Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tóm tắt luận án tiến sĩ công nghiệp hỗ trợ trong một số ngành công nghiệp ở việt...

Tài liệu Tóm tắt luận án tiến sĩ công nghiệp hỗ trợ trong một số ngành công nghiệp ở việt nam

.PDF
24
106
80

Mô tả:

1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam, là một nước đang phát triển, đang trong tiến trình đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì phát triển công nghiệp hỗ trợ (CNHT) có vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển đất nước. Trong những năm gần đây, một số nước trên thế giới và ở Việt Nam đã chứng minh, sự phát triển đúng hướng của ngành CNHT là một trong những tiền đề quan trọng đóng góp vào quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân; phát triển CNHT là nhân tố đóng vai trò quyết định tới sự phát triển của các ngành công nghiệp. Tuy nhiên, CNHT ở Việt Nam còn khá non trẻ, quy mô nhỏ, tính cạnh tranh thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu của các ngành công nghiệp. Để phát huy lợi thế so sánh, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội nói riêng, quá trình hội nhập quốc tế nói chung, phù hợp với thực trạng nền kinh tế Việt Nam hiện nay thì lựa chọn phát triển CNHT trở thành một vấn đề mang tính khách quan và thiết thực. Đây là một vấn đề cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn, với ý nghĩa đó tác giả chọn đề tài: “Công nghiệp hỗ trợ trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam” làm luận án tiến sỹ, chuyên ngành kinh tế chính trị. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về CNHT, đặc biệt làm rõ vai trò và những tiêu chí đánh giá mức độ phát triển CNHT; Luận án phân tích, đánh giá thực trạng CNHT trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam, chỉ ra những kết quả đạt được, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra trong phát triển CNHT. Từ đó đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển CNHT trong một số ngành công nghiệp Việt Nam trong hội nhập quốc tế. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận án chủ yếu tập trung vào những nhiệm vụ cơ bản sau: - Luận giải những vấn đề lý luận chung về CNHT. Đặc biệt làm rõ vai trò của CNHT. - Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển CNHT của một số quốc gia. Từ đó rút ra một số bài học có giá trị tham khảo đối với Việt Nam. - Phân tích, đánh giá thực trạng CNHT trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam từ năm 2006 đến năm 2013. Từ đó chỉ ra những kết quả đạt được, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra đối với phát triển CNHT trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam hiện nay. 2 - Đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển CNHT trong một số ngành công nghiệp Việt Nam trong hội nhập quốc tế. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án Đối tượng nghiên cứu của Luận án là CNHT trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam, cụ thể là tập trung nghiên cứu CNHT ở 03 ngành chủ yếu là xe máy, dệt may và điện tử dưới góc độ kinh tế chính trị. 3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài luận án - Về không gian: Luận án nghiên cứu CNHT trong một số ngành công nghiệp Việt Nam, trong đó tập trung nghiên cứu CNHT của 03 ngành xe máy, dệt may, điện tử trên phạm vi cả nước. - Về thời gian: Luận án nghiên cứu CNHT trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam từ năm 2006 đến năm 2013. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Cơ sở lý luận Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đặc biệt là lý luận về phân công lao động và chuyên môn hóa sản xuất. Luận án sử dụng một số lý thuyết và mô hình kinh tế học như liên kết kinh doanh (business linkages), chuỗi giá trị (value chain), cụm liên kết doanh nghiệp công nghiệp (industrial cluster) để phân tích và làm rõ vấn đề nghiên cứu. 4.2. Phương pháp nghiên cứu - Tác giả sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm nền tảng cơ sở phương pháp luận. - Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, tác giả còn sử dụng các phương pháp cụ thể như: phương pháp trừu tượng hóa khoa học, phương pháp lôgic lịch sử, kết hợp với phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê... 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án - Làm rõ nội hàm và các nhân tố ảnh hưởng tới CNHT. - Những tiêu chí đánh giá mức độ phát triển của CNHT. - Luận giải rõ vai trò mang tính hai mặt của phát triển CNHT đối với nền kinh tế quốc dân nói chung và ngành công nghiệp nói riêng. - Phân tích, đánh giá thực trạng CNHT ngành xe máy, dệt may điện tử 2006 - 2013. - Trên cơ sở đó đề xuất quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển CNHT trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam đến năm 2020. 6. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận án bao gồm 4 chương, 10 tiết. 3 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ ĐƯỢC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1.1. Một số công trình khoa học của nước ngoài Gồm 16 công trình khoa học được nghiên cứu theo 4 nhóm: (1) Nhóm công trình khoa học lý luận chung về CNHT và vai trò của CNHT; (2) Nhóm công trình nghiên cứu về phát triển các ngành CNHT; (3) Nhóm công trình nghiên cứu về giải pháp phát triển CNHT. (4) Nhóm công nghiên cứu về CNHT với phát triển nền kinh tế nói chung. 1.1.2. Một số công trình khoa học nghiên cứu trong nước: Gồm 33 công trình được nghiên cứu theo 4 nhóm (như nêu tại Tiểu mục 1.1.1) Những kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học trên là tài liệu có giá trị tham khảo tốt cho tác giả trong quá trình thực hiện đề tài. 1.2. ĐÁNH GIÁ CHUNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU 1.2.1. Đánh giá chung về những kết quả của các công trình khoa học đã nghiên cứu Các công trình khoa học đã nghiên cứu cấu trúc ngành CNHT, làm rõ một số đặc điểm của CNHT trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng, vai trò và sự cần thiết phát triển CNHT trong nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp và của nền kinh tế. Các nghiên cứu cũng trình bày kinh nghiệm của một số nước trong phát triển CNHT; tổng quan thực trạng ngành CNHT trong quá trình phát triển của một số ngành công nghiệp và chỉ rõ ưu điểm, thành tựu, hạn chế, những nguyên nhân của hạn chế,... qua đó rút ra một số kinh nghiệm, gợi ý cho quá trình hoạch định cơ chế, chính sách phát triển CNHT ở Việt Nam. 1.2.2. Những vấn đề còn trống cần tiếp tục nghiên cứu Mặc dù có khá nhiều công trình nghiên cứu, điều tra, khảo sát về CNHT, song ở tầm vĩ mô, các công trình khoa học nghiên cứu vẫn chưa luận giải rõ và đề cập đến: (i) Nội hàm của CNHT dưới góc độ kinh tế chính trị; (ii) Vai trò của CNHT đối với nền kinh tế nói chung và ngành công nghiệp Việt Nam nói riêng; (iii) Đánh giá thực trạng CNHT trong một số ngành công nghiệp xe máy, dệt may và điện tử; (iv) Những thuận lợi, khó khăn và nhân tố mới ảnh hưởng đến phát triển CNHT hiện nay ở Việt Nam; (v) Giải pháp nhằm phát triển CNHT ngành xe máy, dệt may và điện tử. 4 Chương 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ 2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ 2.1.1. Quan niệm về công nghiệp hỗ trợ Từ quan niệm về công nghiệp hỗ trợ của các nhà nghiên cứu, tác giả luận án cho rằng: CNHT là một ngành kinh tế kỹ thuật, bao gồm các ngành sản xuất sản phẩm trung gian, cung cấp linh, phụ kiện máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu đã qua chế biến và các dịch vụ hỗ trợ sản xuất theo các quy trình nhất định để lắp ráp các sản phẩm cuối cùng. Từ phân tích trên có thể hiểu nội hàm của CNHT như sau: (i) Là một ngành kinh tế kỹ thuật đặc thù thuộc ngành công nghiệp, nảy sinh từ phân công lao động, chuyên môn hóa sản xuất ở giai đoạn cao, phổ biến. (ii) Có sự kết hợp nhân tố con người và máy móc trong môi trường làm việc có tính chuyên môn hóa cao và trình độ nhất định. (iii) Tính liên kết ngành rất cao, rất đa dạng với công nghệ cao phục vụ lượng lớn các ngành lắp ráp. (iv) Thể hiện quy luật liên kết, mối quan hệ lợi ích kinh tế giữa các chủ thể sản xuất, giữa tính độc lập và tính phụ thuộc trong quá trình sản xuất sản phẩm, giữa công nghiệp chính và CNHT, giữa công ty mẹ và công ty con, giữa người nhận vốn và người đầu tư vốn...(v) Gồm những sản phẩm trung gian, gắn liền và phụ thuộc với sản phẩm công nghiệp chính. 2.1.2. Đặc điểm của công nghiệp hỗ trợ Về tính đa cấp và liên kết : Trong quá trình sản xuất công nghiệp luôn có sự đan xen, tác động lẫn nhau; sản phẩm đầu ra, quá trình sản xuất của ngành này lại là sản phẩm hỗ trợ hay sản phẩm đầu vào, quá trình sản xuất cho ngành khác. Sự đan xen, tác động lẫn nhau như thế sẽ tiếp tục cho đến khi có được sản phẩm lắp ráp hoàn chỉnh cuối cùng. Tính đa cấp của CNHT kéo theo sự phân chia khá rõ ràng trong các thành phần tham gia CNHT và xuất hiện nhà cung cấp lớp I, lớp II, lớp III..., trên cùng là nhà lắp ráp sản phẩm cuối cùng. Từ đó xuất hiện phổ biến trong các hình thức tổ chức sản xuất công nghiệp theo kiểu thầu phụ/vệ tinh, liên doanh, liên kết trong một mạng lưới tổ chức sản xuất phối hợp, thống nhất và có tính hợp tác cao giữa các doanh nghiệp chính và các doanh nghiệp sản xuất hỗ trợ. Về công nghệ: Để có một sản phẩm lắp ráp hoàn chỉnh khi đưa ra thị trường, quá trình sản xuất luôn đòi hỏi sự đa dạng về công nghệ và trình độ công nghệ. Các sản phẩm hỗ trợ đều đòi hỏi mức độ, trình độ công nghệ khác nhau, liên quan nhiều lĩnh vực sản xuất khác nhau, từ những sản phẩm có mức độ công nghệ cao, phức tạp cho tới những sản phẩm gia công cơ khí... Thường những bộ phận tinh xảo, có giá trị gia tăng lớn, đòi hỏi kỹ thuật, công nghệ rất cao sẽ do những nhà cung cấp lớn có trình độ công nghệ cao đảm nhận. 5 Về thị trường: Thị trường CNHT ngày càng mở rộng, dung lượng thị trường không chỉ đáp ứng trong nội bộ ngành mà còn đáp ứng nhu cầu liên ngành, đa ngành và không giới hạn không gian địa lý, quan trọng là các sản phẩm có mối liên kết và nằm trong chuỗi giá trị với độ tinh xảo, chuyên môn hóa cao, có khả năng cạnh tranh đáp ứng được nhu cầu của các nhà lắp ráp. Các nước có ngành CNHT phát triển, sau khi đảm bảo cung cấp sản phẩm cho công nghiệp trong nước có thể xuất khẩu sang nước khác. Người tiêu dùng cuối cùng của các ngành CNHT là các nhà lắp ráp sản phẩm công nghiệp, do vậy, thị trường của CNHT không rộng như sản xuất sản phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng cuối cùng. Đây là thách thức lớn trong quá trình phát triển CNHT. Sản phẩm CNHT có thể linh hoạt thay đổi phục vụ linh phụ kiện cho nhiều hãng lắp ráp sản xuất CNHT trở nên hấp dẫn và ổn định hơn nếu doanh nghiệp sản xuất sản phẩm CNHT đáp ứng được nhu cầu của khách hàng dài hạn, “thị trường chuyên biệt” hay “thị trường đặc thù”. Về nguồn nhân lực: CNHT là ngành đòi hỏi nguồn nhân lực có trình độ cao; các nhà vận hành máy móc, kiểm soát viên về chất lượng sản phẩm, các kỹ thuật viên và các kỹ sư có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, được đào tạo theo tiểu chuẩn, trình độ lành nghề, chuyên môn sâu. Do vậy, điểm làm nên điều khác biệt chính là đội ngũ nhân công có tay nghề cao vì họ chính là những người trực tiếp vận hành, cải tiến máy móc, phát minh ra những phương pháp mới nhằm nâng cao hiệu quả công việc. Có thể nói rằng, sự thành công của các doanh nghiệp trong ngành CNHT phụ thuộc rất lớn vào đội ngũ kỹ sư và chuyên gia. Về đối tượng tham gia: Với đặc thù sản xuất ra các linh phụ kiện phục vụ nhiều ngành công nghiệp lắp ráp, đã thu hút số lượng lớn doanh nghiệp với quy mô khác nhau tham gia; trong đó doanh nghiệp lớn thuộc nhóm đối tượng lớp 1, các lớp khác chủ yếu là DNNVV. Phát triển CNHT là cơ sở quan trọng và là tiền đề cho các doanh nghiệp nội địa tham gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế nói chung, hệ thống sản xuất của các công ty đa quốc gia nói riêng để tiếp nhận công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm, đem lại giá trị gia tăng cao; thu hút đầu tư nước ngoài và là cơ sở tạo lập một nền công nghiệp phát triển bền vững trong nước với một hệ thống các doanh nghiệp tham gia. 2.1.3. Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới công nghiệp hỗ trợ Thứ nhất: Môi trường kinh tế vĩ mô và cơ chế chính sách của Nhà nước Thứ hai: Các quan hệ liên kết khu vực và toàn cầu, ảnh hưởng của các tập đoàn đa quốc gia Thứ ba: Hội nhập kinh tế quốc tế Thứ tư: Các ngành công nghiệp cơ bản và khu vực hạ nguồn Thứ năm: Dung lượng thị trường 6 Thứ sáu: Tiến bộ khoa học công nghệ và năng lực nội địa hóa Thứ bảy: Nguồn lực tài chính và nguồn nhân lực Thứ tám: Hệ thống thông tin Thứ chín: Tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm 2.1.4. Tiêu chí đánh giá mức độ phát triển của công nghiệp hỗ trợ * Quy mô doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ: Đây là tiêu chí quan trọng đánh giá sự phát triển của CNHT. Số lượng doanh nghiệp CNHT cao thể hiện sự tham gia của các doanh nghiệp vào lĩnh vực này cao, khả năng cung cấp các yếu tố đầu vào cho các ngành công nghiệp chính phát triển. Các DNNVV có những ưu điểm riêng và thích hợp với lĩnh vực CNHT, việc đánh giá quy mô doanh nghiệp CNHT chỉ là việc xem xét khả năng đáp ứng yêu cầu cung cấp linh phụ kiện cho doanh nghiệp lắp ráp. * Trình độ công nghệ và tỷ lệ nội địa hóa: Tiêu đánh giá sự thay đổi về chất của phát triển CNHT thông qua việc đáp ứng yêu cầu về chất lượng sản phẩm, thời gian, yêu cầu của khách hàng khi có sự thay đổi. Điều này giúp cho các doanh nghiệp CNHT nâng cao năng lực cạnh tranh và tồn tại như một vệ tinh của TNCs và MNCs. Phát triển CNHT đồng nghĩa việc gia tăng tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm và hệ quả là giảm nhập siêu. Trong xu thế toàn cầu hóa, mỗi doanh nghiệp, quốc gia không tự mình sản xuất mọi loại sản phẩm, linh kiện. Việc nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, sẽ tăng tính chủ động trong cung cấp nguyên vật liệu, linh kiện và các sản phẩm trung gian cho ngành lắp ráp và cho nền kinh tế. * Năng lực cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp hỗ trợ: nghĩa là sản lượng, doanh thu, chất lượng, giá cả, tốc độ cung cấp, điều kiện mua bán, khả năng tạo ra năng suất, chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh và khả năng chiếm lĩnh thị phần của sản phẩm hỗ trợ đó trên thị trường. Việc nâng cao khả năng cạnh tranh, áp dụng KH - CN trong ngành CNHT có tính chất dẫn dắt sự phát triển khu vực hạ nguồn, góp phần thay đổi căn bản trong thiết kế và chế tạo sản phẩm ở khu vực hạ nguồn, tạo điều kiện thuận lợi cho ngành công nghiệp phát triển. * Mức độ đáp ứng yêu cầu của ngành công nghiệp hạ nguồn: Để đánh giá mức độ, tiềm năng phát triển của CNHT cũng như xem xét quá trình hình thành, phát triển CNHT có đúng hướng không, chúng ta phải xét đến mức độ, khả năng đáp ứng yêu cầu về số lượng, chất lượng, chủng loại đặc biệt là tiêu chuẩn kỹ thuật của CNHT đối với ngành công nghiệp chính. Hiện nay, còn tình trạng công ty lắp ráp thiếu hụt các loại linh kiện và phải bù đắp bằng cách nhập khẩu thì các nhà sản xuất trong nước không dám bỏ vốn đầu tư mua công nghệ sản xuất linh kiện phụ trợ đạt tiêu chuẩn của công ty lắp ráp. * Trình độ nguồn nhân lực: CNHT là khu vực chuyển giao và tiếp nhận công nghệ mới, nên đòi hỏi trình độ của người lao động cũng phải biến 7 đổi theo cho phù hợp, mặt khác đây cũng là khu vực mà lao động thực sự được khuyến khích sáng tạo. Chính vì thế, khi phân tích sự phát triển toàn diện và bền vững của CNHT, cần phân tích tỷ lệ lao động trình độ cao trong doanh nghiệp, chỉ số về trình độ được đào tạo, khả năng sử dụng máy móc, thiết bị kỹ thuật và khả năng sử dụng công nghệ vào sản xuất sản phẩm hỗ trợ và kỹ năng lao động… đó là những tiêu chí cơ bản đánh giá tiềm năng và lợi thế trong phát triển CNHT 2.2. VAI TRÒ CỦA PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN NÓI CHUNG VÀ NGÀNH CÔNG NGHIỆP NÓI RIÊNG 2.2.1. Mối quan hệ giữa công nghiệp hỗ trợ với ngành công nghiệp Trong phân công lao động: CNHT ra đời và phát triển là do mối quan hệ và yêu cầu của phân công lao động xã hội; CNHT là một khâu quan trọng trong hệ thống phân công lao động của doanh nghiệp được tách rời ra. Trong mối quan hệ phụ thuộc: CNHT phụ thuộc vào sự phát triển của các ngành công nghiệp chính; các ngành công nghiệp chính thúc đẩy sự phát triển của CNHT. Trong mối quan hệ phát triển: Thúc đẩy CNHT phát triển, nghĩa là xây dựng năng lực sản xuất và khả năng tham gia phân công lao động quốc tế của nền công nghiệp quốc gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế. Sự phụ thuộc lúc này không còn ở quan hệ một chiều, mà thực chất trở thành quan hệ hợp tác hai chiều tương đối bình đẳng, bởi lẽ chính các nhà sản xuất lắp ráp cũng sẽ phụ thuộc vào quốc gia đang sản xuất tích hợp cho họ. Việc phát triển CNHT sẽ phụ thuộc rất lớn vào chiến lược phát triển công nghiệp của quốc gia đang ở giai đoạn nào, mức độ nào và nằm ở đâu trong MLSX toàn cầu. 2.2.2. Vai trò có tính hai mặt của phát triển công nghiệp hỗ trợ Phát triển CNHT là cơ sở quan trọng thực hiện có hiệu quả quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường; hình thành cơ cấu kinh tế quốc dân theo hướng hợp lý, hiện đại; hạn chế nhập siêu, đảm bảo tính chủ động cho nền kinh tế; góp phần làm tăng sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp và của cả nền kinh tế; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động và đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; thúc đẩy chuyên môn hóa sản xuất và gắn phân công lao động quốc gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế; giúp tiếp thu chuyển giao công nghệ và là con đường nhanh nhất biến ngoại lực thành nội lực; nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài; đảm bảo cung ứng các linh phụ kiện phục vụ cho sự hoàn chỉnh sản phẩm của doanh nghiệp trong các ngành công nghiệp; đảm bảo cho các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp hoạt động hiệu quả, hoàn thành được kế hoạch sản xuất; và tạo giá trị gia tăng của sản phẩm công nghiệp. Bên cạnh những vai trò tích cực của phát triển CNHT, có những hạn chế không mong muốn, như: việc thu hút đầu tư nước ngoài vào phát triển 8 CNHT, sẽ tạo ra nguy cơ phụ thuộc vào các nhà đầu tư nước ngoài. Một số ngành công nghiệp mất đi tính độc lập, do bị phụ thuộc vào chiến lược phát triển và điều tiết thị trường của các MNCs, các doanh nghiệp FDI. Phân công lao động, chuyên môn hóa sâu sẽ cắt khúc các công đoạn, phân chia lợi ích đối lập nhau giữa các công đoạn. Thị trường CNHT cũng sẽ có những khuyết tật; có thể gây ô nhiễm môi trường, khai thác cạn kiệt tài nguyên và gây mất cân đối sản phẩm trong nền kinh tế. 2.3. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA VỀ PHÁT TRIỂN CNHT TRONG MỘT SỐ NGÀNH CÔNG NGHIỆP VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM Qua kinh nghiệm của Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan và Malaysia: về xây dựng môi trường kinh tế vĩ mô và cơ chế chính sách; về phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; về phát triển cụm liên kết ngành; về xây dựng mối liên kết giữa các doanh nghiệp; về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; về xây dựng cơ sở dữ liệu và trao đổi thông tin... có thể rút ra cho Việt Nam một số bài học về phát triển CNHT: Từ phía Chính phủ: Chính sách, chương trình hành động về CNHT phải rõ ràng, ổn định; các chương trình hành động toàn diện, cụ thể và bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp; xác định cơ quan đầu mối phụ trách CNHT trong cơ quan hành chính của Chính phủ. Xây dựng chính sách phù hợp với thực tiễn, xoá bỏ khoảng cách giữa chính sách được ban hành với việc thực thi chính sách; có các hành động quyết liệt, chế tài nghiêm khắc việc thực thi sai chính sách. Nghiên cứu thành lập các quỹ bảo lãnh tín dụng tạo trung gian kết nối giữa ngân hàng với các DNNVV; Ưu tiên ngành CNHT, sản phẩm CNHT; ưu đãi các TĐĐQG về đất đai, hạ tầng, thuế. Tăng cường đào tạo, phát triển tài năng cho CNHT, thành lập các cơ sở đào tạo, quỹ phát triển nhân lực, hỗ trợ chi phí đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật, lao động kỹ năng cao và nhận thức cho cán bộ công chức. Từ phía doanh nghiệp: Chủ động đầu tư, đổi mới công nghệ, trang thiết bị, nâng cao năng lực, chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp; tham gia các chương trình đào tạo của ngành, địa phương, hiệp hội... hoặc thuê các chuyên gia tổ chức đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ngay tại chỗ. Xây dựng mối liên kết, hợp tác chặt chẽ để trở thành doanh nghiệp vệ tinh, sản xuất sản phẩm phụ trợ cho bản thân doanh nghiệp. Xây dựng chiến lược về thương hiệu của doanh nghiệp. Tham gia và cung cấp thông tin, quá trình hoạt động của doanh nghiệp cho các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền để tiến tới xây dựng cơ sở dữ liệu về CNHT quốc gia. Ngoài những bài học về thành công Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan và Malaysia cũng có những bài học thất bại hoặc ít thành