); tiềm ẩn rủi ro rất lớn đối với những nhà đầu tư nhỏ, thiếu kinh nghiệm. Giá trị danh nghĩa quá lớn: rủi ro dẫn đến thua lỗ lớn mà nhà đầu tư không thể bù đắp được. Khả năng dẫn đến phản ứng dây chuyển phá hủy hàng loạt khi có khủng hoảng kinh tế. Giá trị danh nghĩa quá lớn dẫn tới việc làm méo mó thị trường vốn thực. Nhà đầu tư bắt đầu nhìn vào thị trường các công cụ phái sinh để quyết định mua hoặc bán chứng khoán, như vậy cái mà ban đầu được xem là thị trường là để chuyển rủi ro trở thành một chỉ số hướng dẫn thị trường. Đòn bẩy nợ trong nền kinh tế: việc gia tăng đòn bẩy nợ trong nền kinh tế làm nền kinh tế thực không đủ khả năng để tài trợ cho nghĩa vụ nợ và điều chỉnh những hoạt động kinh tế thực, điều này có thể gây ra suy thoái hay khủng hoảng kinh tế.  Mặt tích cực của công cụ phái sinh: Thúc đẩy việc mua bán rủi ro, vì thế tạo ra một tác động tích cực trong nền kinh tế. Trong điều kiện bình thường, giao dịch các chứng khoán phái sinh không tác động nghiêm trọng đến hệ thống kinh tế vì nó không phải là một trò chơi có tổng bằng không về tính hữu dụng, giảm tác động khi có suy giảm kinh tế xảy ra, giúp tăng tính thanh khoản của các công cụ cơ sở; cho phép sử dụng đòn bẩy nâng cao lợi nhuận. 7. Có ý kiến cho rằng, chi phí vốn chủ sở hữu luôn thấp hơn chi phí nợ vay. Bình luận ý kiến trên? Tại sao các doanh nghiệp niêm yết của Việt Nam lại ưa thích phát hành cổ phiếu hơn là phát hành trái phiếu để tăng vốn? Ở Vn hiện nay, thị trường trái phiếu công ty còn quá nhỏ và kém thanh khoản. Nguyên nhân là hệ thống tài chính doanh nghiệp thiếu các hoạt động đánh giá tín nhiệm đúng chuẩn và thường xuyên, hệ thống tài chính và giá trị đồng nội tệ thiếu ổn định, dẫn đến không có đường cong lãi suất làm chuẩn. Mặt khác, trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với 1 phần vốn nợ của công ty phát hành. Nhà phát hành có nghĩa vụ phải thanh toán theo các cam kết nợ được xác định trong hợp đồng vay. Nếu công ty không hoàn trả được lãi cho trái phiếu, người ta sẽ xem xét vấn đề phá sản của công ty. Ngược lại, cổ phiếu là chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với 1 phần vốn cổ phần của công ty phát hành. Thứ nhất, phát hành cổ phiếu doanh nghiệp không phải chịu gánh nặng nợ nần, không tạo áp lực với tính thanh khoản của doanh nghiệp. Thứ 2, các chủ đầu tư có thể cung cấp cho doanh nghiệp những hỗ trợ kinh doanh quan trọng mà daonh nghiệp không có. Cuối cùng, phát hành cổ phiếu doanh nghiệp không phải thế chấp tài sản hay nhờ bảo lãnh bởi vốn huy động là của chủ sở hữu. => doanh nghiệp niêm yết của Việt Nam lại ưa thích phát hành cổ phiếu hơn là phát hành trái phiếu để tăng vốn 9. Trình bày nguyên tắc giá trị thời gian của tiền trong quản trị tài chính doanh nghiệp. Đưa ra ví dụ minh họa? Nguyên tắc giá trị thời gian của tiền: để đo lường giá trị tài sản của chủ sở hữu, cần sử dụng khái niệm giá trị thời gian của tiền, tức là phải đưa lợi ích va chi phí của dự án về một thời điểm , thường là thời điểm hiện tại . Theo quan điểm của các nhà đầu tư , dự án được chấp nhận khi lợi ích lớn hơn chi phí . Trong trường hợp này, chi phí cơ hội của vốn được đề cập như là tỷ lệ chiết khấu. Thực tiễn hoạt động tài chính chỉ rõ: Một đồng ngày hôm nay có giá trị hơn một đồng trong tương lai, bởi 3 lý do sau: - Thứ nhất: do lạm phát làm cho đồng tiền mất giá. - Thứ hai: do rủi ro trong đời sống kinh tế xã hội hàng ngày. - Thứ ba: do cơ hội đầu tư làm cho một đồng ngày hôm nay nếu để tới ngày mai, ngoài tiền gốc còn có tiền lãi do chính nó sinh ra, còn một đồng ở tương lai thì vẫn chỉ là một đồng mà thôi. Ví dụ: một người lấy một dòng tiền, cho lãi suất chiết khấu rùi quy về hiện tại nhé 8. Một doanh nghiệp sử dụng càng nhiều nợ thì càng có lợi? Hãy bình luận ý kiến trên và liên hệ tình hình thực tế ở Việt Nam hiện nay? Trả lời: Thực tế, việc sử dụng nợ trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ giúp doanh nghiệp có thêm nguồn vốn mạnh hơn trong quá trình đầu tư. Ngoài ra, đây là một vấn đề mà CFO hoạch định một cấu trúc vốn mục tiêu với những lợi ích từ tấm chắn thuế. Lãi từ chứng khoán nợ mà một công ty chi trả là một chi phí được khấu trừ thuế. Khoản khấu trừ thuế của lãi từ chứng khoán nợ làm tăng tổng lợi nhuận của doanh nghiệp. Theo lý thuyết cấu trúc vốn của Miller và Modigliani (MM), một doanh nghiệp nên gia tăng tỷ lệ nợ cho đến khi giá trị hiện giá của tấm chắn thuế từ lãi vay vừa đủ để bù trừ bằng gia tăng trong hiện giá của chi phí kiệt quệ tài chính. Vì vậy, các nhà quản trị tài chính của doanh nghiệp phải phân tích và đưa ra mức vay nợ bao nhiêu là có lợi cho doanh nghiệp mình, tránh trình trạng sử dụng quá nhiều nợ sẽ dẫn đến chi phí kiệt quệ tài chính lớn hơn phần bù trừ tấm chắn thuế, khi đó sẽ đưa doanh nghiệp đến những rủi ro về tài chính. Theo định đề II của MM, khi nợ là phi rủi ro thì tỷ suất sinh lợi dự kiến từ cổ phần thường của một doanh nghiệp có vay nợ tăng tương ứng với tỷ lệ nợ / vốn cổ phần, tức là tỷ lệ nợ / vốn cổ phần càng nhiều thì tỷ suất sinh lợi từ cổ phiếu tăng có lợi cho NĐT. Khi doanh nghiệp vay nợ nhiều hơn, rủi ro không thực hiện nghĩa vụ tăng lên và doanh nghiệp buộc phải chịu lãi suất vay nợ cao hơn. MM dự báo rằng khi điều này xảy ra, tỷ lệ gia tăng trong tỷ suất sinh lợi dự kiến từ vốn cổ phần chậm lại. Doanh nghiệp càng có nhiều nợ, tỷ suất sinh lợi dự kiến càng ít nhạy cảm với các khoản nợ vay thêm. Khi nợ có rủi ro thì trái chủ gánh chịu một phần rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp vay nợ nhiều hơn, rủi ro này chuyển từ các cổ đông sang các trái chủ. Vay nợ làm tăng tỷ suất sinh lợi dự kiến từ đầu tư của các cổ đông. Nhưng nó cũng làm gia tăng rủi ro của các cổ phiếu của doanh nghiệp. MM cho thấy rằng rủi ro gia tăng vừa đúng bù trừ cho gia tăng trong tỷ suất sinh lợi dự kiến, nên những người nắm giữ cổ phiếu không được lợi mà cũng không bị thiệt. Theo số liệu điều tra tại 108 Tổng công ty 90, 91 của Công ty tư vấn Mekong, số nợ phải thu tồn đọng tính đến hết năm 2006 là 2.272 tỉ đồng, chiếm 4,7% tổng số nợ phải thu. Nợ phải trả tồn đọng là 21.904 tỉ đồng, chiếm 13,7% tổng nợ phải trả. Riêng trong hệ thống ngân hàng thương mại nhà nước, nợ quá hạn (nợ xấu) lên tới 10.046 tỉ đồng. Nếu tính cả ngân hàng chính sách xã hội và ngân hàng phát triển, tổng số nợ xấu lên đến 13.659 tỉ đồng. Còn theo số liệu ước tính của các tổ chức tài chính quốc tế như Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF, Ngân hàng Thế giới WB, nợ xấu của các DN VN vào khoảng 6,2 tỉ USD, tức là chiếm hơn 13% GDP cả nước. Cho đến cuối năm 2006, theo Ban Chỉ đạo Đổi mới và Phát triển DN, các DNNN mới xử lý giãn nợ, khoanh nợ, xoá nợ thuế và các khoản phải nộp ngân sách nhà nước với tổng số tiền là 314,91 tỉ đồng; xử lý nợ đọng hơn 19 nghìn tỉ đồng, chủ yếu bằng biện pháp thu hồi nợ, bán tài sản đảm bảo, sử dụng dự phòng rủi ro của ngân hàng. Trong số DN đã CPH, có khoảng 2.000 DN có nợ và tài sản loại trừ không tính vào giá trị DN. Theo Cục Tài chính DN (Bộ Tài chính) thì số nợ phải trả của DNNN thường gấp 1,2 -1,5 lần vốn nhà nước tại DN, thậm chí có nhiều DN nợ gấp vài lần đến hàng chục lần vốn chủ sở hữu. Số nợ phải thu cũng chiếm từ 5060% vốn chủ sở hữu, đặc biệt nợ khó đòi chiếm đến 15-20% lợi nhuận hàng năm, nhưng lại không được ghi đầy đủ trong sổ sách kế toán DN. Đến thời điểm này, việc xử lý các khoản nợ tồn đọng của khối DNNN mà Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước đưa ra biện pháp vẫn chủ yếu là giãn nợ, khoanh nợ. 9. Phân tích mối quan hệ giữa chi phí vốn và tỷ lệ chiết khấu được sử dụng trong đánh giá hiệu quả tài chính dự án đầu tư. Trả lời: - Chi phi sử dụng vốn được xem như là 1 liên kết quyết định tài trợ và quyết định đầu tư. - Chi phí sử dụng vốn thường được sử dụng để thay thế với tỷ suất sinh lời đòi hỏi của doanh nghiệp, tỷ suất rào cản cho các nhà đầu tư mới và cơ hội phí của sử dụng vốn. - Chi phí sử dụng vốn là: + tỷ suất sinh lời mà doanh nghiệp phải tạo ra từ những dự án đầu tư để đảm bảo duy trì vốn cổ phần trên thị trường. + mức tỷ suất sinh lời mà các nhà cung ứng vốn trên thị trường yêu cầu doanh nghiệp phải trả nhằm đảm bảo tài trợ vốn của họ đối với doanh nghiệp. Chi phí sử dụng vốn là 1 khái niệm vô cùng quan trọng khi đề cập đến chiến lược tài trợ của doanh nghiệp, là cầu nối quan trọng giữa các quyết định đầu tư dài hạn của 1 doanh nghiệp với việc gia tăng giá trị tài sản của các chủ sở hữu theo yêu cầu của các nhà đầu tư trên thị trường, là cơ sở để lựa chọn dự án đầu tư nào sẽ làm tăng giá trị của doanh nghiệp. - Chi phí sử dụng vốn của doanh nghiệp : tỷ lệ dùng để chiết khấu dòng tiền bình quân của doanh nghiệp, qua đó tác động đến giá trị của doanh nghiệp. - Tỷ lệ chiết khấu được sử dụng trong đánh giá hiệu quả tài chính dự án đầu tư là mức lãi suất chiết khấu được dùng khi rủi ro của dự án cá thể nàu khác biệt với rủi ro của doanh nghiệp. Trong trường hợp nàu phải điều chỉnh mức lãi suất chiết khấu phản ánh được mức độ lệch bình quân giữa rủi ro của doanh nghiệp và rủi ro của dự án cá thể. Tỷ lệ chiết khấu được sử dụng trong đánh giá hiệu quả tài chính dự án = r +Δr + Δr*Po/Io Trong đó: r : chi phí sử dụng vốn bình quân của doanh nghiệp trước đầu tư Δr : gia tăng trong chi phí sử dụng vốn do tính rủi ro của dự án mới này Io: đầu tư ban đầu của dự án mới. Po: giá trị của doanh nghiệp trước đầu tư  Nhận xét: từ công thức trên ta thấy: Chi phí sử dụng vốn sẽ khác nhau giữa dự án này với dự án khác tùy thuộc vào mức độ rủi ro của dự án. - Nếu Δr = 0 thì chi phí sử dụng vốn bình quân của doanh nghiệp (WACC) là lãi suất chiết khấu thích hợp. - Nếu Δr >0 ( đây là 1 dự án có rủi ro)thì cần cộng thêm phần bù rủi ro vào WACC - Nếu Δr< 0 ( đây là 1 dự án ít rủi ro hơn độ rủi ro bình quân của doanh nghiệp ) thì phải trừ đi 1 “ phí an toàn” từ WACC của doanh nghiệp. http://www.slideshare.net/guest3b3504/tcdn-chuong-12 10. Mức “ Thu sử dụng vốn ngân sách nhà nước” ở Việt Nam được quy định giảm, khoản thu này có xu hướng bị loại bỏ. Hãy phân tích. Trả lời: 11. Sử dụng nợ luôn bất lợi cho DN? Trả lời : Trước tiên, ta so sánh việc sử dụng nờ và vốn chủ sở hữu cái nào tốn ít chi phí hơn, “chi phí” được đề cập ở đây chính là chi phí có thể đo lường được cho việc huy động vốn tài trợ cho hoạt động của doanh nghiệp. Với nợ, đó chính là chi phí lãi vay mà doanh nghiệp phải trả cho khoản vay của mình. Với vốn cổ phần, chi phí sử dụng vốn được hiểu như là quyền đối với thu nhập phải đủ thỏa mãn được các cổ đông khi họ quyết định góp vốn vào côngty. Ví dụ, nếu bạn điều hành một doanh nghiệp nhỏ và cần tài trợ khoảng $40,000, bạn có thể hoặc là đi vay ở ngân hàng số tiền $40,000 với lãi suất 10% hoặc bạn có thể bán 25% cổ phần doanh nghiệp cho người hàng xóm với giá $40,000. Giả sử trong năm sau đó, doanh nghiệp của bạn có thể tạo ra được lợi nhuận hoạt động là $20,000. Nếu ban đầu bạn quyết định đi vay ở ngân hàng với chi phí lãi vay (hay còn gọi là chi phí tài trợ của nợ) sẽ là $4,000, bạn còn lại lợi nhuận $16,000. Ngược lại, nếu bạn đã sử dụng tài trợ vốn cổ phần, nghĩa là bạn không hề có nợ và dĩ nhiên là không có chi phí lãi vay nhưng bạn chỉ được nắm giữ 75% lợi nhuận của doanh nghiệp thôi (25% khác thuộc sở hữu của người hàng xóm nhà bạn). Do đó, lợi nhuận của bạn bây giờ chỉ có $15,000 (tức 75%*$20,000) Từ ví dụ này, bạn có thể thấy nợ rẻ hơn vốn cổ phần là như thế nào, do đó cũng rất dễ hiểu khi các cổ đông sáng lập của công ty quyết định lựa chọn phát hành nợ chứ không phải vốn cổ phần. Thuế cũng là một yếu tố giúp cho tình huống phát hành nợ trở nên tốt hơn. Nếu doanh nghiệp của bạn sử dụng nợ, bởi vì chi phí lãi vay được khấu trừ ra khỏi thu nhập hoạt động trước khi thu nhập bị đánh thuế, do đó chính hành động đã đem đến cho doanh nghiệp lợi ích tấm chắn thuế từ nợ. Dĩ nhiên, lợi ích của tài trợ nợ với lãi suất cố định đôi khi lại có thể là điểm bất lợi. Bởi vì nợ được xem chi phí tài chính cố định, dù doanh nghiệp của bạn có hoạt động ra sao, thu nhập nhiều hay thậm chí đang thua lỗ thì doanh nghiệp vẫn phải đảm bảo việc trả lãi vay đúng kỳ hạn và trả nợ gốc khi đáo hạn, do vậy một sự gia tăng nợ của doanh nghiệp cũng đồng nghĩa với việc gia tăng thêm rủi ro tài chính. Quay trở lại ví dụ trên, giả sử trong năm sau, công ty của bạn chỉ tạo ra được có $5,000. Với tài trợ nợ, bạn có thể vẫn có cùng $4,000 lãi vay phải trả và vì vậy lợi nhuận của bạn chỉ còn lại $1,000 ($5,000 -$4,000). Trong trường hợp tài trợ hoàn toàn bằng vốn cổ phần, tức là bạn không hề phải trả một đồng lãi vay nào hết, thì bạn vẫn có 75% lợi nhuân tương đương với $3,750 (75% x $5,000). Do vậy, đối với một công ty được kỳ vọng làm ăn tốt thì tài trợ nợ có thể được sử dụng thường xuyên với mức chi phí thấp hơn so với tài trợ bằng vốn cổ phần. Tuy nhiên, nếu giai đoạn nào công ty không thể vận hành tốt để tạo ra tiền lượng tiền mặt đủ lớn, thì chi phí lãi vay lúc này có thể là một gánh nặng. Đây chính là mặt trái của việc tài trợ hoạt động doanh nghiệp bằng nợ. Từ đây có thể thấy, dù nợ có chi phí rẻ hơn vốn cổ phần, doanh nghiệp nào cũng có thể hiểu được điều này, nhưng thời điểm nào thì sử dụng nợ là hợp lý? Hợp lý ở đây có nghĩa là tận dụng được tối đa lợi ích của nợ, tận dụng tối đa lợi ích từ đòn bẩy tài chính từ nợ. Dễ thấy, các doanh nghiệp không bao giờ có thể chắc chắn 100% về lượng thu nhập trong tương lai (mặc dù họ có thể có những dự đoán hợp lý) và khi thu nhập tương lai của các doanh nghiệp càng không ổn định thì rủi ro càng tăng lên. Do đó, các doanh nghiệp trong ngành có rủi ro kinh doanh thấp, có dòng tiền ổn định thường sử dụng nợ nhiều hơn là các doanh nghiệp trong các ngành nhiều rủi ro hơn. Các doanh nghiệp nhỏ hoặc mới bắt đầu hoạt động, đang trong giai đoạn khởi nghiệp cũng sử dụng nợ rất ít, nếu không muốn nói là không có sử dụng nợ. Các doanh nghiệp mới với sự không chắc chắn cao có thể phải trải qua một thời gian đầy khó khăn để tìm được tài trợ bằng nợ vay, nên thường thì các hoạt động của chúng hầu hết được tài trợ bằng vốn cổ phần. Ở Việt Nam, nhắc đến nợ, người ta thường có tâm lý e dè, nhất là đối với các doanh nghiệp đang trong thời kỳ “sung mãn”, lượng tiền mặt vô cùng dư thừa thì dường như họ lại càng không quan tâm đến nợ. “Tiền tôi có, tại sao phải vay?” Cũng vậy, sau 7 năm TTCKVN ra đời, đi vào hoạt động và đạt được sự phát triển như hôm nay thì để giải quyết bài toán thiếu vốn, doanh nghiệp niêm yết thường chọn giải pháp vốn cổ phần chứ không mấy mặn mà với việc sử dụng tài trợ bằng nợ. Các doanh nghiệp dường như đã quên đi lợi ích từ việc sử dụng đòn bẩy tài chính. Hi vọng trong tương lai không xa, vấn đề tài trợ bằng nợ sẽ được các doanh nghiệp Việt Nam quan tâm thỏa đáng và đạt được hiệu quả tốt nhất trong việc sử dụng nợ. Cũng cần nhắc lại là, phát hành trái phiếu doanh nghiệp cũng là một hình thức vay nợ của doanh nghiệp. 12. Lý thuyết về thị trg hiệu quả? Qđịnh trong thị trg ntn? Lý thuyết thị trường hiệu quả:     - Thị trường hiệu quả về mặt thông tin đòi hỏi các giả định: Có một số lượng lớn các thành viên tham gia thị trường cạnh tranh, mỗi thành viên phân tích và định giá độc lập nhằm tối ưu hóa lợi nhuận của mình. Các nhà đầu tư cạnh tranh cố gắng điều chỉnh giá cổ phiếu ngay tức khắc với tất cả các thông tin liên quan sẵn có nhằm phản hồi được ảnh hưởng của thông tin. Giá cả chứng khoán được thay đổi tại thời điểm bất kỳ chủ yếu dựa vào thông tin mới được ngẫu nhiên đưa ra. Đặc điểm của thị trường hiệu quả thông tin: Các nhà đầu tư nên kỳ vọng thu được một mức hoàn vốn đầu tư có thể trang trải các chi phí ( lợi nhuận hợp lý) Không thể suy luận hiệu quả hoạt động tương lai từ hiệu qủa hoạt động quá khứ. Thị trường chỉ có thể hiệu quả nếu có đủ người tin rằng thị trường không hiệu quả. Thị trường vốn phản ứng nhanh và đầy đủ với thông tin mới. Các thành viên tham gia thị trường thường bỏ qua các thông tin không liên quan. Các hình thái thị trường hiệu quả: Dạng yếu: nếu thị trường hiệu quả về thông tin trong quá khứ, hay nói cách khác, nếu tất cả các thông tin quá khứ đã được phản ánh vào trong giá , ta gọi là thị trường hiệu quả dạng yếu. Dạng trung bình: nếu mức giá thị trường phản ánh tất cả các thông tin hiện có, người ta gọi đó là hiệu quả dạng trung bình. Dạng mạnh: thị trường mà tất cả các thông tin, bao gồm cả thông tin nội gián được phản ánh trong giá được gọi là hiệu quả dạng mạnh. Hiệu quả thị trường và chính sách đầu tư: ở thị trường dạng yếu, việc sử dụng PTKT sẽ không dẫn tới hiệu quả vượt trội vì thông tin được sử dụng để xây dựng chiến lược đầu tư đã được phản ánh trong giá chứng khoán thức tế. nếu thị trường ở dạng trung bình, PTCB lại không mang lại kết quả hoạt động tốt hơn vì mọi thông tin công bố rộng rãi đã được phản ánh trong giá chứng khoán. Tóm lại, những người bảo vệ giả thiết thị trường hiệu quả sẽ áp dụng chiến lược thụ động ( mua và nắm giữ ). Những người nghĩ rằng thị trường luôn tạo ra khoảng trống cơ hội sẽ tham gia chiến lược thụ động, gọi là chiến lược lựa chọn cổ phiếu và lựa chọn thời điểm thị trường. Do vậy, để quản lý danh mục đầu tư kể cả ở các thị trường hiệu quả hoàn hảo, vị thế tối ưu của nhà đầu tư sẽ phụ thuộc vào các yếu tố như tuổi tác, thuế, tâm lý ngại rủi ro, việc làm,… 13. Trình bày mối liên hệ giữa các bảng báo cáo tài chính của doanh nghiệp Báo cáo tài chính là một trong hai loại báo cáo của hệ thống báo cáo kế toán doanh nghiệp. Báo cáo tài chính được lập theo những chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành. Báo cáo tài chính phản ánh các chỉ tiêu kinh tế Tài chính chủ yếu của doanh nghiệp, nó phản ánh các thông tin tổng hợp nhất về tình hình tài sản, nguồn vốn chủ sở hữu, công nợ, tình hình lưu chuyển tiền tệ cũng như tình hình tài chính, kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trong một kỳ kinh doanh nhất định. Theo quyết định số 15/2006 QĐ/BTC ngày 20 tháng 03 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ tài chính về ban hành chế độ kế toán doanh nghiệp, hệ thống báo cáo tài chính của doanh nghiệp, bao gồm 4 loại báo cáo sau đây: (1) Bảng cân đối kế toán, Mã số B01 - DN; (2) Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, Mãsố B02 - DN; (3) Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, Mã số B03 - DN; (4) Thuyết minh báo cáo tài chính, Mã số B09 - DN. Báo cáo tài chính đánh giá hoạt động kinh doanh cũng như các khía cạnh phi tài chính của một doanh nghiệp, nhằm dự báo tình hình hoạt động tài chính của doanh nghiệp đó trong tương lai. Mỗi loại báo cáo có những mục đích sử dụng riêng: - Bảng cân đối kế toán mô tả tình trạng tài chính của 1 doanh nghiệp tại 1 thời điểm nhất định, có ý nghĩa quan trọng đối với mọi đối tượng có quan hệ sở hữu, quan hệ kinh doanh và quan hệ quản lý với doanh nghiệp. Nhìn vào đó, nhà phtich có thể nhận biết được loại hình doanh nghiệp, quy mô, mức độ tự chủ tài chính của DN, hơn nữa giúp các nhà ptich đánh giá đc khả năng cân bằng tài chính, khả năng thanh toán và khả năng cân đối vốn của doanh nghiệp. - BC KQKD: cho biết sự dịch chuyển của tiền trong quá trình SXKD của DN và cho phép dự tính khả năng hoạt động của DN trong tương lai, giúp nhà pt so sánh doanh thu cới số tiền thực nhập quỹ khi bán hàng hóa, dịch vụ, so sánh tổng chi phí phát sinh vs số tiền thực xuất quỹ để vận hành DN => cung cấp thông tin tổng hợp về tình hình và kết quae sử dụng các tiềm năng về vốn, lao động, kỹ thuật và trình độ quản lý SXKD của DN. - BCLCTT: xác định hoặc dự báo dòng tiền thực nhập và thực xuất quỹ, trên cơ sở đó, nhà pt thực hiện cân đối ngân quỹ với số dư ngân quỹ đầu kỳ để xđ số dư ngân quỹ cuối kỳ => từ đó thiết lập mức ngân quỹ dự phòng tối thiểu cho DN nhằm mục tiêu đảm bảo chi trả. Tóm lại, để phân tích tình hình tài chính của 1 DN, các nhà pt cần đọc và hiểu được cá báo cáo tài chính, qua đó, nhận biết đc và tập trung vào các chỉ tiêu tài chính liên quan trực tiếp tới mục tiêu pt.... 14. Khả năng thanh toán của DN được pt ntn thông qua các BCTC? Nhận xét về tình hình pt TC của các doanh nghiệp VN hiện tại. - Lý thuyết : sgk 41 - Liên hệ: Thực trạng phân tích tài chính trong các doanh nghiệp hiện nay là kiêm nhiệm bởi bộ phận tài chính - kế toán kiêm nhiệm. Nhân viên phân tích tài chính là những người có liên quan đến việc thu thập và phân tích những thông tin tài chính, phân tích xu hướng và đưa ra các dự báo kinh tế. Tuy nhiên các DN vẫn còn rất coi nhẹ việc này. Công việc của các nhân viên phân tích tài chính là vô cùng quan trọng vì các đề xuất của họ hỗ trợ doanh nghiệp trong việc đưa ra quyết định tài chính. Điều đó đòi hỏi nhân viên phân tích phải đọc nhiều để nắm bắt được các thông tin liên quan, các vấn đề về pháp luật, biến động thị trường, các tình hình hoạt động được đăng tải trên tạp chí tài chính, sách báo...Vì vậy với tình hình hiện nay, các doanh nghiệp nên chú trọng những vấn đề như: Chọn lọc những nhân viên cho bộ phận tài chính phải có trình độ cơ bản về tài chính và có kinh nghiệm và thâm niên trong công tác tài chính của công ty; Không ngừng đào tạo các bộ chuyên trách thông qua các khoá tập huấn của Bộ Tài chính, trung tâm giáo dục của các trường đại học chuyên ngành; Kịp thời tiếp nhận những thay đổi chính sách kế toán và những chuẩn mực kế toán mới; Bổ sung những kiến thức về pháp luật và các chính sách tài chính thông qua các thông tin trên các báo, công báo, các trang Web liên quan; Khuyến khích tìm hiểu thông tin kinh tế trong và ngoài nước từ mọi nguồn đăng tải; Có thể cử hoặc tạo điều kiện nhân viên tham gia các khoán học ngắn, dài hạn tại các nước trên thế giới về kiến thức quản lý và tài chính doanh nghiệp hiện đại; Tin học hoá đội ngũ nhân viên tài chính; Thường xuyên cử họ đi dự các hội thảo chuyên ngành... Tuy nhiên để thực hiện được những yêu cầu này về bản thân doanh nghiệp, cần thực hiện nghiêm túc công tác kế toán và kiểm toán theo chế độ kế toán mới ban hành, những chuẩn mực kế toán, kiểm toán Việt Nam và hệ thống pháp luật về kinh tế. Để có được những thông tin kế toán có giá trị, thì doanh nghiệp nên có những biện pháp kiểm tra bằng chính nội bộ hoặc kiểm toán. Mặt khác, để doanh nghiệp hoà nhập với quá trình phát triển của nền kinh tế, bắt nhịp với sự thay đổi của đất nước, công tác kế toán phải tuân thủ theo chế độ kế toán mới và những chuẩn mực kế toán, kiểm toán Việt Nam. Bên cạnh đó cần chú trọng thực hiện các vấn đề sau. Thứ nhất, bổ sung những báo cáo tài chính ngoài hệ thống báo cáo tài chính bắt buộc của Bộ Tài chính để phục vụ luồng thông tin đầy đủ cho công tác phân tích. Như phân tích Báo cáo thu nhập (Income statement) rất quan trọng và được sử dụng trong hầu hết phân tích tài chính dùng cho những quyết định về cơ cấu vốn, sử dụng vốn, các quyết định về đầu tư và sử dụng những đòn bẩy... mà hầu như các doanh nghiệp hiện nay không sử dụng, sự hiểu biết của họ về báo cáo thu nhập và các chỉ tiêu trong báo cáo là chưa rõ ràng. Do vậy, doanh nghiệp nên đưa báo cáo thu nhập vào hệ thống báo cáo tài chính. Thứ hai, nâng cao trình độ và phẩm chất của cán bộ quản lý. Tất cả các quyết định về kinh doanh, tài chính, quản lý của doanh nghiệp đều từ cán bộ quản lý. Do vậy, trình độ, năng lực và đạo đức của họ là quyết định sự hoạt động có hiệu quả của doanh nghiệp, hiệu quả hoạt động tài chính và công tác phân tích tài chính doanh nghiệp. Thứ ba, nâng cao trình độ nhân viên chuyên trách. Và cuối cùng là thường xuyên trao đổi thông tin bên ngoài về kinh tế, tài chính, thị trường qua trang Web hoặc các hình thức khác. 15. Phân biệt DT và thu, CP và chi. SGK193 - DT và thu: + DT là số tiền mà khách hàng chấp nhận thanh toán cho DN trong quá trình cung cấp sp, hàng hóa, dvu + Thu là số tiền mà khách hàng thanh toán , số tiền thực thu đc của DN, là thời điểm xuất hiện dòng tiền di vào vd: Dn bán đc 1000 sp với số tiền là 2000$, khách hàng chấp nhận thanh toán trc 50% số tiền. Vậy DN là 2000, thu la 1000. - CP và chi: + chi fi là số tiền DN chấp nhận thanh toán cho nhà cung cấp từ việc mua bán các yếu tố đầu vào + Chi là khoản tiền thực chi của DN được xác định tại thời điểm xuất hiện dòng tiền đi ra DT và CP được phản ánh trên BCKQKD và được sử dụng để xđ kết quả hđ kinh doanh của DN Thu và chi phản ảnh các luồng tiền vào, tiền ra của doanh nghiệp thường trong thời kỳ ngắn: từng tuần, từng tháng, cho biết khả năng thanh toán đích thực hay khả năng chi trả của DN. Các khoản thu và khoản chi đc thể hiện trong báo cáo LCTT. Đây là cơ sở quan trọng để xd kế hoạch tiền mặt cho DN. 16. Trả cổ tức bằng tiền tốt or không? Chính sách cổ tức (Thầy Tuấn: - Trong đk nền kinh tế tốt, ko tìm kiếm đc cơ hội đầu tư nên trả cổ tức = tiền => kế hoạch mở rộng dài hạn của cty có thể có vấn đề => giá trị VCSH có thể giảm - Không trả cổ tức = tiền vẫn có thể tạo niềm tin cho nhà đtư do giá trị TS nắm giữ vẫn đang tăng dần - Mở rộng quy mô DN => chính sách trả cổ tức = cổ phiếu có thể làm tăng giá trị TS của CSH.) Cổ tức là một trong những chính sách quan trọng của bất cứ công ty cổ phần đại chúng nào trên thế giới, không chỉ ở Việt Nam. Lãnh đạo doanh nghiệp luôn cân nhắc thận trọng về chính sách này vì nó phải đáp ứng đồng thời 3 mục tiêu: làm hài lòng các cổ đông qua việc trả cổ tức định kỳ, đảm bảo luôn có tái đầu tư để phát triển doanh nghiệp, mức trả cổ tức phải ổn định để dự phòng cho cả những năm kinh doanh không như mong đợi (vì một khi đã trả cổ tức cao trong 1 hay vài năm trước, doanh nghiệp sẽ “khó ăn nói” với cổ đông nếu năm sau hạ mức cổ tức xuống). Trong 3 mục tiêu trên, mục tiêu thứ hai là quan trọng nhất. Bản thân doanh nghiệp, hay nói cách khác là ban lãnh đạo doanh nghiệp – hơn ai hết hiểu rõ những lợi thế và khó khăn của mình. Họ biết lúc nào công ty cần vốn và cần giữ lại lợi nhuận để bổ sung cho nguồn vốn của mình, cũng như lúc nào mới bắt đầu tăng thêm cổ tức cho cổ đông. Do đó, nếu doanh nghiệp đang làm ăn tốt, thì nên giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư. Bản thân cổ đông cũng sẽ được hưởng lợi ích cho dù không nhận cổ tức, vì khoản lợi nhuận giữ lại đó sẽ góp phần làm gia tăng các giá trị nội tại của doanh nghiệp, và từ đó sẽ làm tăng giá cổ phiếu trong tương lai. Có hai phương thức chia cổ tức chính : cổ tức tiền mặt và cổ tức cổ phần. Cổ tức tiền mặt là dạng cổ tức mà công ty lấy ra từ lợi nhuận có được chia cho nhà đầu tư dưới dạng tiền mặt ( hoặc chuyển khoản). Cổ tức tiền mặt làm chuyển giao giá trị kinh tế từ công ty sang cho các cổ đông thay vì công ty sử dụng tiền đó cho hoạt động của mình. Tuy nhiên, điều này cũng gây ra một sự giảm mạnh trong giá cổ phần của công ty một lượng đúng bằng cổ tức được chia. Cổ tức cổ phần được cho là tốt hơn so với cổ tức tiền mặt nếu chúng không đi kèm với quyền chọn cổ tức tiền mặt. Điều này đơn giản chỉ bởi chúng ta đang so sánh giữa cổ tức cổ phần và cổ tức tiền mặt. Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa là cổ tức tiền mặt không tốt, đơn giản là cổ tức tiền mặt không có sự lựa chọn nào ngoài việc bạn phải nhận tiền mặt. Cổ đông vẫn có thể tái đầu tư từ cổ tức tiền mặt vào công ty thông qua các dự án tái đầu tư từ cổ tức. Ưu điểm lớn nhất của tiền mặt là tính thanh khoản rất cao, cầm tiền mặt trong tay bao giờ cũng chắc chắn hơn là bạn cầm cổ phiếu trong tay. Hơn nữa, việc đánh thuế trên cổ tức tiền mặt được nhận vẫn chưa được thực hiện tại Việt Nam. Nếu bạn là nhà đâu tư ngại rủi ro và muốn chắc chắn thì có lẽ bạn sẽ yêu thích cổ tức tiền mặt hơn, vì giá trị của chúng rất chắc chắn. Và các doanh nghiệp chi trả cổ tức bằng tiền mặt có thể là một sự lựa chọn của bạn. Nếu phải trả cổ tức trong khi thực tế doanh nghiệp lại đang rất cần vốn, công ty có thể trả cổ tức bằng cổ phiếu thay cho tiền mặt. Bản chất của việc trả cổ tức bằng cổ phiếu là một cam kết tái đầu tư của cổ đông để sau đó chính cổ đông sẽ thu được nhiều hơn nữa lợi nhuận trong tương lai. Trả cổ tức bằng cổ phiếu cũng làm giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán được điều chỉnh giảm xuống và trở nên “rẻ hơn nữa” trong con mắt của nhà đầu tư, đặc biệt khi thị trường đang lên. Tóm lại, chia cổ tức bằng lợi nhuận cho dù dưới hình thức tiền mặt hay cổ phiếu đều không làm thay đổi giá trị của cổ phiếu, DN nên có những pt đúng đắn để đưa ra chính sách trả cổ tức phù hợp..... 17. Việc tăng thuế TNDN trong khi các yếu tố khác ko đổi chắc chắn làm giảm tỷ lệ nợ trong cơ cấu vốn Thầy Tuấn: Khi tăng thuế TNDN => DN ưu tiên sử dụng nợ ( đưa ra VD về lá chắn thuế), tuy nhiên còn phụ thuộc vào ý kiến chủ quan của nhà quản lý tài chính. VD lá chắn thuế là lãi vay: Chúng ta có 2 dự án xem xét: Dự án 1: Doanh nghiệp không vay tiền để đầu tư mà chỉ sử dụng nguồn vốn nội tại của mình. Dự án 2: Doanh nghiệp đi vay để đầu tư. Vay 400.000 $, lãi vay 10%. Thuế thu nhập doanh nghiệp cho cả hai dự án đều là 35%. Ta xem xét bảng sau: EBIT Dự án 1 100 Dự án 2 100 Lãi vay 0 40 LNTT 100 60 Thuế (35%) 35 21 LNST 65 39 TN cho cổ đông, chủ nợ 65 79 Trong đó: EBIT là thu nhập trước thuế và lãi vay của doanh nghiệp, lúc này cả hai dự án doanh nghiệp đều có thể thu về 100.000$. 18. Cơ cấu vốn và chi phí vốn của DN. Nhận xét về cơ cấu vốn của DN VN hiện nay - Lý thuyết: sgk 160 - Liên hệ: 19. Đòn bẩy tài chính tạo ra rủi ro tài chính. Tại sao các nhà quản trị không loại bỏ rủi ro này bằng cách chỉ tài trợ cho hoạt động kinh doanh bằng vốn cổ phần, tránh sử dụng Nợ vay? - Đòn bẩy tài chính tồn tại do chi phí tài chính cố định của doanh nghiệp (chi phí lãi vay, cổ tức của cổ phiếu ưu tiên). Đòn bẩy tài chính là sự sử dụng tiềm năng của chi phí tài chính cố định để làm gia tăng tác động của những thay đổi trong lợi nhuận trước thuế lên lợi nhuận cơ bản trên mỗi cổ phiếu của doanh nghiệp - Độ lớn của đòn bẩy tài chính (DFL)=%thay đổi EPS/% thay đổi EBIT. Bằng sự biến đổi số học có thể có: DFL = (Q(P-VC)-FC)/ (Q(P-VC)-FC-I-DP/(1-t)). Khi nào 1% thay đổi của EBIT tạo ra nhiều hơn 1% thay đổi của EPS thì đòn bẩy tài chính tồn tại. - Xét tác động của đòn bẩy tài chính với 2 DN A và B, trong đó A sử dụng 100% VCSH (0% nợ vay, không có CP ưu tiên, DFL=1), B sử dụng 50% VCSH (50% nợ vay, không có CP ưu tiên, DFL #1), xét 2 trường hợp khi doanh thu tăng và doanh thu giảm. Với DN A, trong 2 TH DFL=1. Với DN B, khi doanh thu tăng, EBIT tăng, DFL>1, EPS tăng nhiều hơn; khi doanh thu giảm, EBIT giảm, DFL>1, EPS giảm nhiều hơn ~~> rủi ro khi sử dụng đòn bẩy tài chính (đòn bẩy tài chính có tác động tiêu cực) - Các nhà quản trị không loại bỏ rủi ro này bằng cách chỉ tài trợ cho hoạt động kinh doanh bằng vốn cổ phần, tránh sử dụng nợ vay vì: + Đòn bẩy tài chính có thể mang lại rủi ro nhưng theo nguyên tắc rủi ro càng cao, lợi nhuận kỳ vọng càng cao thì với những nhà quản trị “mạo hiểm” thì vẫn có thể sử dụng đòn bẩy tài chính, thậm chí với mức cao. + Dựa trên lý thuyết lựa chọn cơ cấu vốn tối ưu, các nhà quản trị có thể đưa ra quyết định về cơ cấu vốn. Trên lý thuyết, có thể xác định được cơ cấu vốn tối ưu cho mọi doanh nghiệp nhưng trên thực tế không làm được điều này. Giải thích tương tự câu “có thể xác định được cơ cấu vốn tối ưu cho mọi doanh nghiệp” 20. Tại sao nói đòn bẩy kinh doanh là đòn bẩy giai đoạn đầu, đòn bẩy tài chính là đòn bẩy giai đoạn sau? Câu này t không biết chính xác, nghĩ là: đòn bẩy kinh doanh có thể xác lập dựa vào chí phí hoạt động cố định, ngay khi mới thành lập có thể sử dụng, còn đòn bẩy tài chính, để huy động được nợ vay và cp ưu tiên cần có thời gian lấy được lòng tin, thêm nữa, đòn bẩy tài chính có rủi ro, doanh nghiệp sau khi hoạt động 1 thời gian mới dám đối mặt với rủi ro này.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan