MỤC LỤC
PHẦN A. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NGHIÊN CỨU.............................................................3
PHẦN B. TÓM TẮT KẾT QUẢ KHẢO SÁT THỰC TRẠNG..............................................5
I.
TÓM TẮT BÁO CÁO THỰC TRẠNG CƠ CHẾ QUẢN LÝ NHÓM TRẺ ĐLTT
TẠI VIỆT NAM................................................................................................................… 5
II.
BÁO CÁO TÓM TẮT THỰC TRẠNG CƠ CHẾ QUẢN LÝ NHÓM TRẺ ĐLTT
TẠI 3 KHU VỰC KHẢO SÁT............................................................................................. 28
Báo cáo tóm tắt số 1: Thực trạng cơ chế quản lý nhóm trẻ ĐLTT khu vực đông
dân cư
28
Báo cáo tóm tắt số 2: Thực trạng cơ chế quản lý nhóm trẻ độc lập tư thục ở khu
vực công nghiệp tại Việt Nam
37
Báo cáo tóm tắt số 3.Thực trạng cơ chế quản lý nhóm trẻ ĐLTT vùng dân tộc
thiểu số
47
PHẦN C. KHUYẾN NGHỊ CÁC BIỆN PHÁP GIẢM RẢO CẢN TRONG CÔNG TÁC
QUẢN LÝ NHÓM TRẺ ĐLTT...............................................................................................57
1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BHXH
CSVC
CS-GD
CSGDMN
CBQL
CM
CL
ĐLTT
GV
GD
GD&ĐT
GDMN
GVMN
MN
PH
TX
UBND
: Bảo hiểm xã hội
: Cơ sở vật chất
: Chăm sóc- giáo dục
: Cơ sở giáo dục mầm non
: Cán bộ quản lý
: Cha mẹ
: Công lập
: Độc lập tư thục
: Giáo viên
: Giáo dục
: Giáo dục và đào tạo
: Giáo dục mầm non
: Giáo viên mầm no
: Mầm non
: Cha mẹ trẻ
: Thị xã
: Ủy ban nhân dân
2
PHẦN A. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NGHIÊN CỨU
1. Mục đích
Đánh giá thực trạng cơ chế quản lý các loại hình nhóm trẻ ĐLTT tại Việt Nam,
làm căn cứ để đề xuất các biện pháp khắc phục rào cản trong cơ chế quản lý theo hướng
lồng ghép - chi phí thấp phù hợp với loại hình này.
2. Nội dung nghiên cứu
- Thực trạng đặc điểm và hoạt động của các nhóm trẻ ĐLTT.
- Thực trạng quản lý nhóm trẻ ĐLTT của chủ nhóm.
- Thực trạng cơ chế quản lý hiện hành, sự tham gia và phối hợp trong quản línhóm
trẻ ĐLTT của cơ quan quản lý nhà nước,các tổ chức xã hội và gia đình trẻ.
- Đề xuất các biện pháp khắc phục rào cản trong cơ chế quản lý nhóm trẻ ĐLTT.
3. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu tài liệu thứ cấp qua các báo cáo, tài liê êu của Phòng Mầm non -Sở
GD&ĐT các tỉnh; Phòng Giáo dục& Đào tạo các thành phố, thị xã, huyện về tình hình
phát triển kinh tế xã hội và phát triển GDMN nói chung và các nhóm trẻ ĐLTT nói riêng
trong 3 năm học gần đây.
- Phỏng vấn sâu, thảo luâ nê nhómvới các đối tượng liên quan.
- Quan sát các hoạt động GD, môi trường GD, các điều kiện phục vụ CS-GD
trẻ...nhằm góp phầnđánh giá khách quan và toàn diện về thực trạng quản lý và cơ chế
quản lý các nhóm trẻ ĐLTT ở Việt nam, từ đó đề xuất các biện pháp khắc phục rào cản
trong cơ chế quản lý hiện hành đối với nhóm trẻ ĐLTT.
4. Phạm vi và thời gian nghiên cứu thực địa
Khảo sát thực địa được giới hạn ở 3 khu vực: khu vực đông dân cư (đồng bằng
Bắc và Bắc Trung bộ); khu vực công nghiệp (phía Bắc và phía Nam Việt Nam) và khu
vực dân tộc thiểu số (miền núi Tây bắc và Tây nam bộ).
3
Bảng 1. Các khu vực được chọn khảo sát ở Việt Nam
Khu vực
Tỉnh
Hà Nội
Đông dân cư (đồng bằng)
Nghệ An
Bình Dương
Công nghiệp
Vĩnh Phúc
Quận/Huyện
Xã/Phường
P. Lĩnh Nam
Q. Hoàng Mai
P. Thanh Trì
P. Quán Bàu
TP. Vinh
P. Lê Lợi
P. Mỹ Phước
Thị xã Bến Cát
P. Thới Hòa
Thị xã Phúc P Trưng Nhị
P.Hùng Vương
Yên
Lào Cai
TP. Lào Cai
Gia Lai
Huyện Chư Sê
Dân tộc thiểu số (miền núi)
P. Cốc Lếu
Xã Tả Phời
Xã Al Bá
Xã Ia H’Lốp
Đối tượng tham gia khảo sát:
- CBQL cấp Sở, Phòng GD&ĐT
- CBQL UBND cấp Huyện, cấp xã
- Đại diện một số cơ quan quản lí nhà nước cấp Huyện, cấp xã có liên quan (Y tế, ..)
- Đại diện một số tổ chức xã hội cấp huyện, cấp xã
- Hiệu trưởng Trường mầm non công lập tại địa bàn khảo sát
- Các chủ nhóm trẻ ĐLTT được chọn khảo sát
- Một số cha mẹ HS ở các nhóm trẻ ĐLTT được chọn khảo sát
Thời gian khảo sát: tháng 7 và 8 năm 2015, mỗi tỉnh 5 ngày.
4
PHẦN B. TÓM TẮT KẾT QUẢ KHẢO SÁT THỰC TRẠNG
I.
TÓM TẮT BÁO CÁO THỰC TRẠNG CƠ CHẾ QUẢN LÝ NHÓM TRẺ
ĐLTT TẠI VIỆT NAM
1. Nhu cầu xã hội về chăm sóc, giáo dục trẻ dưới 36 tháng và mức độ đáp ứng của các
cơ sở giáo dục mầm non
1.1. Nhu cầu xã hội về chăm sóc, giáo dục trẻ dưới 36 tháng
a) Số lượng trẻ dưới 36 tháng tuổi cần được CS-GD
Theo kết quả khảo sát, tính đến năm học 2014-2015, số trẻ dưới 36 tháng tuổi cần
được chăm sóc giáo dục là 76.493 trẻ (trong đó khu công nghiệp có 32.400 trẻ - nhiều
gấp đôi so với ở khu vực dân tộc thiểu số-16.031 trẻ).
Bảng 2. Số trẻ dưới 36 tháng tuổi theo khu vực (Năm 2012-2015) 1
TT Trẻ dưới 3 tuổi
Khu đông dân cư Khu công nghiệp
1
2
3
25 436
29 481
28 062
2012-2013
2013-2014
2014-2015
27 737
29 079
32 400
Khu DTTS
12 668
14 438
16 031
Số trẻ tăng cơ học hằng năm ở các địa phương khá cao
Theo số liệu từ nguồn báo cáo của các địa phương trọng diện khảo sát, số trẻ tăng cơ
học hằng năm (tính theo năm học) ở các địa phương phổ biến ở mức trên 10% (trong đó
khu vực dân tộc thiểu số và khu công nghiệp có mức độ tăng dần đều, khu đông dân cư
có mức tăng không ổn định, năm 2013-2014 tăng 15,9% so với năm 2012-2013 nhưng
đến năm 2014-2015 lại giảm 5,05% so với năm học trước).
b) Việc làm của CM ở các khu vực
1
Nguồn: Số liệu doPhòng GDMN – Sở GD&ĐT, Phòng GD&ĐT các quận/huyện trong diện khảo sát cung cấp tại thời
điểm khảo sát.
5
Theo số liệu từ “Báo cáo điều tra lao động việc làm” của Bộ Kế hoạch và đầu tư 2
thì: Tiền lương bình quân của lao động làm công ăn lương ở thành thị là
5.723.000đ/tháng, ở nông thôn là 4.190.000đ/tháng. Cũng theo nguồn báo cáo này, tỷ
trọng lực lượng lao động và tỷ lệ tham gia lực lượng lao động theo khu vực (thành
thị/nông thôn) ở Trung du và miền núi phía Bắc là 13,5%, vùng Đồng bằng sông Hồng là
21,9 (trong đó riêng Hà Nội là 7,0%); vùng Đông Nam bộ là 17,2.
Đối với việc phân bố lao động có việc làm theo nhóm ngành kinh tế và loại hình
kinh tế, tỷ trọng lao động có việc làm giữa các nhóm ngành kinh tế cho thấy:
- Đông Nam bộ (có tỉnh Bình Dương thuộc địa bàn khảo sát) là vùng có cơ cấu
kinh tế phát triển theo hướng hiện đại nhất, với tỷ trọng lao động làm việc trong lĩnh vực
công nghiệp, xây dựng và dịch vụ chiếm ưu thế (86,2% và 97,7%). Ở các khu công
nghiệp (tỉnh Bình Dương, Vĩnh Phúc), đặc biệt là tỉnh Bình Dương, đa số công nhân lao
động tại các nhà máy, xí nghiệp là dân nhập cư (trên 80% công nhân là người ngoại tỉnh,
trong đó 60-70% là lao động nữ, ở vào độ tuổi từ 18-35- độ tuổi sinh con) chuyển từ
nhiều tỉnh khác nhau đến làm ăn, sau thời gian nghỉ thai sản, người mẹ phải đi làm nên
nhu cầu gửi con vào các CSGDMN rất lớn.
Ở các khu vực miền núi và ven biển, tỷ trọng lao động làm việc trong khu vực
"Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản" còn khá cao. Tây Nguyên (có tỉnh Gia Lai thuộc địa bàn
khảo sát) hiện vẫn là vùng có tỷ trọng lao động làm việc trong khu vực “Nông, lâm
nghiệp và thủy sản” cao nhất (76,5%), tiếp theo là Trung du và miền núi phía Bắc
(68,8%), và Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung (52,7%). Ở khu đông dân cư với đặc
thù tăng cơ giới về dân số rất mạnh (Ví dụ: quận Hoàng Mai - Hà Nội, số dân tăng hơn gấp
đôi sau gần 10 năm), số trẻ trong độ tuổi rất đông (xem bảng ở phần a). Chính vì vậy, CM trẻ
ở khu vực này có nhu cầu cao trong việc gửi trẻ dưới 36 tháng tuổi đến các cơ sở giáo
dục mầm non với thời gian đưa/đón linh hoạt. Tại khu vực này, tập trung phần đông là dân
nhập cư, chủ yếu sống bằng nghề lao động phổ thông.
“ Mấy năm gần đây, dân số cơ học của Phường Lĩnh Nam tăng nhanh, đa số là người dân
lao động phổ thông rất bận rộn, nên cha mẹ có con tuổi Nhà trẻ có nhu cầu cao gửi con đến
trường)3;
2
3
Tổng cục thống kê, 2015
Ý kiến của PCT UBND phường Lĩnh Nam và phường Thanh Trì, Quận Hoàng Mai, Hà Nội
6
c) Mong muốn của CM về CS- GD trẻ
Nhìn chung nhiều CM có nhu cầu gửi trẻ dưới 36 tháng tuổi vào các CSGDMN
công lập, vì loại hình này được nhà nước đầu tư CSVC; kinh phí đóng góp ít; đội ngũ
CBGV được đào tạo bài bản về chuyên ngành mầm non, các chế độ được đảm bảo nên
đội ngũ ổn định, an tâm công tác. Tuy nhiên có rất nhiều rào cản khiến cha mẹ khó gửi
con vào trường công lập, như: (-) Nhiều trường công lập không nhận trẻ dưới 36 tháng
tuổi hoặc chỉ nhận một lượng giới hạn trẻ từ 24 tháng tuổi. (-) Thủ tục nhập học cho trẻ
vào các cơ sở GDMN công lập có những qui định về thủ tục hành chính (hộ khẩu) mà
nhiều CM khó thực hiện. “Ở đây, trẻ em là con công nhân ở trọ thì phải có giấy tạm trú
KT3 được chủ nhà trọ và chính quyền địa phương xác nhận từ 2 năm trở lên mới được
xin vào trường MN công lập”4
Chính vì vậy, một số lượng lớn CM (đặc biệt ở khu vực đông dân cư, khu công
nghiệp) buộc phải gửi trẻ vào các nhóm trẻ thuộc loại hình ĐLTT như là một giải pháp
ngắn hạn, bởi các lý do: (-) Các nhóm trẻ ĐLTT thường nhận trẻ từ 12 tháng (có những
cơ sở nhận cả trẻ từ 8 tháng tuổi trở lên); (-)Thời gian đón, trả trẻ linh hoạt; (-) Giáo viên
phục vụ nhiệt tình, chăm sóc trẻ tốt, đáp ứng yêu cầu đa dạng của CM; (-)Số lượng trẻ
trong mỗi nhóm ít hơn so với ở trường công lập; (-) Thủ tục nhập học của các nhóm trẻ
ĐLTT dễ dàng (chỉ cần đầy đủ giấy tờ là được vào học), không phụ thuộc vào hộ khẩu;
(-) Mức đóng góp hợp lý với thu nhập của CM. “Quan trọng nhất là con gửi ở đây vẫn
khỏe mạnh, tăng cân, an toàn, được các bà rất âu yếm, ôm ấp, vỗ về và nhất là thời gian
muốn gửi lúc nào, đón lúc nào cũng được. Có hôm mẹ về muộn còn được bà tắm giặt
cho đầy đủ”. Ở nhóm lớp gia đình, cha mẹ thỏa thuận được giờ giấc đón, trả, học phí
phù hợp, số lượng trẻ/lớp ít hơn ở nhóm lớp ĐLTT” 5
- Còn một bộ phận CM chưa cho con đến trường vì điều kiện kinh tế hoặc vì chưa
thực sự tin tưởng vào các CSGDMN, đồng thời chưa nhận thức đầy đủ vai trò của
GDMN đối với sự phát triển của trẻ.
Mong muốn về chất lượng CS-GD trẻ
4
5
TLN cha mẹ có con chưa đi học tại Khu phố 4 – phường Mỹ Phước, Bình Dương.
Ý kiến của PBT Đoàn thanh niên phường Hùng Vương – Phúc Yên
7
Hầu hết CM đều muốn gửi con của họ khi đến các CSGDMN đảm bảo chất lượng
về CS-GD trẻ.
CM mong muốn các nhóm trẻ ĐLTT tuyển chọn GV có trình độ chuyên môn, yêu
nghề, yêu trẻ. Nếu được, họ mong muốn gửi con đến các trường MN công lập vì trường
có các điều kiện tốt hơn rất nhiều so với trường tư thục và nhóm trẻ ĐLTT.
CM ở khu công nghiệp và khu vực dân tộc thiểu số có nhu cầu được phổ biến kiến
thức và kĩ năng CS-GD trẻ dưới 36 tháng tuổi tại gia đình; mong muốn được Chính phủ
hỗ trợ tiền ăn cho con dưới 36 tháng gửi tại CSGDMN, được hưởng các chế độ chính
sách hỗ trợ như trẻ trên 3 tuổi gửi tại các trường mầm non công lập. Đối với những trẻ có
hoàn cảnh gia đình khó khăn, cha mẹ mong muốn được hỗ trợ tiền ăn, miễn giảm học phí
(Lào Cai, Gia Lai, Bình Dương, Vĩnh Phúc).
1.2.Mức độ đáp ứng nhu cầu xã hội về chăm sóc, giáo dục trẻ dưới 36 tháng ở các cơ sở
giáo dục mầm non
a) Số trẻ được CS-GD ở các loại hình cơ sở giáo dục
Số liệu khảo sát tại các đia bàn qua 3 năm (2012-2015) cho thấy mức độ nhập học
của trẻ dưới 36 tháng rất khác nhau giữa các khu vực ở Việt Nam: Khu vực công nghiệp
có tỉ lệ nhập học cao nhất 81,2 %, khu vực miền núi và dân tộc có tỉ lệ nhập học thấp
nhất 17,1%. Số trẻ nhập học ở nhóm lớp ĐLTT chiếm một tỉ lệ bằng hoặc nhiều hơn tỉ lệ
các cháu học ở các trường MN công lập hoặc tư thục (ở khu vực CN, số trẻ học nhóm
ĐLTT là 36,1 % so với 45,1% học ở trường MN công lập và tư thục). Số trẻ được CSGD tại gia đình chiếm tỷ lệ rất cao ở đa số đại bàn khảo sát.
Biểu đồ 1. Số trẻ được CS-GD ở các cơ sở GD tại 3 khu vực điều tra
8
- Trẻ vào trường MN công lập và TT
Số trẻ được CS-GD tại các trường công lập và TT có xu hướng tăng lên trong năm
học 2014-2015, song vẫn ở mức thấp. Giữa các khu vực, khu công nghiệp có số trẻ được
CS-GD trong các trường MN ở mức cao nhất (trên 40%), Khu vực đông dân cư và khu
dân tộc thiểu số có tỷ lệ trẻ dưới 36 tháng học trường MN thấp trong đó khu dân tộc thiểu
số có tỷ lệ thấp nhất (từ 6.5% đến 7.1%).
- Trẻ vào nhóm ĐLTT
Đa số các địa phương được khảo sát (khu đông dân cư, khu vực dân tộc thiểu số)
tỷ lệ trẻ được CS-GD trong các nhóm trẻ ĐLTT cao hơn so với ở các trường MN. Số trẻ
trong các nhóm này có xu hướng tăng lên trong năm học gần đây.
Các nhóm trẻ ĐLTT mặc dù đang khẳng định được vị trí, vai trò của mình trong việc
đáp ứng nhu cầu gửi trẻ của công nhân, với các ưu thế như mức thu học phí thấp, thời gian
đưa đón trẻ linh hoạt, có các dịch vụ trông sớm, trả muộn, tuy nhiên, các nhóm ĐLTT đáp
ứng được rất ít nhu cầu gửi trẻ.
- Trẻ ở nhà:
Số trẻ dưới 36 tháng được CS-GD tại gia đình chiếm tỷ lệ rất cao đặc biệt ở khu
vực dân tộc thiểu số và khu vực đông dân cư. Tỷ lệ này đang có xu hướng giảm dần qua
các năm.
Bảng 3. Số trẻ dưới 36 tháng được CS-GD tại gia đình
Trẻ dưới
36 tháng
2012-2013
2013-2014
2014-2015
KV đông dân cư
SL
%
18976
74.6
20829
70.7
17340
61.8
KV công nghiệp
SL
%
7465
26.9
6932
23.8
6082
18.8
KV dân tộc thiểu số
SL
%
10291
81.2
12272
85.0
13292
82.9
Tỷ lệ trẻ dưới 36 tháng được CS-GD tại gia đình ở khu công nghiệp thấp hơn rất
nhiều so với các địa bàn khác do đặc điểm dân cư (người nhập cư từ nơi khác tới nên ít
9
có người thân lên chăm con giúp) và do đặc thù công việc phải làm ca kíp nên bắt buộc
CM phải gửi con vào các cơ sở GDMN hoặc nhóm trẻ gia đình.
b) Nguyên nhân chưa đáp ứng nhu cầu CS-GD trẻ của các CSGDMN
Người dân có nhu cầu gửi con vào các cơ sở GDMN, tuy nhiên mức độ đáp ứng
dịch vụ chăm sóc-giáo dục trẻ dưới 36 tháng tuổi của các CSGDMN chưa cao.
Nguyên nhân chưa đáp ứng được nhu cầu gửi trẻ dưới 36 tháng tuổi gồm:
+ Các cơ sở GDMN công lập có số lượng hạn chế (mỗi xã/phường chỉ có 1 trường
MN công lập) và ưu tiên nhận trẻ 5-6 tuổi để hoàn thành nhiệm vụ phổ cập giáo dục quốc
gia cho trẻ 5 tuổi, không nhận trẻ có hộ khẩu tạm trú, KT2, KT3. Cụ thể là khu vực đông
dân cư mới đáp ứng khoảng 30% nhu cầu; Khu công nghiệp có sự khác biệt khá lớn giữa
các địa bàn: Phúc Yên, Vĩnh Phúc chiếm tỉ lệ khá cao so với các đại bàn khác (49,9%)
trong khi Bình Dương lại rất thấp (9,1%) vì trẻ dưới 3 tuổi ở Bình Dương không có hộ
khẩu để xin học trường công lập. Vùng dân tộc thiểu số tỷ lệ đáp ứng nhu cầu gửi con
vào các trường công lập và tư thục cũng rất thấp: Lào Cai 16,3%, Gia Lai 3,5% (tổng hợp
số liệu qua 3 năm học 2012-2015).
+ Cha mẹ trẻ chưa yên tâm với điều kiện và chất lượng chăm sóc trẻ tại các cơ sở
GDMN ngoài công lập.
+ Phí đóng cho các cơ sở GDMN công lập và ngoài công lập cũng là một rào cản
với các gia đình có mức thu nhập thấp.
+ Thời gian chăm sóc trẻ tại các cơ sở GDMN, ngay cả loại hình ngoài công lập,
chưa thật phù hợp với chế độ lao động của cha mẹ trẻ, đặc biệt là những cha mẹ làm việc
theo ca kíp ở các khu công nghiệp.
- Các nhóm trẻ ĐLTT chưa đảm bảo yêu cầu về số lượng: Số lượng trẻ trong
nhiều nhóm vượt xa so với định mức cho phép (tại khu vực đông dân cư đặc biệt ở Hà
Nội).
- Có rất ít trẻ dưới 36 tháng được nhận vào các cơ sở GDMN, đặc biệt là lứa tuổi
dưới 12 tháng, số trẻ được đến trường chủ yếu tập trung vào nhóm trẻ 24-36 tháng (do
10
các trường MN công lập nhận nhóm trẻ 24-36 tháng) tuy vậy số lượng cũng rất hạn chế.
Qua số liệu được cung cấp cho thấy rằng đa số trẻ dưới 36 tháng tuổi được chăm sóc tại
gia đình, thấp nhất là Vĩnh Yên (33,6%) tỷ lệ này đặc biệt cao tại các vùng dân tộc thiểu
số (Gia Lai: 88,7% )(số liệu năm học 2014-2015). Số trẻ được gửi vào các nhóm ĐLTT ở
khu vực đông dân cư và khu công nghiệp chiếm tỷ lệ cao hơn so với vùng dân tộc thiểu
số.
Ở các khu vực được khảo sát, vẫn tồn tại các nhóm trẻ chưa phép hoạt động (số trẻ
được chăm sóc trong các cơ sở chưa có phép năm học 2014-2015: Q. Hoàng Mai- 0,8%,
Vinh-1,5%, Phú Yên-0,49%, Bến Cát-5,62%, Lào Cai-1,9%, Gia Lai-2,4%)
- Hầu hết cha mẹ có con đã đi học có mong muốn cho con đến các CSGDMN từ 2
– 3 tuổi. Tuy nhiên, trên thực tế, thời điểm cho con đi học tùy thuộc hoàn cảnh của mỗi
gia đình. Trong điều kiện các CSGDMN công lập chưa đáp ứng được nhu cầu gửi trẻ
dưới 36 tháng thì các cơ sở ngoài công lập là 1 lựa chọn có nhiều ưu điểm đối với các
bậc cha mẹ (thời gian đón/trả trẻ linh hoạt, địa điểm gần nhà gia đình trẻ, thủ tục hành
chính gọn nhẹ và đơn giản (không yêu cầu hộ khẩu thường trú…), mức tiền thu từ CM
phù hợp với khả năng chi trả của người dân, quan tâm và thực hiện theo yêu cầu chăm
sóc cá nhân của CM (uống thuốc, ăn thêm thức ăn, tắm giặt…), cung cấp những dịch vụ
chăm sóc cơ bản tối thiểu cần thiết cho trẻ như an toàn, dinh dưỡng…đã giúp giải tỏa
những khó khăn tìm chỗ gửi con dưới 36 tháng của các bậc cha mẹ, đặc biệt là các nhóm
trẻ ĐLTT, nhóm trẻ gia đình. Số trẻ dưới 36 tháng gửi các nhóm trẻ ĐLTT, nhóm trẻ gia
đình ở cả 3 khu vực so với số trẻ gửi trường MN công lập và tư thục đều nhiều hơn (Khu
miền núi, khu đông dân cư) và gần bằng nhau như khu công nghiệp (trường MN 40%,
nhóm trẻ 36%). Điều đó khẳng định vai trò to lớn của nhóm trẻ ĐLTT, nhóm trẻ gia đình
trong việc đáp ứng nhu cầu gửi trẻ dưới 36 tháng tuổi vào các CSGDMN của CM. Hầu
hết CM hài lòng về nhóm/ lớp mà họ lựa chọn gửi con vì vậy nhiều cha mẹ đã yên tâm
và gửi trẻ lâu dài tuy nhiên, họ lo ngại khi trẻ lên lớp 5 - 6 tuổi thì chất lượng của các
nhóm trẻ ĐLTT sẽ không đảm bảo để chuẩn bị đủ điều kiện cho trẻ bước vào lớp 1.
- Ở vùng dân tộc, chất lượng hoạt động của một số nhóm trẻ ĐLTT còn chưa đảm
bảo hoặc còn thiếu các điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị đồ dùng đồ chơi ... Vì
thế, CM còn chưa hoàn toàn yên tâm khi gửi con tại các nhóm trẻ ĐLTT. Đây cũng là lý
11
do khiến các loại hình chăm sóc và giáo dục trẻ từ 0-3 tuổi ở khu vực vùng dân tộc thiểu
số không phát triển, chiều hướng tăng rất chậm ở hầu hết các năm.
- Nếu xét theo tiêu chí giới, ở cả 3 khu vực được khảo sát cho thấy không có sự
bất bình đẳng trong tiếp cận với CSDGMN của các trẻ dưới 36 tháng tuổi
Bảng 4. Quy mô phát triển nhóm độc lập tư thục toàn quốc (năm 2014-2015)
Số nhóm
TT
Số nhóm
Số nhóm
Địa điểm
1
2
3
4
5
6
Hoàng Mai
Vinh
Lào Cai
Gia Lai
Phúc Yên
Bến Cát
tt
Địa điểm
1
2
3
4
5
6
Hoàng Mai
Vinh
Lào Cai
Gia Lai
Phúc Yên
Bến Cát
12 th
0
0
0
0
0
0
từ 18 th
105
0
7
0
0
0
24-36 th
205
0
24
7
19
33
số trẻ 12 th
số trẻ từ 18 th
số trẻ 24-36 th
0
0
0
0
0
0
2.928
0
104
0
0
0
4.391
0
595
140
350
638
Nhóm
ghép
0
71
0
0
0
40
số trẻ
ghép
0
1.980
0
0
0
820
Tổng
310
71
31
7
19
73
Tổng
7.319
1.980
699
140
350
1.458
Bảng 5. Sự phân bố các loại hình CSGDMN theo khu vực (năm 2012-2015)
TT
1
1.1
1.2
1.3
1.4
Tiêu chí
2012-2013
Số trẻ ở nhà
Số trẻ ở trường CL và
NCL
Số trẻ nhóm lớp ĐL
TT
Tổng số trẻ từ 0-3 tuổi
KV dân tộc
KV đông dân
cư
SL
%
SL
%
10291
81.2
18976
879
6.9
1598
12.6
12668
KV Công nghiệp
SL
%
74.6
7465
26.9
2843
11.2
11914
43.0
3617
14.2
8358
30.1
25436
27737
12
2
2.1
2.2
2.3
2.4
3
2013-2014
Số trẻ ở nhà
Số trẻ trường CL và
NCL
Số trẻ nhóm lớp ĐL
TT
Số trẻ từ 0-3 tuổi
2014-2015
12272
85.0
20829
70.7
6932
23.8
939
6.5
4077
13.8
12426
42.7
1287
8.9
4075
13.8
9721
33.4
14438
29481
29079
13.292
82.9
17.340
61.8
6.082
18.8
1.141
7.1
4.945
17.6
14.618
45.1
3.3
Số trẻ ở nhà
Số trẻ trường CL và
NCL
Số trẻ nhóm lớp ĐL
TT
1.598
10.0
5.777
20.6
11.700
36.1
3.4
Số trẻ từ 0-3 tuổi
16.031
3.1
3.2
28.062
32.400
2. Thực trạng chăm sóc, giáo dục trẻ dưới 36 tháng tuổi trong các nhóm trẻ ĐLTT
2.1. Hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ dưới 36 tháng tuổi trong các nhóm trẻ ĐLTT
- Hoạt động chăm sóc, nuôi dưỡng được quan tâm hơn hoạt động giáo dục trẻ, tuy
nhiên, chưa đảm bảo yêu cầu của Chương trình GDMN
Qua báo cáo của các cấp quản lý và kiểm tra hồ sơ, tài liệu ở các nhóm, lớp ĐLTT
ở khu vực đông dân cư, khu công nghiệp, chế xuất chúng tôi nhận thấy: Trẻ được chăm
sóc theo chế độ sinh hoạt một ngày. Các nhóm đều có thực đơn hàng ngày phù hợp với
trẻ các độ tuổi trong nhóm. Số bữa ăn của trẻ một ngày tại nhóm từ 3-4 bữa (gồm 2 bữa
chính và 1 bữa phụ, một số nhóm cho trẻ ăn bữa sáng theo yêu cầu của cha mẹ ). Trẻ
được ngủ trưa đầy đủ. Vệ sinh cá nhân được các GV chú ý, trẻ được giữ sạch sẽ, quần áo
gọn gàng. Trẻ được cân đo một năm 2-3 lần (đầu năm học, giữa năm học và cuối năm
học), một số nhóm có tổ chức khám sức khoẻ cho trẻ - 1 năm 1lần. Tại mỗi nhóm lớp,
đều có tủ thuốc với các thuốc và các dụng cụ sơ cứu ban đầu. Tuy nhiên, qua PVS và
TLN chúng tôi nhận thấy chất lượng nuôi dưỡng trẻ tại các nhóm ĐLTT không đảm bảo
và khó kiểm soát bởi các lí do:(+) Chi phí cho bữa ăn của trẻ thấp và do chủ nhóm tự cân
đối thu-chi trên cơ sở kinh doanh có lãi (+) Người nấu ăn cho trẻ đa số thiếu các chứng
13
chỉ cần thiết để hành nghề. (+) Sự kiểm soát khẩu phần, chất lượng bữa ăn chủ yếu được
cơ quan quản lý kiểm tra dựa trên sổ sách và bảng thực đơn của nhóm lớp được dán công
khai, không thường xuyên kiểm tra thực tế việc thực hiện thực đơn và kiểm tra mẫu thực
phẩm.
Khảo sát các nhóm trẻ ĐLTT ở khu vực dân tộc thiểu số cho thấy việc thực hiện
chế độ nuôi dưỡng và chăm sóc, thăm khám sức khỏe cho trẻ chưa đảm bảo. Chế độ dinh
dưỡng của trẻ không hợp lý do chủ nhóm lớp không có khả năng xây dựng khẩu phẩn
thực đơn cho trẻ. Nghiên cứu các thực đơn của nhóm trẻ cho thấy hầu hết chưa đảm bảo
chế độ dinh dưỡng theo độ tuổi, cũng như chưa cân bằng các chất dinh dưỡng trong khẩu
phần ăn của trẻ. Để tiết kiệm chi phí, việc mua bán thực phẩm và nấu nướng thường do
người nhà của các chủ nhóm thực hiện (họ không có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cần
thiết) nên ảnh hưởng nhiều đến chất lượng bữa ăn. Việc theo dõi sức khỏe định kì không
thực hiện đầy đủ và thường xuyên (thông thường 1-2 lần/1 năm và chủ yếu là theo dõi
cân nặng)
Ở các nhóm trẻ gia đình (tồn tại rất nhiều ở Vĩnh Phúc, tp. Hồ Chí Minh) trong
điều kiện nhóm đang trông giữ nhiều trẻ ở các độ tuổi khác nhau, người trông giữ trẻ
không có chuyên môn về GDMN, thức ăn của trẻ hầu hết do cha mẹ chuẩn bị và mang tới,
do đó khó có thể đảm bảo về chế độ dinh dưỡng hợp lý cho trẻ từng độ tuổi. Việc khám sức
khỏe định kỳ và cân đo trẻ không được thực hiện. Chế độ sinh hoạt được chủ nhóm tự lập ra
thường theo nhu cầu của gia đình trẻ chứ không theo Chương trình GDMN. “Trẻ nhiều
khi đi học theo bố mẹ làm ca sớm từ lúc 5h sáng cho nên đến đây trẻ ngủ đến tận 8-9h
mới dậy” (Ý kiến của chủ nhóm gia đình phường TTĐ, TP Hồ Chí Minh).
- Hoạt động giáo dục trẻ chưa được chú trọng đúng mức, chất lượng giáo dục
chưa đảm bảo. Chương trình GDMN hiện chưa được sử dụng thống nhất, đồng bộ tại
các nhóm trẻ ĐLTT
Theo quy định của Bộ GD ĐT 6, các nhóm trẻ sử dụng Chương trình GDMN được
Bộ GD&ĐT ban hành năm 2009, tuy nhiên, qua nghiên cứu các kế hoạch hoạt động giáo
dục, quan sát và phỏng vấn sâu GVMN, người chăm sóc trẻ chúng tôi nhận thấy hầu hết
ở các nhóm trẻ ĐLTT không thực hiện đầy đủ các hoạt động giáo dục theo nội dung yêu
6
Văn bản hợp nhất Số: 05/VBHN-BGDĐT- Quyết định Ban hành điều lệ trường MN ngày 13 tháng 02 năm 2014, Điều
22 về Chương trình giáo dục, kế hoạch thực hiện chương trình giáo dục
14
cầu/ độ tuổi trong Chương trình GDMN. Một số GVMN còn đồng nhất giữa hoạt động
giáo dục/ ngày với hoạt động chơi- tập (với hình thức chủ yếu là hát hay đọc thơ), hay
thậm chí hoạt động học (không dành cho trẻ dưới 36 tháng), vì thế, không tiến hành giáo
dục trẻ qua các hoạt động trong ngày mà chủ yếu đầu tư cho giờ học khi có kiểm tra, dự
giờ của các cấp quản lý. Tại nhiều nhóm, lớp ĐLTT ở địa phương thuộc khu vực đông
dân cư, khu công nghiệp do cạnh tranh trong thu hút trẻ nên GVMN, người chăm sóc trẻ
còn làm thay trẻ mọi việc, không thực hiện nội dung giáo dục kỹ năng sống, tính tự lập
cho trẻ (bón cơm cho cả trẻ lớn, làm vệ sinh cá nhân cho trẻ,…). Nhiều nhóm trẻ ĐLTT
chưa được cấp phép hay hầu hết các nhóm trẻ gia đình thì GVMN, người chăm sóc trẻ
thậm chí không biết đến Chương trình GDMN.
Nguyên nhân chủ quan cơ bản là do trình độ, năng lực của chủ nhóm, GVMN,
người chăm sóc trẻ còn hạn chế. Nguyên nhân khách quan được đa số GVMN và CBQL
cho biết là do trẻ nhà trẻ nhiều độ tuổi/ nhóm, lớp nên khó thực hiện được yêu cầu của
Chương trình GDMN (với nội dung giáo dục cho trẻ từng độ tuổi), do chưa có Chương
trình GD hay tài liệu hướng dẫn thực hiện Chương trình GD riêng cho các nhóm, lớp
ĐLTT với trẻ nhà trẻ nhiều độ tuổi.
“Nhóm có các cháu nhà trẻ, lại ít GV nên hàng ngày cho trẻ ăn, uống và đi vệ sinh đã
hết thời gian rồi” (Ý kiến của chủ nhóm ở phường Cốc Lếu, Lào Cai).
“Nhóm có 10 cháu, nhiều độ tuổi khác nhau, chế độ ăn ngủ khác nhau nên em không dạy
bài bản, chỉ cho các bé coi tranh ảnh và hát, coi ti vi.Không có chương trình dạy, vì các
bé còn nhỏ quá, chủ yếu là trông giữ; chủ yếu mua tranh về cho bé xem, tập hát một số
bài. Buổi chiều nếu mát thì em cho cháu ra sân chơi, nếu nóng thì ở trong nhà coi tranh
ảnh, ti vi rồi hát múa vài bài...(Nhóm trẻ TT chưa được cấp phép, Phường Mỹ Phước,
Bình Dương).
- Chất lượng chăm sóc- giáo dục trẻ dưới 3 tuổi trong nhóm, lớp ĐLTT chưa được Cha
mẹ và Chủ nhóm... quan tâm
Do trường MN công lập thiếu điều kiện về CSVC và đội ngũ nên thường rất hạn
chế nhận trẻ dưới 36 tháng (nhưng phải có hộ khẩu thường trú tại địa bàn), đặc biệt là trẻ
dưới 18 tháng, do Cha, mẹ có nhu cầu gửi trẻ cao, đặc biệt là khu công nghiệp, khu chế
15
xuất, nơi tập trung đông đảo Cha, Mẹ - lực lượng lao động trẻ, thu nhập thấp, thời gian
làm việc/ ngày nhiều và căng thẳng...nên Cha, Mẹ thường chọn gửi con ở nhóm trẻ
ĐLTT gần nhà (cả không phép hoặc có phép), nhóm trẻ gia đình và không có nhiều yêu
cầu về chất lượng chăm sóc- giáo dục mà chỉ quan tâm đến ăn, ngủ và sự phát triển về
chiều cao, cận nặng của trẻ:“Muốn con được các cô chăm sóc, cho ăn uống và vệ sinh
đầy đủ, sạch sẽ” (Ý kiến của PH phường Tân Thuận Đông, tp.Hồ Chí Minh)
2.2.
Các điều kiện phục vụ hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ
- Điều kiện cơ sở vật chất của nhóm lớp ĐLTT giữa các khu vực có những điểm
khác biệt, song đều còn rất hạn chế và không đảm bảo cho việc thực hiện các hoạt động
chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ.
+ Cơ sở hạ tầng của các nhóm lớp ĐLTT được cải tạo lại từ nhà ở (thuê địa điểm
hoặc sử dụng nhà của gia đình) nên chưa hoàn toàn phù hợp với trẻ MN. Các nhóm lớp
thuộc khu công nghiệp thường không đảm bảo yêu cầu về diện tích 1,5m2/trẻ theo qui
định7. Các lớp của nhóm trẻ ĐLTT đều không đủ các phòng chức năng, mỗi lớp học chỉ
có 1 phòng được sử dụng đa chức năng (học, chơi, ăn, ngủ).
+ Nhà vệ sinh trong các nhóm lớp ĐLTT đều chưa phù hợp (diện tích nhỏ, thiết bị
vệ sinh dùng chung của người lớn, nhà vệ sinh ẩm thấp, trơn trượt...). Tại khu vực đông
dân cư, các nhóm lớp được điều tra đều có nhà vệ sinh khép kín trong lớp trong khi đó
các nhóm lớp thuộc khu công nghiệp và khu vực dân tộc thiểu số đa số không có nhà vệ
sinh khép kín, 1 khu vệ sinh được dung chung cho rất nhiều trẻ. Một số nhóm lớp bố trí
nhà vệ sinh cách xa lớp học không thuận tiện cho trẻ đi vệ sinh (vùng dân tộc thiểu số).
+ Bếp ăn của các nhóm được khảo sát đa số chưa đảm bảo là bếp 1 chiều. Các
nhóm trẻ gia đình đều sử dụng chung với bếp ăn gia đình.
+ Sân chơi: Ở cả 3 khu vực, các cơ sở thiếu sân chơi, hoặckhu vực chơi ngoài trời
diện tích rất chật hẹp thậm chí nhiều nhóm lớp không có sân chơi. Đồ chơi ngoài trời hầu
như không có hoặc có nhưng rất ít và thường không sử dụng được (khu vực dân tộc thiểu
số). Hàng rào của các nhóm lớp được chủ yếu là tường xây bao quanh nhà, không được
7
Văn bản hợp nhất Số: 05/VBHN-BGDĐT-Quyết định Ban hành điều lệ trường MN ngày 13 tháng 02 năm 2014, điều
28 về Phòng nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em
16
thiết kế tạođộ thoáng và đảm bảo tính thẩm mĩ cho cơ sở GDMN. Vùng dân tộc thiểu số,
một số nhóm lớp hàng rào thấp, không đảm bảo, trẻ có thể trèo ra, trèo vào được, không
đảm bảo an toàn cho trẻ. Tại khu công nghiệp, nhiều nhóm lớp không có rào chắn bảo vệ.
+ Bên trong phòng lớp, những khu vực có thể gây nguy hiểm cho trẻ như các chắn
song cầu thang thưa, lan can chắn thấp… đã được các nhóm lớp thuộc khu đông dân cư
chú ý thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn, các nhóm lớp ở đây còn được trang bị
tương đối tốt hệ thống phòng cháy chữa cháy. Tuy vậy, tại khu công nghiệp và khu vực
dân tộc thiểu số, các nhóm được khảo sát chưa thực hiện được các yêu cầu này.
+ Đồ dùng, đồ chơi, thiết bị dạy học tại các nhóm lớp được khảo sát chưa đảm
bảo về số lượng và chất lượng đặc biệt thiếu đồ chơi vận động cơ bản, vận động tinh và
giác quan như: bộ xâu hạt, bộ xâu dây, bộ lồng hộp, bóng, gậy thể dục, vòng thể
dục...Một số thiết bị dạy học, đồ chơi và học liệu như: đất nặn, bút sáp màu mặc dù có
nhưng không đủ về số lượng theo quy định, hơn nữa về chất lượng chưa đảm bảo: đất
nặn bị cứng, bút sáp màu ngắn, cũ kĩ khiến cho trẻ sử dụng khó khăn. Đồ dùng cá nhân
dành cho trẻ ở nhóm lớp (khăn rửa mặt, ca cốc...) tương đối đầy đủ về số lượng tuy
nhiên phần nhiều cũ và ít có kí hiệu riêng hoặc có kí hiệu song trẻ vẫn dùng chung lẫn
lộn (khu công nghiệp, khu đông dân cư), đồ dùng cá nhân của trẻ ở các nhóm lớp vùng
dân tộc thiểu số thiếu rất nhiều và cũ.
- Chưa chú trọng xây dựng môi trường giáo dục phù hợp trong nhóm, lớp ĐLTT
Các nhóm trẻ ĐLTT chưa chú trọng xây dựng môi trường giáo dục (các nhóm trẻ
gia đình, nhóm trẻ thuộc khu vực dân tộc thiểu số) hoặc có các nhóm trẻ ĐLTT (khu
đông dân cư, khu công nghiệp) đã có chú ý đến việc trang trí phòng lớp, tuy nhiên, việc
trang trí này vẫn chưa mang tính thẩm mĩ cũng như chưa có tính giáo dục cao, các hình
ảnh trang trí phần lớn mang tính biểu diễn; Về việc sắp xếp các khu vực hoạt động: Do
diện tích phòng lớp chật hẹp chỉ đảm bảo diện tích tối thiểu nên thiếu các khu vực để trẻ
tập vận động, hoạt động với đồ vật, chơi thao tác vai... Các phòng lớp được trang bị đồ
dùng đồ chơi tối thiểu, tuy nhiên giáo viên chưa chú ý đến việc sắp xếp sao cho thuận lợi
để trẻ dễ thao tác, hoạt động với các đồ dùng đồ chơi đó mà phần lớn sắp xếp sao cho
gọn gàng.
17
- Nhân sự trong các nhóm lớp ĐLTT hiện nay còn rất thiếu và thiếu tính ổn định,
chất lượng nhân sự chưa đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ, trách nhiệm đối với nghề và
tình yêu đối với trẻ là vấn đề đáng lo ngại
Nhiều chủ nhóm trình độ chuyên môn hạn chế (chứng chỉ GDMN). Có 36,2% chủ
nhóm ĐLTT thiếu đồng thời cả chuyên môn về GDMN và nghiệp vụ quản lý nhóm trẻ
ĐLTT. Chỉ có 30,3% GV đang dạy tại các nhóm trẻ ĐLTT có trình độ chuyên môn từ cao
đẳng trở lên, số còn lại (gần 70%) chỉ có trình độ trung cấp hoặc có chứng chỉ bồi dưỡng
ngắn hạn về chuyên môn GDMN. Trên 80% bảo mẫu có trình độ phổ thông và có chứng
chỉ sư phạm MN/cô nuôi. Đáng lo ngại là vẫn có 72,2% bảo mẫu (ở Bình Dương và Vĩnh
Phúc) chưa có chứng chỉ về sư phạm mầm non (hoặc cô nuôi) nhưng hiện tại vẫn đang
thực hiện việc chăm sóc giáo dục trẻ (Số liệu năm học 2014- 2015).
Việc tuyển GVMN có trình độ chuyên môn đạt chuẩn và kinh nghiệm nghề nghiệp
thường rất khó khăn và chi phí tiền lương cao, nên nhiều chủ nhóm phải sử dụng người
lao động không có chuyên môn về GDMN. Những GVMN có trình độ chuyên môn
thường chọn nhóm trẻ ĐLTT khi không xin được làm việc ở đâu hoặc chỉ tạm làm trong
lúc xin vào các cơ sở GDMN công lập, vì thế họ chưa thực sự yêu trẻ, yêu nghề, thiếu
tâm huyết. Mặt khác, sự căng thẳng về thời gian làm việc đối với GV, số lượng GV ít ( Số
lượng GV, cô nuôi /số trẻ tại các nhóm ĐLTT có phép đảm bảo yêu cầu, nhưng các
nhóm, lớp ĐLTT chưa được cấp phép chỉ có 1GV/cô nuôi) mà phải tổ chức các hoạt
động giáo dục trẻ cả 2 buổi/ngày, thường làm việc trên 10h/ ngày, hầu hết phải đến sớm
để đón trẻ và trả trẻ muộn. Việc chăm sóc- giáo dục trẻ dưới 3 tuổi đòi hỏi sự nhẹ nhàng,
gần gũi, tận tụy đáp ứng các nhu cầu khác nhau với từng cháu, đã gây ra sự căng thẳng
về tâm lý và thể chất đối với người GV- trong hoàn cảnh đó họ rất dễ “bùng nổ” các hành
vi cực đoan, khi không kiểm soát được bản thân và tiềm ẩn nhiều nguy cơ mất an toàn về
mặt tinh thần đối với trẻ em.
Nhân viên nấu bếp cũng không có chuyên môn phù hợp, trong nhiều nhóm trẻ việc
này do chủ nhóm hay người nhà kiêm nhiệm để tiết kiệm kinh phí.
3. Thực trạng quản lý nhóm trẻ ĐLTT của chủ nhóm
3.1. Quản lý các hoạt động chăm sóc giáo dục
18
- Khảo sát cho thấy chủ nhóm ĐLTT chưa thực hiện tốt các chức năng: lập kế
hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh hoạt động chăm sóc- giáo dục
trẻ. Nguyên nhân chủ yếu do:
+ Đa số chủ nhóm chưa được đào tạo đúng chuyên ngành về GDMN và quản lý cơ
sở GDMN.Phần lớn chủ nhóm không nắm chắc nội dung chương trình, nên không thể hỗ
trợ và kiểm soát được việc thực hiện chương trình của giáo viên.Kết quả khảo sát cho thấy
chủ nhóm nếu có chuyên môn về GDMN thì việc kiểm tra, giám sát chất lượng chăm
sóc- giáo dục trẻ khá chặt chẽ “Chủ nhóm cùng tham gia vào chăm sóc giáo dục trẻ;…
thường xuyên dự giờ, quan sát các cô trong các hoạt động tại nhóm trẻ” (Ý kiến của chủ
nhóm có phép TT, Phường Trưng Nhị - Vĩnh Phúc). Đối với các chủ nhóm không có
chuyên môn về GDMN thì việc giám sát việc thực hiện hoạt động chăm sóc- giáo dục trẻ
của GVMN rất sơ sài. Việc đánh giá chất lượng chăm sóc - giáo dục của chủ nhóm dựa
theo một số tiêu chí cụ thể như: tỉ lệ trẻ/nhóm phụ trách tăng cân, khỏe mạnh, đi học đều,
không bỏ lớp... để đánh giá xếp loại giáo viên, chứ chưa đánh giá chất lượng giáo dục
theo kết quả mong đợi/ độ tuổi theo Chương trình GDMN. Những tiêu chí đánh giá của
chủ nhóm trước hết đáp ứng những yêu cầu của Cha, mẹ khi gửi trẻ: khỏe mạnh, tăng cân
và yêu cầu lợi nhuận của chủ nhóm trên cơ sở trẻ đi học đều, không bỏ lớp, chuyển lớp.
+ Trường MNCL trên địa bàn được phân công hỗ trợ nhóm trẻ ĐLTTT thường không
có nhóm trẻ NT hoặc có nhưng không có nhóm trẻ ghép nhiều độ tuổi nên không hướng dẫn
chuyên môn hiệu quả cho chủ nhóm.
+ Chủ nhóm (hoặc người quản lý về chuyên môn) thường tham khảo kế hoạch chăm
sóc- giáo dục trẻ của trường MNCL, giao quyền cho GVMN tự quyết định hoàn toàn trong
hoạt động chăm sóc- giáo dục trẻ, chỉ thực hiện giám sát, điều chỉnh khi có nhóm có vấn đề
hay bị nhắc nhở. GVMN có trình độ chuyên môn nhưng thường không có ý kiến gì về kế
hoạch chăm sóc- giáo dục cần thực hiện do chủ nhóm xây dựng, cho dù biết nhiều điểm
không phù hợp “Chủ nhóm xếp lịch dạy như thế nào thì cứ dạy như thế, chủ nhóm tham
khảo chương trình của trường MN công lập Thới Hòa” (ý kiến của chị H. T. D đã làm
GVMN 2 năm ở nhóm, lớp).
- Hoạt động bồi dưỡng, tự bồi dưỡng, sinh hoạt chuyên môn của chủ nhóm lớp và
GVtrong nhóm lớp chưa được thực hiện thường xuyên. Việc bồi dưỡng chuyên môn trong
19
nhóm lớp ít khi được tổ chức. Theo chia sẻ của chủ nhóm, tại các nhóm, việc bồi dưỡng
chuyên môn (chủ yếu là kĩ năng nghề) chủ yếu diễn ra tại lớp, GV học nghề của nhau dần
thích ứng được với yêu cầu công việc.
3.2. Quản lý nhân sự
Chủ nhóm gặp nhiều khó khăn trong việc tuyển dụng, duy trì đội ngũ và đảm bảo các chế
độ cho GV/bảo mẫu
- Chủ các nhóm trẻ ĐLTT thường gặp khó khăn trong việc tuyển dụng GV có trình
độ chuyên môn cao vào làm việc do lương thấp và phụ thuộc nhiều vào lượng trẻ nhập
học, do các chế độ cho GV chưa đảm bảo, thời gian làm việc nhiều hơn trường công.
- Việc quản lý về nhân sự trong nhóm trẻ ĐLTT của chủ nhóm còn gặp nhiều khó
khăn do chưa có chế tài, qui định quản lí nhân sự và do tình hình không ổn định của đội
ngũ GV và trẻ.
- Do tự thu tự chi, thu nhập phụ thuộc vào trẻ đi học nên đa số các nhóm chưa thực
hiện đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, chế độ thai sản theo quy định cho GV, nhân
viên.
3.3. Quản lý tài chính
Các khoản thu chi do chủ nhóm tự quản và quyết định, các nhóm trẻ gặp nhiều
khó khăn trong hoạch toán và cân đối thu-chi.
- Quản lý thu, chi trong các nhóm trẻ do các chủ nhóm tự quản. Mỗi chủ nhóm có
sự quản lý và lựa chọn các khoản thu khác nhau. Kết quả cho thấy mức thu của các chủ
nhóm lớp trong cùng địa bàn là tương đương nhau, không có sự chênh lệch đáng kể và
đều dựa trên sự thỏa thuận của chủ nhóm lớp với Cha mẹ trẻ.
- Hiện nay các khoản chi tại nhóm trẻ ĐLTT rất đa dạng. Những khoản chung là:
Tiền thuê mặt bằng (có hoặc không), Tiền lương cho GV/bảo mẫu, điện nước, đồ dùng vệ
sinh… Ngoài ra một số cơ sở có thưởng chuyên cần, trách nhiệm cho GV, chi phí sửa
chữa nhỏ...Ngoài ra, tại Phường Thới Hòa – Bến Cát – Bình Dương, các chủ nhóm phải
nộp thuế môn bài 1.000.000đ/ 1 năm cho UBND Phường.
20
- Xem thêm -