công trong phát triển CNHT. Như: Thái Lan còn thiếu sự phối hợp giữa các bộ, ngành, sự hiểu biết của doanh nghiệp về chính sách của Chính phủ Thái Lan. Malaysia thành lập “Công ty mỏ neo”, các doanh nghiệp đã thiếu sự nhiệt tình, do cơ 9 chế mỏ neo - cung ứng của Malaysia có sự đối xử thiếu công bằng giữa các ngành, các nhóm thương gia,... Việt Nam là nước đi sau, đây là những kinh nghiệm để Việt Nam nghiên cứu, lựa chọn phù hợp với điều kiện, thực tiễn của đất nước nhằm phát triển CNHT hiệu quả. Chương 3 THỰC TRẠNG CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ TRONG MỘT SỐ NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006 - 2013 3.1. NHỮNG THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN VÀ NHÂN TỐ MỚI ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ TRONG MỘT SỐ NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM 3.1.1. Những thuận lợi và khó khăn Những thuận lợi: Việt Nam nằm trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương có điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội thuận lợi; nguồn nhân lực dồi dào, nguồn tài nguyên phong phú. Thời gian gần đây, Nhật Bản, Hàn Quốc đã có sự chuyển hướng đầu tư vào Việt Nam. Chính phủ Việt Nam cũng đã dành sự quan tâm cho sự phát triển ngành CNHT thông qua việc ban hành các Nghị định, Quyết định về CNHT, những cơ chế chính sách khuyến khích, hỗ trợ lĩnh vực CNHT. Đi cùng với hệ thống chính sách, hệ thống kết cấu hạ tầng cũng được hiện đại hóa và tương đối đồng bộ, có giá trị lâu dài; hệ thống doanh nghiệp sản xuất CNHT ở Việt Nam cũng có nhiều chuyển biến so với thời gian trước; đồng thời, là sự quyết tâm rất cao trong việc phát triển CNHT của lãnh đạo các bộ, ngành, các cấp, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư triển khai các dự án và tiếp tục cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư. Những khó khăn: Năm 2007, Việt Nam mới có Quy hoạch phát triển CNHT đến năm 2010, tầm nhìn 2020. Tuy nhiên, Quy hoạch chưa tập trung, phân theo lộ trình và cụ thể hóa bằng các chế độ theo từng lĩnh vực quản lý của các bộ, ngành. Năm 2011, Thủ tướng Chính phủ mới ban hành Quyết định 12/QĐ-TTg về chính sách phát triển một số ngành CNHT. Các hỗ trợ ưu đãi và bảo lãnh tín dụng đầu tư cho doanh nghiệp trong lĩnh vực CNHT gần như không có gì mới so với chính sách hỗ trợ DNNVV. Chính sách phát triển các khu, cụm công nghiệp vẫn chỉ tập trung vào số lượng, thiếu quy hoạch đồng bộ trên phạm vi cả nước... Ngành CNHT ở Việt Nam còn yếu, các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm hỗ trợ còn rất ít, công nghệ lạc hậu, nguồn nhân lực phục vụ CNHT hạn chế... nên chưa đáp ứng được yêu cầu của ngành công nghiệp chế tạo, lắp ráp. Mặc dù có nhiều triển vọng, song do phát triển trên nền sản xuất khép kín, tỷ trọng doanh nghiệp nhà nước cao, công nghệ lạc hậu, doanh nhân thiếu năng động; với dung lượng thị trường nhỏ, chưa đủ quy mô sản xuất kinh tế, giá thành sản xuất cao, sức cạnh tranh thấp nên thương hiệu và thị phần của CNHT Việt Nam còn nhiều giới hạn. 10 3.1.2. Một số nhân tố mới ảnh hưởng đến phát triển công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam Việc thực hiện cam kết Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA): Gia nhập AFTA, hàng hoá của Việt Nam sẽ được hưởng thuế suất ưu đãi, có điều kiện thuận lợi hơn để thâm nhập thị trường của tất cả các nước thành viên ASEAN. Tuy nhiên, việc xoá bỏ các hàng rào thuế quan và phi quan thuế đã xoá bỏ sự bảo hộ của Chính phủ đối với các doanh nghiệp, buộc các doanh nghiệp phải tham gia thực sự vào cuộc cạnh tranh khốc liệt trên thị trường khu vực; cơ hội cho ngành CNHT càng bị thu hẹp hơn. Việt Nam cần có chiến lược dài hạn xây dựng và phát triển ngành CNHT để giữ chân các nhà đầu tư nước ngoài và mang lại giá trị gia tăng cao cho nền kinh tế. Việc ký kết Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP): Với mục tiêu xóa bỏ phần lớn thuế quan cho hàng hóa giữa các nước, TPP sẽ là con đường tốt nhất cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam tăng sức cạnh tranh về giá khi tiếp cận thị trường các nước đối tác TPP, doanh nghiệp Việt Nam thuận lợi trong tiếp cận những mô hình, phương thức quản lý hiện đại và hiệu quả. Công nghệ, thiết bị, nguyên vật liệu sẽ phong phú, giá thấp hơn sản xuất trong nước. Tuy nhiên, các quy định kỹ thuật, quy tắc xuất xứ quy định về nguyên vật liệu để sản xuất ra sản phẩm… có thể là những rào cản đối với hàng hóa Việt Nam. Do vậy, Việt Nam cần xây dựng ngành CNHT vững mạnh tham gia vào bức tranh công nghiệp hóa trong khu vực. Hợp tác công - tư (PPP): Trong Dự thảo của Nghị định về PPP, Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ có 9 lĩnh vực đầu tư theo hình thức PPP được ưu tiên. Ngoài các lĩnh vực liên quan đến hạ tầng cơ sở, thì lĩnh vực đầu tư hạ tầng khu kinh tế, khu công nghiệp, cụm công nghiệp…cũng thuộc lĩnh vực ưu tiên đầu tư. Khi các dự án thuộc lĩnh vực này được triển khai, CNHT nói riêng và các ngành kinh tế khác nói chung ở nước ta sẽ có nhiều triển vọng phát triển. Các doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được chi phí vận chuyển, bốc dỡ hàng do giao thông thuận tiện, các cảng được bố trí hợp lý; tiết kiệm được chi phí sản xuất do được hưởng lợi từ thành quả của các công trình xử lý nước thải, cơ sở hạ tầng thương mại được triển khai… Đây cũng chính là sự kỳ vọng để các ngành CNHT Việt Nam phát triển trong tương lai gần. Hoạt động chuyển giá: Hiện nay, lỗ hổng để doanh nghiệp lợi dụng chuyển giá là do CNHT của Việt Nam chậm phát triển, các doanh nghiệp FDI thường nhập khẩu các nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất với giá cao hơn giá thực tế. Việc góp vốn bằng máy móc, trang thiết bị, công nghệ hiện đại, tiên tiến của doanh nghiệp nước ngoài, do trong nước chưa có đủ năng lực và trình độ thẩm định nên nhiều dự án bị đối tác nước ngoài định giá thiết bị, công nghệ cao hơn thực tế... 11 3.2. THỰC TRẠNG CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ TRONG NGÀNH CÔNG NGHIỆP XE MÁY, DỆT MAY VÀ ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM Theo Báo cáo Năng lực cạnh tranh công nghiệp Việt Nam năm 2012 do Bộ Công Thương phối hợp với UNIDO, từ năm 2005 đến năm 2009, Việt Nam tăng 15 bậc trong Bảng xếp hạng hiệu suất công nghiệp của UNIDO (từ hạng 73 lên thứ hạng 58). Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), chỉ số cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam năm 2012/2013 xếp vị trí thứ 75/144 quốc gia; 2013/2014 xếp vị trí thứ 70 trên 148 quốc gia. Theo Tổng cục Thống kê, năm 2012 - 2013, giá trị gia tăng công nghiệp bình quân đạt 6,0%. Số lượng doanh nghiệp ngành công nghiệp năm 2000 là 10.938, trong đó số doanh nghiệp sản xuất các loại kinh kiện, phụ tùng là 1.123 doanh nghiệp; đến năm 2013 tăng lên 1.383 doanh nghiệp. Tổng số lao động ngành chế tạo chế biến năm 2005 là 5.031,2 nghìn, năm 2012 là 7.460,7 nghìn, đến năm 2013 là 7.654,6 nghìn lao động. 3.2.1. Công nghiệp hỗ trợ trong ngành công nghiệp xe máy Ngành xe máy Việt Nam, xuất hiện từ những năm 1990, khởi đầu là sự xuất hiện của các nhà lắp ráp nước ngoài. Theo Bộ Công thương, năm 2013 khoảng 5 triệu xe được lắp ráp trong nước; dự kiến đến năm 2015, lượng xe máy lưu hành trong cả nước năm 2020 khoảng 33,5 triệu xe. Năm 2011, số lượng doanh nghiệp CNHT xe máy khoảng 173 doanh nghiệp, tổng nguồn vốn là 31.512 tỷ đồng. Năm 2012 và 2013, số lượng doanh nghiệp sản xuất xe máy gần như không tăng, nhưng các doanh nghiệp đã tăng cường đầu tư mở rộng quy mô sản xuất. Điển hình Liên doanh Honda, tháng 12/2011 khởi công xây dựng nhà máy thứ 3 tại KCN Đồng Văn 2 (Hà Nam), với vốn đầu tư hơn 120 triệu USD, đưa tổng công suất cả 3 nhà máy lên 2,5 triệu chiếc/năm và tăng thêm khoảng 1.800 lao động. Công ty Cơ khí Mạnh Quang sản xuất phụ tùng xe máy của Việt Nam, đầu tư mở rộng thêm 2 nhà máy cùng hàng loạt máy móc chuyên dụng hiện đại của nước ngoài, đưa doanh thu từ nguồn bán phụ tùng xe máy lên khoảng 250 tỷ đồng/năm. Năm 2012, Bộ Công thương đã đề nghị Chính phủ cho 6 dự án sản xuất phụ tùng xe máy được vay vốn đầu tư ưu đãi từ quỹ đầu tư phát triển; với tổng số vốn dự án đầu tư thiết bị công nghệ của các dự án này khoảng 13,5 triệu USD. Như vậy, số doanh nghiệp nội địa tham gia vào hệ thống CNHT ngày càng tăng về số lượng và nâng cao dần chất lượng các linh kiện cung ứng, xuất khẩu ra thị trường thế giới. Các doanh nghiệp nội địa và doanh nghiệp FDI đều đã có những lô hàng xuất khẩu xe máy nguyên chiếc sang các thị trường như Châu Phi, châu Mỹ La Tinh… Năm 2011, lao động trong ngành CNHT xe máy khoảng 44.579 lao động, công nghệ lắp ráp và chế tạo luôn được đầu tư, đổi mới; lực lượng lạo động được đào tạo và nâng cao kỹ năng. Năm 2012, tỷ lệ nội địa hóa ngành xe máy đạt từ 80 - 90%; năm 2013, một số dòng xe của Honda như Future, 12 SH vượt mức trên 90%. Thành công lớn nhất đối với ngành CNHT sản xuất và lắp ráp xe máy của Việt Nam từ chỗ phải nhập khẩu 100% linh phụ kiện của nước ngoài, giờ đây đã có thể tự sản xuất được khoảng 70% các loại linh kiện, phụ tùng, góp phần nâng cao tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm xe máy sản xuất tại Việt Nam. Tuy nhiên, giá thành các linh kiện, phụ kiện sản xuất trong nước vẫn còn cao, chất lượng chưa ổn định. 3.2.2. Công nghiệp hỗ trợ trong ngành công nghiệp dệt may Giai đoạn từ 2002 - 2007, ngành dệt may Việt Nam có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đạt 20% năm. Năm 2012, Việt Nam vươn lên đứng thứ 5 trong số các nước xuất khẩu lớn trên thế giới. Năm 2013, ngành này đạt khoảng 19 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu. Năm 2005, giá trị sản xuất công nghiệp CNHT ngành dệt may đạt 8.934,2 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 25,95% ngành dệt may; năm 2013, đạt 99.671,9 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 32,5% toàn ngành dệt may. Tính đến cuối năm 2012, số lượng doanh nghiệp CNHT cho ngành dệt may khoảng 1.280 doanh nghiệp, chiếm 31,26% tổng số doanh nghiệp toàn ngành. Lao động trong lĩnh vực CNHT ngành dệt may đạt mức tăng trưởng 3,2%/năm giai đoạn 2006 – 2013. Với trên 209 nghìn lao động năm 2013 lĩnh vực CNHT ngành dệt may, chiếm 16,9% trong tổng số lao động toàn ngành. Tuy nhiên, chất lượng lao động của ngành dệt may chưa cao: ngành dệt, lao động qua đào tạo chiếm 35,1%, trình độ cao đẳng trở lên là 7%; ngành may, 18,24% tổng số lao động có trình độ cao đẳng, đại học, 4,16% trên đại học. Sau hai năm triển khai Chương trình phát triển cây bông vải Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020, ngành bông Việt Nam từng bước được khôi phục. Diện tích trồng bông tăng dần theo vụ: vụ bông 2012/2013, diện tích trồng 12.000 ha, đạt 5.180 tấn bông xơ, tăng 10,4% so với mùa vụ trước. Hiện số lượng máy móc, thiết bị, trình độ công nghệ ngành dệt may còn hạn chế và lạc hậu. Các doanh nghiệp đầu ngành như Công ty Cổ phần Cơ khí may Gia Lâm, Công ty Cổ phần Cơ khí may Nam Định… đã sản xuất một số chi tiết phụ tùng thay thế và một số máy móc phục vụ ngành dệt may, nhưng do năng lực, thiết bị hạn chế, nên chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển nhanh của các doanh nghiệp dệt may; hầu hết thiết bị công nghệ phải nhập khẩu từ nước ngoài. Trong chuỗi giá trị toàn cầu của hàng dệt may, Việt Nam mới chỉ tham gia vào khâu sản xuất sản phẩm cuối cùng với lượng giá trị gia tăng thấp nhất trong chuỗi giá trị. Phần lớn các nhà sản xuất sản phẩm dệt may của Việt Nam đang thực hiện các hợp đồng ủy thác xuất khẩu CMT (gia công thuần túy). Việt Nam có tên trong top các nước xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới nhưng giá trị thu về thấp. 3.2.3. Công nghiệp hỗ trợ trong ngành công nghiệp điện tử Năm 1990, công nghiệp điện tử Việt Nam có vài chục doanh nghiệp, đến nay đã có gần 500 doanh nghiệp, trong đó khoảng 1/3 là các doanh 13 nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, sử dụng khoảng 250 ngàn lao động, đáp ứng được nhu cầu trong nước với các loại sản phẩm điện tử, điện lạnh, công nghệ thông tin - viễn thông thông dụng với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 20 - 30%/năm. Từ năm 2011 - 2013, sản phẩm công nghệ thông tin tăng trưởng từ 20% - 30%. Hiện nay, Việt Nam đang sản xuất các sản phẩm hỗ trợ chủ yếu là mạch in, màn hình, vi mạch bán dẫn, các bộ cảm biến, các linh kiện, phụ tùng cho thiết bị viễn thông, thiết bị truyền dẫn, bán dẫn, quang điện tử, vi điều khiển…Tổng doanh thu công nghiệp điện tử Việt Nam tăng đều năm sau cao hơn năm trước. Từ 34.782 tỷ đồng năm 2005, 286.269 tỷ đồng năm 2012 tăng lên 308.311 tỷ đồng năm 2013. Số lượng doanh nghiệp CNHT tăng lên năm 2006 có 120 doanh nghiệp, năm 2010 là 372 doanh nghiệp. Đến năm 2013, lên tới 630 doanh nghiệp. Vốn kinh doanh bình quân của các doanh nghiệp này năm 2005 là 21.735 tỷ đồng, năm 2010 là 78.724 tỷ đồng, năm 2013 là 124.000 tỷ đồng; tổng số lao động khoảng 240 nghìn người, giá trị tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn khoảng 60,5 nghìn tỷ đồng, với tổng doanh thu thuần đạt khoảng 286 nghìn tỷ đồng. Năm 2005, tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm trong ngành công nghiệp điện tử rất thấp khoảng 20%; chủ yếu là bao bì, linh kiện nhựa. Hiện nay, linh kiện điện tử và các sản phẩm hỗ trợ của ngành công nghiệp điện tử mới được sản xuất ở Việt Nam, tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm được tăng dần lên do có thêm các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia. Tỷ lệ nội địa hóa của lắp ráp tivi trung bình khoảng 40%; các sản phẩm thuộc nhóm gia dụng (máy giặt, tủ lạnh, điều hòa) khoảng 35%; nhóm nghe nhìn khoảng 30%. Theo điều tra của Tổng Công ty Điện tử Tin học Việt Nam (năm 2010), tỷ lệ nội địa hoá của các công ty liên doanh lớn (SONY, Toshiba, JVC, Deawoo) đạt khoảng 30%. Sau 5 năm gia nhập WTO, giá trị xuất khẩu của nhóm các sản phẩm công nghệ thông tin không ngừng tăng cao, năm 2011, đạt tới 6,8 tỷ USD và tiếp tục tăng trưởng mạnh năm 2012 và năm 2013. Về sản xuất linh kiện điện tử, từ năm 2007 tới 2013, các dự án đầu tư vào lĩnh vực điện tử đều có sản xuất linh kiện. Về hàm lượng giá trị lao động của người Việt Nam trong các sản phẩm điện tử bình quân chỉ chiếm 5% - 10% giá trị sản phẩm. Đến nay, Việt Nam không có một cơ sở sản xuất công nghiệp nào tham gia vào việc sản xuất vật liệu điện tử, chỉ có ở dạng nghiên cứu cơ bản hoặc sản xuất theo mô hình phòng thí nghiệm. 3.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ TRONG MỘT SỐ NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM 3.3.1. Những thành tựu Ngành CNHT Việt Nam đang từng bước phát triển. Hiện nay, có trên 60.000 doanh nghiệp đang phát triển và hình thành các cơ sở sản xuất nguyên liệu, phụ tùng, linh kiện, vật tư hỗ trợ để phục vụ cho nhu cầu lắp ráp một số mặt hàng công nghiệp để phục vụ nội địa và xuất khẩu. Các doanh nghiệp Việt 14 Nam cũng đã có sự đổi mới mạnh mẽ về công nghệ, trang thiết bị, đầu tư dây truyền máy móc gia công tiên tiến và hiện đại. Trình độ của đội ngũ nhân lực, cả kỹ sư và công nhân được nâng cao. Chi phí, hiệu quả sản xuất, sự chính xác của thời gian giao hàng được chú trọng. Một số doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn đã bắt đầu bỏ hình thức sản xuất tích hợp theo chiều dọc trước đây và chuyển sang hình thức đầu tư chiều sâu, chuyên môn hóa sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Lĩnh vực sản xuất linh kiện kim loại đã đáp ứng được 85 - 90% nhu cầu sản xuất xe máy; 40 - 60% cho sản xuất các loại máy nông nghiệp, máy động lực và 40% cho máy xây dựng. Đưa tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm một số ngành công nghiệp khá cao như ngành xe máy 70 - 90%, trang thiết bị điện 80 - 90%. Các linh kiện điện tử đã xuất khẩu tới hơn 50 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Các loại sợi sản xuất trong nước đáp ứng khá tốt nhu cầu của doanh nghiệp... Có thể nói, công nghiệp Việt Nam đã phát triển và có những đóng góp to lớn cho quá trình phát triển kinh tế xã hội và tăng thu hút FDI. Đặc biệt là chúng ta đã nhận thức rõ tầm quan trọng của CNHT và đã quan tâm nhiều hơn đến sự phát triển của ngành công nghiệp mới này. Vì thế, CNHT bước đầu đã có sự phát triển đáng khích lệ, góp phần tích cực đảm bảo tính bền vững, ổn định và hiệu quả lâu dài. 3.3.2. Hạn chế và nguyên nhân Những hạn chế: Số lượng doanh nghiệp chuyên về CNHT còn ít, trình độ còn thấp và lạc hậu so với khu vực và nhiều quốc gia trên thế giới. Sự tăng trưởng nguồn vốn đầu tư cho công nghiệp chế tạo với sự tăng trưởng giá trị sản xuất của ngành còn hạn chế, chưa tương xứng với giá trị sản xuất hàng năm. Hiện tại, các doanh nghiệp CNHT chủ yếu là DNNVV, quy mô sản xuất vẫn còn nhỏ, phân tán; khả năng cạnh tranh kém, hoạt động chủ yếu dưới dạng gia công, sản phẩm đơn giản, giá trị gia tăng thấp; mức độ bền vững của các liên kết thị trường giữa các doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp trong nước cũng rất kém. Một số doanh nghiệp Việt Nam đã đầu tư mua máy móc, dây chuyền thiết bị, công nghệ tiên tiến của nước ngoài, nhưng việc làm chủ các phần vận hành, bảo dưỡng trang thiết bị còn hạn chế. Tỷ lệ nội địa hóa một số ngành thấp, chưa sản xuất các sản phẩm kỹ thuật, công nghệ cao. Dung lượng thị trường các ngành công nghiệp hạ nguồn hiện nay ở Việt Nam nhỏ, chưa hấp dẫn sản xuất CNHT. Năng lực kỹ thuật công nghệ, năng lực tổ chức quản lý sản xuất của các doanh nghiệp CNHT còn thấp; việc áp dụng các tiêu chuẩn quản lý hiện đại mang tính hình thức. Doanh nghiệp khó kiểm soát chất lượng, tỷ lệ sản phẩm hỏng cao, dẫn đến giá thành sản phẩm chưa thực sự hấp dẫn được các nhà lắp ráp. Khả năng ứng dụng và tính sáng tạo của nguồn nhân lực rất hạn chế. Những nguyên nhân của hạn chế: Việc hoạch định chính sách ở Việt Nam, ít có sự tham gia của các của các nhà tài trợ, các chuyên gia, các nhà khoa học... Các định chế trung gian để hỗ trợ các doanh nghiệp trong phát 15 triển sản phẩm CNHT còn thiếu, đặc biệt là các chính sách hỗ trợ tài chính. Các quy định về quản lý hành chính còn rườm rà. Hạ tầng cung ứng cho doanh nghiệp khi tham gia vào CNHT chưa tốt, thiếu thốn và đắt đỏ, điều này sẽ làm chi phí sản xuất tăng lên, nhiều doanh nghiệp không dám đầu tư. Các doanh nghiệp trong nước không đủ niềm tin và ý thức tích lũy kỹ năng. Khả năng ứng dụng và tính sáng tạo của nguồn nhân lực còn hạn chế. Thiếu nguồn nhân lực công nghiệp cao một phần do xã hội chưa quan tâm đúng mức đối với các ngành CNHT, một phần do chất lượng đào tạo hiện nay thiếu tính thực tiễn. Các kênh thông tin giữa các doanh nghiệp FDI/nhà lắp ráp; các công ty nội địa, các tập đoàn lớn bên ngoài còn thiếu. Chưa có cơ sở dữ liệu quốc gia về lĩnh vực này. Tính hợp tác - liên kết giữa các doanh nghiệp hỗ trợ với các doanh nghiệp sản xuất lắp ráp, giữa nhà lắp ráp với các nhà sản xuất hỗ trợ, giữa các nhà sản xuất hỗ trợ với nhau còn yếu. Đặc biệt, thiếu sự liên kết giữa khối doanh nghiệp trong nước và khối doanh nghiệp FDI, phần nào hạn chế sự lan tỏa tích cực của FDI vào Việt Nam. Các nhà cung cấp Việt Nam ít chịu hợp tác, liên kết với các đối tác khác. Công tác hậu kiểm yếu, chưa được quan tâm, dẫn đến nhiều doanh nghiệp nước ngoài lợi dụng ưu đãi đầu tư, không thực hiện cam kết đầu tư hoặc giả danh vào Việt Nam đầu tư, rồi vay nợ làm ăn thua lỗ, bỏ nhà máy, bỏ dự án về nước. 3.3.3. Những vấn đề đặt ra trong phát triển công nghiệp hỗ trợ trong một số ngành công nghiệp Việt Nam. Một là, những vấn đề trong quy hoạch phát triển công nghiệp hỗ trợ Hai là, những vấn đề về vốn, công nghệ trong phát triển CNHT Ba là, những vấn đề về nhân lực trong phát triển công nghiệp hỗ trợ Bốn là, những vấn đề về phát triển công nghiệp hỗ trợ khi tái cấu trúc một số ngành công nghiệp ở Việt Nam sau khủng hoảng tài chính toàn cầu Chương 4 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ TRONG MỘT SỐ NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2020 4.1. QUAN ĐIỂM CƠ BẢN NHẰM PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ TRONG MỘT SỐ NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM Mối quan tâm hàng đầu hiện nay là đẩy mạnh công nghệ cao có tính đổi mới và độc lập trong các SMEs. Các nước trên thế giới và khu vực đều có xu hướng mở rộng thị trường, phát triển CNHT đạt ở mức độ cao về chuyên môn hóa và tham gia vào mạng lưới sản xuất trong khu vực và trên thế giới. Một làn sóng mới về đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp chế tạo Nhật Bản, Hàn Quốc gia tăng. Trong tương lai không xa, ngành CNHT sẽ trở thành trung tâm của nền công nghiệp. Các dịch vụ sản xuất, linh kiện, phụ 16 tùng, xây dựng và vận hành các dây chuyền lắp ráp, vận chuyển, phân phối sản phẩm như một chuỗi khép kín, mang tính toàn cầu. Các chuỗi cung ứng giá trị toàn cầu sẽ hình thành và phát triển. 4.1.1. Xu hướng phát triển các ngành công nghiệp và công nghiệp hỗ trợ Việt Nam đến năm 2020 tầm nhìn năm 2030 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định, mục tiêu phấn đấu đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Theo đó, xu hướng phát triển CNHT ngành xe máy, dệt may và điện tử như sau: CNHT xe máy Việt Nam, dự báo đầy triển vọng, nhiều nhà sản xuất trong lĩnh vực CNHT xe máy của Việt Nam đã có những bước điều chỉnh trong chiến lược sản xuất để nắm bắt cơ hội tốt này. Các liên doanh sản xuất xe máy ở Việt Nam cũng không ngừng mở rộng nhà máy, nâng công suất, tăng công suất sản xuất xe máy hiện có. Việc đầu tư lớn và mở rộng sản xuất của doanh nghiệp xe máy trong nước đã chứng tỏ thị trưởng xe máy ở Việt Nam vẫn tiềm năng trong chiến lược của những nhà đầu tư ngoại quốc. Ngành dệt may, phát triển theo hướng chuyên môn hóa, hiện đại hóa, tạo ra bước nhảy vọt về chất và lượng sản phẩm. Đáp ứng được 80% nhu cầu nội địa và tiến tới xuất khẩu sau năm 2020; đến năm 2030, ngành dệt may sẽ tập trung khâu thiết kế mẫu mã đáp ứng nhu cầu sản phẩm cao cấp phục vụ thị trường nội địa và xuất khẩu. CNHT ngành dệt may, tăng cường thu hút đầu tư, sản xuất xơ, sợi, vải và các nguyên phụ liệu ngành dệt may, hướng tới nội địa hóa các lĩnh vực CNHT để thay thế hàng nhập khẩu, nâng cao tính chủ động trong sản xuất và khả năng cạnh tranh của sản phẩm cuối cùng. Ngành điện tử, xây dựng một số nhà máy sản xuất các thiết bị điện tử y tế kỹ thuật cao, thiết bị cảnh báo điện tử. Đến năm 2020, nhóm ngành sản phẩm ưu tiên là linh kiện điện tử phục vụ sản xuất và lắp ráp thiết bị văn phòng, thiết bị viễn thông, đồ gia dụng, thiết bị nghe nhìn, cơ điện tử, linh kiện điện tử. Đến năm 2030, nhóm ngành sản phẩm ưu tiên hệ thống vi cơ điện tử (MENS), hệ thống NANO cơ điện tử (NEMS); vi mạch điện tử phục vụ ngành công nghệ cao; mạch tích hợp, bộ nhớ dung lượng cao; vật liệu bán dẫn, vật liệu từ tính phục vụ xuất khẩu. 4.1.2. Một số quan điểm cơ bản Nhận thức rõ vai trò phát triển CNHT, phải coi phát triển CNHT là khâu đột phá, tạo tiền đề phát triển các ngành công nghiệp Phát triển CNHT phải khai thác lợi thế quốc gia, hướng vào xuất khẩu, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, với sự tham gia của các thành phần kinh tế Phát triển CNHT phải tuân theo các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, phù hợp với thông lệ quốc tế, xây dựng nền kinh tế xanh và bền vững 17 Phải tăng cường vai trò của Nhà nước cho phát triển CNHT trong một số ngành công nghiệp Phát triển CNHT trong một số ngành công nghiệp phải đảm bảo tái cấu trúc ngành công nghiệp cũng như tái cấu trúc nền kinh tế Việt Nam hiệu quả 4.2. GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ TRONG MỘT SỐ NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM 4.2.1. Nhóm các giải pháp chung phát triển công nghiệp hỗ trợ trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam 4.2.1.1. Xây đựng Quy hoạch phát triển cho ngành công nghiệp hỗ trợ Với vai trò quan trọng của CNHT, việc xây dựng quy hoạch cho ngành CNHT là cần thiết và cấp bách, đảm bảo sự phát triển CNHT đúng định hướng, phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước. Trên cơ sở Chiến lược và Quy hoạch tổng thể phát triển các ngành công nghiệp Việt Nam đã ban hành, Chính phủ cần xây dựng Quy hoạch phát triển các ngành CNHT, dựa trên tiềm năng, lợi thế so sánh; có lộ trình, phương án quy hoạch dài hạn; cụ thể theo từng yêu cầu trong từng giai đoạn, cũng như ở mỗi địa phương, mỗi ngành; có sự phối hợp chặt chẽ và đồng thuận giữa các bên liên quan. Trước mặt, cần tập trung vào một số giải pháp cụ thể như: (i) tiếp tục nâng cao nhận thức về CNHT; xác định rõ phạm vi CNHT. (ii) Các Bộ, ngành tích cực phối hợp xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp để khuyến khích đầu tư phát triển CNHT; phát triển vùng nguyên liệu, nguồn nhân lực cho ngành CNHT. (iii) Các địa phương, rà soát, điều chỉnh quy hoạch phát triển CNHT địa phương mình phù hợp với định hướng phát triển ngành CNHT, ngành công nghiệp cả nước. (iv) Các doanh nghiệp căn cứ Quy hoạch phát triển CNHT điều chỉnh Chiến lược và Kế hoạch đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. (v) Bộ Công thương đẩy mạnh công tác giám sát, thanh tra, kiểm toán … quy hoạch phát triển của địa phương, của ngành, kịp thời có giải pháp hiệu quả, khả thi; định kỳ tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm. 4.2.1.2. Hoàn thiện hệ thống luật pháp và chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ Hoàn thiện thể chế về CNHT: Khung pháp lý điều tiết hoạt động của các chủ thể tham gia CNHT; thành lập cơ quan đầu mối thống nhất quản lý ở cấp vĩ mô và hiệp hội doanh nghiệp CNHT để phối hợp, liên kết hoạt động ở cấp vi mô. Tạo thuận lợi về quỹ đất cho các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm hỗ trợ, được thuê lâu dài và ổn định. Xây dựng các doanh nghiệp chủ chốt ở một số lĩnh vực cơ khí chế tạo, sản xuất linh kiện theo hình thức thành lập mới, khi đi vào hoạt động có hiệu quả thì sẽ triển khai cổ phần hóa. Điều chỉnh một số chính sách tài chính hiện hành liên quan đến phát triển CNHT, có sự ưu tiên, trọng tâm từng giai đoạn phát triển. 18 (1) Chính sách ưu đãi về thuế: Đối với thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu: lĩnh vực CNHT cần được ưu tiên tương tự như lĩnh vực “đặc biệt khuyến khích đầu tư”, để khi nhập khẩu hàng hóa được miễn thuế nhập khẩu. Đối với thuế giá trị gia tăng (VAT): các sản phẩm, linh kiện được các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp hạ nguồn chấp thuận và đặt hàng; các dự án sản xuất sản phẩm CNHT cho phát triển công nghệ cao, Chính phủ hỗ trợ thuế VAT thấp từ 5 -7% (mức thuế quy định là 10%) và có cơ chế miễn, giãn thuế VAT khi gặp điều kiện kinh tế khó khăn, nhằm kích cầu đầu tư và sử dụng sản phẩm CNHT trong nước đối với một số sản phẩm CNHT. Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp, được miễn thuế TNDN trong 4 năm kể từ khi có thu nhập chịu thuế và giảm 50% cho 9 năm tiếp theo. Đề xuất, ưu đãi tương tư đối với các doanh nghiệp nội địa làm công việc hỗ trợ. Đối với thuế thu nhập cá nhân, người Việt Nam và người nước ngoài làm việc tại Khu công nghiệp, Khu kinh tế được giảm 50% thuế thu nhập đối với người có thu nhập thuộc diện chịu thuế thu nhập,... (2) Chính sách liên quan đến chi phí sản xuất: Các doanh nghiệp đầu tư trong lĩnh vực CNHT không thuộc Danh mục lĩnh vực hoặc đặc biệt khuyến khích đầu tư (khoản A - Phụ lục I - Nghị định 108/2006/NĐ-CP), vì vậy không thuộc nhóm đối tượng được hưởng các ưu đãi về thuế sử dụng đất, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất và tiền thuê mặt nước theo quy định của pháp luật về đất đai và pháp luật về thuế (Điều 26, Nghị định 108/2006/NĐ-CP). Đề xuất bổ sung doanh nghiệp đầu tư lĩnh vực CNHT vào Danh mục lĩnh vực hoặc đặc biệt khuyến khích đầu tư để được hưởng ưu đãi này. (3) Chính sách tín dụng: Nghiên cứu kinh nghiệm của Nhật Bản để thành lập hệ thống ngân hàng phục vụ các DNNVV, có cơ chế về bảo lãnh tín dụng, về thế chấp tài sản... 4.2.1.3. Gắn kết chặt chẽ giữa phát triển công nghiệp hỗ trợ với hoạt động của các doanh nghiệp trong một số ngành công nghiệp Đẩy mạnh việc giới thiệu nhu cầu phát triển và sử dụng sản phẩm hỗ trợ, nâng cao tính chuyên nghiệp của các hội chợ, chợ công nghiệp, triển lãm, hội thảo chuyên đề về phát triển CNHT. Xây dựng các chương trình hợp tác dài hạn với các đối tác chiến lược - các công ty, tập đoàn đa quốc gia về phát triển công nghiệp nói chung và CNHT nói riêng. Đổi mới mô hình tổ chức các Viện nghiên cứu chuyên ngành để làm cầu nối giữa nghiên cứu - thiết kế - ứng dụng, gắn quá trình nghiên cứu với chuyển giao đưa vào sản xuất. Đổi mới cơ chế tổ chức, hoạt động của các Hiệp hội ngành nghề để đóng vai trò đại diện cho ngành tìm kiếm, tiếp nhận tài trợ của Chính phủ và của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước thực hiện các giải pháp phát triển ngành, đầu mối xúc tiến đầu tư, phát triển thị trường, đề xuất các cơ chế, chính sách phát triển CNHT. Nhà nước cần có những chính sách tác động đến những yếu tố chi phối năng lực cạnh tranh, tăng trưởng, tạo môi trường thuận lợi, giảm thiểu rủi ro cho doanh nghiệp. 19 4.2.1.4. Đa dạng hóa công nghiệp hỗ trợ hướng vào sản phẩm có giá trị gia tăng cao và bảo vệ môi trường sinh thái, tài nguyên Xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại để hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước sản xuất các linh, phụ kiện công nghệ cao. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao. Xúc tiến các hoạt động CNHT mới giàu tiềm năng tăng trưởng, tạo việc làm và phát triển công nghệ. Có những chính sách thích hợp, tập hợp các doanh nghiệp này trong các KCN, khu CNHT tập trung, sử dụng chung hệ thống xử lý chất thải. Không bố trí các KCN, khu CNHT gần các khu lịch, khu đông dân cư, văn hóa,… Không phê duyệt, cấp phép xây dựng các dự án đầu tư và triển khai xây dựng khi chưa có đánh giá tác động môi trường. Khuyến khích các doanh nghiệp đưa tiêu chí về trình độ công nghệ và bảo vệ môi trường lên vị trí quan trọng khi xem xét lựa chọn; đầu tư đổi mới trang thiết bị, áp dụng công nghệ hiện đại nhằm giảm thiểu chất thải, thực hiện sản xuất sạch, kiểm soát các chất gây ô nhiễm môi trường không khí tại nơi sản xuất. Xây dựng hệ thống xử lý chất thải tập trung cho các KCN, khu CNHT. Hoàn thiện việc xử lý ô nhiễm với các dự án liên quan đến các ngành công nghiệp, các cơ sở CNHT phân tán. 4.2.1.5. Phát triển cụm liên kết ngành gia tăng năng suất, nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm công nghiệp hỗ trợ Việt Nam phải có chính sách cho việc phát triển cụm liên kết ngành (CLKN), tăng cường nâng cao nhận thức về CLKN, xây dựng và hoàn thiện quy hoạch phát triển KCN - CCN của ngành, địa phương gắn với định hướng chính sách phát triển CLKN. Lựa chọn lĩnh vực và xây dựng một số mô hình CLKN trong các ngành, lĩnh vực tiềm năng. Về mô hình CLKN, Việt Nam nên chọn mô hình tích hợp của Nhật Bản để phát triển CNHT gắn với CLKN trong sự liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp nội địa sẽ là một hướng đi đúng, có triển vọng. 4.2.1.6. Thiết kế và quản trị cơ sở dữ liệu về công nghiệp hỗ trợ Cần có kế hoạch tổng thể, dài hạn và có lộ trình cụ thể xây dựng CSDL về CNHT quốc gia. Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) chủ trì xây dựng và đưa lên WEBSITE của Tổng cục Thống kê. Tuyên truyền, vận động, hướng dẫn để các doanh nghiệp lĩnh vực CNHT tích cực tham gia đăng ký cập nhật dữ liệu và quá trình hoạt động của mình phục vụ cho việc xây dựng CSDL về CNHT quốc gia. Xây dựng cơ chế giám sát, kiểm tra tính chính xác của dữ liệu cập nhật. Xây dựng tiêu chí để doanh nghiệp kê khai, cập nhật vào CSDL…. Thông tin “Cơ sở dữ liệu CNHT quốc gia” gồm những nội dung chính sau: (i) Tên doanh nghiệp (công ty), địa chỉ, người đại diện, điện thoại, fax, web; chính sách của doanh nghiệp, năm thành lập, chi nhánh trong và nước ngoài (nếu có), loại hình kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh, sản phẩm chính; (ii) Lợi nhuận, lãnh đạo doanh nghiệp, chiến lược, người kế nhiệm; (iii) Doanh số bán hàng hàng năm, tổng vốn, trang thiết bị sản xuất, độ chính 20 xác chế tạo, khách hàng chính, số lao động, chứng chỉ chất lượng… Số liệu sau khi được xử lý sẽ truyền vào hệ thống. Hệ thống sẽ tự động xử lý, tổng hợp và truyền đưa lên cấp trên các số liệu thống kê định kỳ. Từ các số liệu thống kê, cần có kế hoạch để tổ chức thành CSDL thông tin cấp quốc gia. 4.2.1.7. Giải pháp về nguồn lực cho phát triển công nghiệp hỗ trợ trong một số ngành công nghiệp (i) Các giải pháp về thu hút FDI chất lượng cao cho hoạt động CNHT: Cải cách thủ tục hành chính và tạo môi trường thân thiện với doanh nghiệp. Quảng bá Việt Nam để thu hút các nhà đầu tư tiềm năng vào CNHT chiến lược. Tăng năng lực của các cơ quan trong phối hợp chính sách, chia sẻ thông tin và giảm thiếu xung đột trong công tác xúc tiến đầu tư. Chú trọng các chính sách hậu đầu tư cho doanh nghiệp đang đầu tư tại Việt Nam. Ký kết Hiệp định Đối tác Kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) là một cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là các doanh nghiệp CNHT, do đó cần xây dựng kế hoạch, chiến lược phát triển đón đầu việc thâm nhập vào sân chơi mới đầy tiềm năng này. (ii) Các giải pháp hỗ trợ vốn: Nhà nước cần sử dụng nguồn vốn vay ưu đãi xây dựng quỹ tài chính đảm bảo việc phát triển CNHT của những ngành đã được chỉ định, để có nguồn ngân sách cụ thể, minh bạch. Thành lập các quỹ bảo lãnh tín dụng trung gian kết nối giữa ngân hàng với các DN SMEs, giúp DNNVV có thể vay vốn khi gặp khó khăn về tài sản thế chấp; có thể bảo lãnh tín dụng cho các khoản vay từ ngắn hạn đến dài hạn. Thành lập ngân hàng chính sách riêng cho các doanh nghiệp SMEs, tạo nguồn cung về vốn nhanh, hiệu quả, giúp doanh nghiệp tập trung vào sản xuất kinh doanh và có cơ hội mở rộng quy mô hoạt động của mình. Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp SMEs có mặt bằng sản xuất phù hợp, được hưởng các chính sách ưu đãi trong việc thuê đất, chuyển nhượng, thế chấp và các quyền khác về sử dụng đất đai theo quy định của pháp luật. (iii) Các giải pháp về khoa học công nghệ: xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm theo chuẩn quốc tế làm căn cứ cho định hướng phát triển. Hỗ trợ tài chính để đổi mới công nghệ, như tăng cường ngân sách đầu tư hỗ trợ kinh phí để doanh nghiệp mua bản quyền công nghệ từ nước ngoài và ứng dụng hiệu quả sự chuyển giao công nghệ của thế giới. Hỗ trợ phát triển và nâng cấp các tổ chức kiểm định, đánh giá chất lượng sản phẩm hỗ trợ thuộc nhiều thành phần kinh tế đạt trình độ quốc tế. Thúc đẩy chuyển giao công nghệ từ các công ty lớn tới các DN SMEs, đặc biệt là nguồn công nghệ cao mà các công ty FDI lớn mang vào Việt Nam trong quá trình đầu tư. Đẩy mạnh công tác chống chuyển giá, nâng cao năng lực, trình độ thẩm định, hạn chế đối đa trường hợp đối tác nước ngoài định giá thiết bị, công nghệ cao hơn thực tế. Khuyến khích các Viện nghiên cứu chuyên ngành triển khai nghiên cứu, thực nghiệm các đề tài, dự án gắn với nhu cầu phát triển sản xuất
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất