Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo pháp luậ...

Tài liệu Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh ninh bình

.PDF
89
423
53

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM THỊ BÍCH HỒNG TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƢƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH NINH BÌNH Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. Trần Hữu Tráng Hà Nội, 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chƣa từng đƣợc công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học nào khác Hà Nội,ngày 26 tháng 7 năm 2016 Tác giả luận văn Phạm Thị Bích Hồng MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƢƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ............................. 7 1.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển các quy định về tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ ............................... 7 1.2. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lí của tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ ................................................................... 11 1.3. Phân biệt tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ với một số tội danh khác ................................................................. 15 1.4. So sánh quy định về tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ trong Bộ luật hình sự năm 1999 với Bộ luật hình sự năm 2015 ................................................................................................................. 19 Chƣơng 2: ĐỊNH TỘI DANH TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƢƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH BÌNH .................................................................................................... 24 2.1. Khái quát lí luận định tội danh tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ ................................................................... 24 2.2. Thực tiễn định tội danh tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ ở Ninh Bình................................................................... 28 2.3. Các giải pháp đảm bảo định tội danh tội đúng ........................................ 43 Chƣơng 3: QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƢƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ TỪ THỰC TIỄN TỈNH NINH BÌNH ................................................................... 55 3.1. Khái quát lí luận về quyết định hình phạt đối với tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ ................................................. 55 3.2. Thực tiễn quyết định hình phạt tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ của các Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Ninh Bình ........................................................................................................ 60 3.3. Các giải pháp bảo đảm quyết định hình phạt đúng .................................. 69 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 81 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật hình sự BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự ATGT An toàn giao thông CTTP Cấu thành tội phạm HĐXX Hội đồng xét xử HĐTP Hội đồng thẩm phán HĐTP TANDTC Tòa án nhân dân Tối cao HSST Hình sự sơ thẩm TAND Tòa án nhân dân TANDTC Tòa án nhân dân Tối cao THTT Tiến hành tố tụng TNHS Trách nhiệm hình sự TNHH Trách nhiệm hữu hạn TNGT Tai nạn giao thông QĐHP Quyết định hình phạt VKS Viện kiểm sát XHCN Xã hội chủ nghĩa DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU Bảng 1.1: Sự khác nhau giữa tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ với tội giết ngƣời. .......................................................................... 15 Bảng 1.2: Sự khác nhau giữa tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ với tội vô ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho ngƣời khác ........................................................................................................................... 17 Bảng 1.3: Sự khác nhau giữa tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ với tội đua xe trái phép. .................................................................. 18 Bảng 2.1: Số liệu, tỷ lệ tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ với tội phạm nói chung từ năm 2011 – 2015. ........................................... 27 Bảng 2.2: Tổng số vụ án, bị cáo phạm tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ đã xét xử có kháng cáo, kháng nghị từ năm 2011-2015. . 28 Bảng 2.3: Tổng số vụ án bị xét xử phúc thẩm và số vụ án bị xét xử phúc thẩm về tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ .................... 28 Bảng 3.1: Cơ cấu loại hình phạt số bị cáo bị xét xử về tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ từ năm 2011-2015. .................................... 59 . MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Giao thông đƣờng bộ có vị trí và vai trò quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế, xã hội của các nƣớc trên thế giới. Trong những năm qua ở nƣớc ta nền kinh tế thị trƣờng, theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa có những khởi sắc đáng kể và đem lại nhiều sự chuyển biến trên các lính vực đem lại đới sống vật chất và tinh thần ngày càng tốt đẹp cho nhân dân. Trong những sự chuyển biến trên thì giao thông vận tải thể hiện rõ. Tuy nhiên cùng với sự phát triển, chuyển biến của hoạt động giao thông vận tại thì tình hình tai nạn giao thông đƣờng bộ nói chung và tình hình tội phạm vi phạm quy định về phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ nói riêng trong những năm gần đây tăng rất nhanh về số vụ việc và cả về mức độ nghiêm trọng đã gây ra và để lại những hậu quả rất lớn về tính mạng, sức khỏe và tài sản của Nhà nƣớc và nhân dân, làm ảnh hƣởng không nhỏ đến an ninh trật tự, an toàn xã hội. Đảng, Nhà nƣớc và hệ thống chính quyền các cấp từ Trung ƣơng đến các địa phƣơng đã nỗ lực đề ra nhiều nhóm giải pháp kiềm chế sự gia tăng, tiến tới đẩy lùi tai nạn giao thông. Trong xu hƣớng đổi mới hội nhập sâu rộng nền kinh tế, số lƣợng phƣơng tiện tham gia giao thông đƣờng bộ ngày càng gia tăng, số ngƣời tham gia giao thông cũng ngày càng nhiều hơn, ý thức tham gia giao thông của ngƣời dân chƣa đƣợc cải thiện nhiều, cơ sở hạ tầng chƣa đáp ứng đƣợc, dẫn tới việc vi phạm các quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ ngày cang nhiều về số vụ và hậu quả xảy ra đặc biệt nghiêm trọng, đây là vấn đề đặt ra trách nhiệm nặng nề của cả hệ thống chính trị. Việc xử lý nghiêm các hành vi vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ gây hậu quả nghiêm trọng theo quy định của BLHS là nhiệm vụ quan trọng đối với các cơ quan THTT góp phần ngăn chặn và kiềm chế tai nạn giao thông. Thực tiễn áp dụng các quy định của BLHS năm 1999 về tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ trong những năm qua cho thấy dù đƣợc sửa đổi, bổ sung ban hành nhiều văn bản hƣớng dẫn của các cơ quan 1 Nhà nƣớc có thẩm quyền nhƣng trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử các vụ án này, các cơ quan THTT còn gặp những khó khăn, vƣớng mắc. Nguyên nhân của tình trạng này là một phần do bất cập của pháp luật về áp dụng các quy định của BLHS do nhận thức thiếu thống nhất trong áp dụng pháp luật. Vì vậy, nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ cơ sở lý luận tội "vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ", tìm ra những bất cập, vƣớng mắc trong thực tiễn áp dụng tội phạm này và nguyên nhân của chúng, để đƣa ra các kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật có ý nghĩa rất quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Đây chính là lý do học viên lựa chọn nghiên cứu Đề tài "Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình" làm luận văn Thạc sĩ luật học chính là xuất phát từ sự cần thiết đó. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Thời gian qua, việc nghiên cứu tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ đƣợc sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu và cán bộ làm công tác thực tiễn xét xử. Đã có nhiều công trình nghiên cứu trên các lĩnh vực đó là các giáo trình của các Trƣờng Đại học, các luận án, luận văn, các sách, tài liệu tham khảo, bài viết liên quan đến tội phạm này đó là: * Nhóm thứ nhất (Sách giáo trình, bài viết, tài liệu tham khảo) bao gồm: 1) GS.TS. Võ Khánh Vinh, Chƣơng X – Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam(Phần các tội phạm), do GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên. Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001; 2) GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa, Chƣơng XXV – Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, Trong sách: Giáo trình luật hình sự Việt Nam(Tập II) do GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2010; 3) GS.TS. Đỗ Ngọc Quang, Chƣơng XIX – Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, Trong sách: Giáo trình luật hình sự Việt Nam(Phần các tội phạm) Do GS.TS Lê Cảm chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001(tái bản năm 2003 và 2007). 4) Bình luận khoa học BLHS năm 1999, Chƣơng XIX các tội xâm phạm an toàn 2 công cộng, trật tự công cộng của PGS.TS. Phùng Thế Vắc, Tiến sỹ Nguyễn Đức Mai; Bình luận khoa học BLHS năm 1999 của Thạc sỹ Đinh Văn Quế. * Nhóm thứ hai (các luận văn, luận án tiến sỹ luật học) bao gồm: Luận văn thạc sỹ luật học “Đấu tranh phòng, chống tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ trên địa bàn tỉnh Hƣng Yên” của tác giả Nguyễn Văn Tuấn năm 2010; Luận văn thạc sỹ luật học “Tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Đắc Dũng, năm 2011. Luận án tiến sỹ luật học “Các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ ở thủ đô Hà Nội”, của tác giả Bùi Kiến Quốc năm 2011. * Nhóm thứ ba (Sách chuyên khảo, tài liệu tham khảo) bao gồm: 1) TS Trần Minh Hƣởng, Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, trật tự quản lý hành chính, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 2002; 2)Tạp chí Tòa án nhân dân số 01, tháng 1 năm 2012 “Xác định lỗi khi định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ một số vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng” của tác giả Lê Văn Luật, Tạp chí Tòa án nhân dân số 16, tháng 8 năm 2011; “Một số vấn đề về định tội và định khung tăng nặng trong các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ” của tác giả Huỳnh Quốc Hùng, Tạp chí Tòa án số 9, tháng 5 năm 2007; “Một số vƣớng mắc trong thực tiễn giải quyết các vụ án về trật tự an toàn giao thông đƣờng bộ” của tác giả Tiến Sỹ Nguyễn Đức Mai, Tạp chí Tòa án số 22, tháng 11 năm 2009; Cần hình sự hóa hành vi đã uống rƣợu, bia hoặc các chất kích thích khác mà vẫn điều khiển phƣơng tiện giao thông để phòng ngừa tai nạn” của PGS.TS Trần Hữu Tráng, Tạp chí Tòa án số 16, tháng 8 năm 2012… Nghiên cứu các tài liệu trên viết về tội phạm này đã đề cập nhiều vấn đề còn vƣớng mắc về lý luận và thực tiễn áp dụng. Các luận án, luận văn và bài viết liên quan đến vấn đề này chủ yếu từ góc độ tội phạm học. Tuy nhiên, trong phạm vi hệ thống hai cấp Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình chƣa có công trình nào nghiên cứu một cách sâu sắc và toàn diện cả về mặt lý luận và thực tiễn xét xử đối với tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ dƣới góc độ thực 3 tiễn xét xử. Vì vậy, việc nghiên cứu “Thực tiễn xét xử tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Ninh Bình” là nhu cầu cấp thiết hiện nay. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu * Đối tƣợng nghiên cứu Học viên nghiên cứu tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ từ lý luận đến thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình hiện nay. Nghiên cứu các vụ án, bản án đã xét xử, tìm hiểu sâu sắc, toàn diện về vấn đề định tội danh và quyết định hình phạt tội này qua các dấu hiệu pháp lý để thấy đƣợc những điểm khác nhau giữa lý luận và thực tiễn. Quá trình nghiên cứu đề tài còn dựa và các văn bản của cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền, cũng nhƣ các Nghị quyết, Công văn hƣớng dẫn trong thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân Tối cao. Số liệu từ các báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình, kết hợp với các kiến thức lý luận qua công tác thực tiễn xét xử. * Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình dƣới góc độ pháp lý hình sự trong thời gian từ năm 2011 đến năm 2015. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích nghiên cứu Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này nhằm làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ trong BLHS; thực tiễn xét xử loại tội phạm này và những bất cập, vƣớng mắc trong thực tiễn áp dụng các quy định của BLHS hiện hành trong quá trình xử lý các hành vi vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ. Trên cơ sở đó đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về loại tội phạm này cũng nhƣ nâng cao hiệu quả hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội danh này. * Nhiệm vụ nghiên cứu 4 Để đạt đƣợc mục đích trên đây học viên đặt ra một số nhiệm vụ nghiên cứu sau đây: - Trên cơ sở lý luận đƣa ra những phân tích về loại tội phạm vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ, các yếu tố thuộc dấu hiệu pháp lý đặc trƣng theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình. - Tổng kết, đánh giá thực tiễn xét xử tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ ở tỉnh Ninh Bình trong những năm gần đây; đi sâu phân tích đánh giá một số vụ án điển hình trên địa bàn tỉnh Ninh Bình từ đó rút ra những ƣu điểm, tồn tại trong hoạt động xét xử loại tội này, tìm ra nguyên nhân và các giải pháp góp phần vào công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân và hiệu lực quản lý của Nhà nƣớc. - Đề xuất giải pháp để hoàn thiện các quy định pháp luật nhằm tăng cƣờng hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận của Chủ nghĩa MácLênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc ta về Nhà nƣớc và pháp luật của tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ qua thực tiễn công tác xét xử trong công cuộc cải cách tƣ pháp ở nƣớc ta hiện nay. Luận văn đƣợc nghiên cứu trên cơ sở kết hợp một số phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể nhƣ phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê, khảo sát thực tiễn để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn * Về mặt lý luận Đây là công trình nghiên cứu có hệ thống và toàn diện về tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ từ thực tiễn xét xử của hai cấp Tòa án Tỉnh Ninh Bình ở cấp độ luận văn thạc sĩ. Học viên đƣa ra những vƣớng mắc bất cập trong các quy định của pháp luật, những hạn chế, vƣớng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật, từ đó đƣa ra những giải pháp hoàn thiện Điều 202 của 5 BLHS cũng nhƣ nâng cao hiệu quả hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội phạm này. * Về mặt thực tiễn Việc nghiên cứu và những đề xuất của luận văn có ý nghĩa nhất định đối với việc nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về tội phạm này. Qua kết quả nghiên cứu và những đề xuất, bản thân học viên mong muốn góp một phần nhỏ của mình vào quá trình xây dựng và hoàn thiện tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ cũng nhƣ pháp luật hình sự Việt Nam. Luận văn khi hoàn thiện cũng sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích cho các cơ quan bảo vệ pháp luật, cho những ngƣời nghiên cứu và sinh viên, học viên trong các cơ sở đào tạo luật. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục, phục lục và tài liệu tham khảo, đề tài đƣợc cấu trúc gồm ba chƣơng: Chƣơng 1: Khái quát lý luận về tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ theo pháp luật hình sự Viêt Nam. Chƣơng 2: Định tội danh tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình. Chƣơng 3: Quyết định hình phạt đối với tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình. 6 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƢƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển các quy định về tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ 1.1.1. Giai đoạn từ cách mạng tháng Tám năm 1945 đến Bộ luật hình sự năm 1985 Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành đã công đập tan chế độ phong kiến, đồng thời thiết lập nên Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa, Nhà nƣớc công nông đầu tiên với hệ thống pháp luật, trong đó có các Sắc lệnh, Nghị định, Thông tƣ hƣớng dẫn thi hành thuộc lĩnh vực hình sự. Ngay sau khi giành đƣợc chính quyền về tay nhân dân, Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành nhiều văn bản pháp luật hình sự quy định các tội gián điệp, tội âm mƣu lật đổ chính quyền, tội hoạt động phỉ…tại Sắc lệnh số 21 ngày 14 tháng 2 năm 1946. Tuy nhiên, lúc này tội vi phạm quy định về an toàn giao thông đƣờng bộ chƣa đƣợc quy định. Nhƣ vậy các tội chống chính quyền nhân dân đƣợc quy định ngay từ khi Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, còn tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ chỉ ra đời khi có các quy định về an toàn giao thông vận tải đƣờng bộ, tức là khi có Luật giao thông đƣờng bộ. Trong suốt 10 năm từ năm 1945 đến năm 1954 thời kỳ thực dân Pháp tái chiếm Hà Nội thì Nhà nƣớc ta chƣa có hệ thống luật bảo đảm an toàn giao thông vận tải. Vì vậy, không có cơ sở để hình thành quy phạm pháp luật về tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ. Trong thời kỳ này cả nƣớc vẫn áp dụng luật của chế độ cũ để xét xử tội về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ. Sau khi miền Bắc đƣợc hoàn toàn giải phóng. Ngày 03/10/1955, Luật đi đƣờng bộ mới đƣợc ra đời kèm theo Nghị định số 348/NĐ của Bộ giao thông Bƣu 7 điện. Đây là văn bản pháp lý đầu tiên của Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa về an toàn giao thông, tạo cơ sở pháp lý hình thành tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ. Sau đó hàng loạt các văn bản pháp lý khác về an toàn giao thông vận tải ra đời nhƣ: Nghị định số 139/NĐ ngày 19/12/1956; Nghị định 44/NĐ ngày 27/5/1958 của Bộ giao thông Bƣu điện; Nghị định liên bộ giữa Bộ giao thông Bƣu điện - Công an số 09/NĐLB ngày 07/3/1956 ban hành thể lệ tạm thời về vận tải đƣờng bộ; Nghị định số 10/NĐ của Hội đồng Chính phủ ban hành Điều lệ về kỷ luật an toàn giao thông vận tải trong thời chiến; Nghị định 36/CP ngày 29/5/1995 về tăng cƣờng bảo đảm trật tự an toàn giao thông vận tải đƣờng bộ và trật tự đô thị và đến nay là Nghị định số 36/CP ngày 10/7/2001 về bảo đảm trật tự an toàn giao thông đƣờng bộ và trật tự an toàn giao thông đô thị. Điểm nổi bật và đáng chú ý nhất là Quốc Hội đã thông qua Luật giao thông đƣờng bộ đầu tiên vào ngày 29/6/2001 và Luật này có hiệu lực từ ngày 01/01/2002. Ngày 19/01/1955 Thủ tƣớng Chính phủ ra Thông tƣ số 442/TTg là văn bản đầu tiên của Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định về tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ . Tại Điểm 4 của Thông tƣ này quy định: “Không cẩn thận khi không theo luật đi đường mà làm người khác bị thương sẽ bị phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm. Nếu gây tai nạn làm chết người thì có thể bị phạt tù đến 10 năm” [6,tr. 135]. Sau hơn một năm thực hiện Thông tƣ này, ngày 29/6/1956, Thủ tƣớng Chính phủ đã ra Thông tƣ 556/TTg bổ sung điểm 4 Thông tƣ 442/TTg. Điểm 4 của Thông tƣ 556/TTg quy định: “Không cẩn thận hay không theo luật đi đường mà làm người khác bị thương thì sẽ bị phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm. Nếu gây tai nạn chết người thì có thể bị phạt tù đến 10 năm. Trong trường hợp gây tai nạn lớn làm chết nhiều người và gây thiệt hại lớn đến tài sản của nhân dân thì có thể bị phạt đến tù chung thân hay tử hình” [7,Tr. 135]. Trƣớc ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng, các tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ đều đƣợc điều tra, truy tố và xét xử theo Thông tƣ 442/TTg và Thông tƣ 556/TTg của Thủ tƣớng Chính phủ. 8 Đối với tội vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn thì đƣờng lối xử lý ngƣời phạm tội là “Trừng trị thích đáng đối với những vi phạm nghiêm trọng, nghiêm trị đúng mức đối với những vi phạm đặc biệt nghiêm trọng, đồng thời kết hợp với thận trọng để xem xét đầy đủ mọi tình tiết một cách toàn diện”. Khi Miền Nam hoàn toàn giải phóng, Chính phủ mới ban hành Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15/3/1976 quy định tội phạm và hình phạt đối với hành vi xâm phạm trật tự công công, an toàn công cộng và sức khỏe của nhân dân. Tại Điều 9 Sắc luật 03 quy đinh về tội xâm phạm đến trật tự công cộng, an toàn công cộng và sức khỏe của nhân dân nhƣ sau: “Tội vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn nghiêm trọng với các khung hình phạt từ 3 tháng đến 5 năm, trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 15 năm. Trong mọi trường hợp có thể bị phạt tiền đến 1000 đồng ngân hàng”. Nhƣ vậy có thể thấy, trƣớc khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985, các hành vi vi phạm các quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ chƣa đƣợc quy định là một tội độc lập. Đƣờng lối xử lý vi phạm tội vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn đƣợc thực hiện theo hƣớng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao tại Bản sơ kết kinh nghiệm về đƣờng lối xét xử tội vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn. Đến năm 1976, Chính phủ mới ban hành một văn bản dƣới dạng Sắc luật quy định tội phạm và hình phạt đối với tội vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn nghiêm trọng. 1.1.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến Bộ luật hình sự năm 1999 Tháng 9 năm 1985, Bộ luật hình sự đầu tiên của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời và có hiệu lực hành thống nhất trong toàn quốc kể từ ngày 01/01/1986. Trong bộ luật này, tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ cũng chƣa có tên riêng, mà đƣợc quy định chung với các hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông vận tải (Điều 186, Chƣơng VIII – Các tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng và trật tự quản lý hành chính - BLHS 1985). Điều luật quy định hành vi phạm tội của ngƣời “điều khiển phương tiện giao thông vận tải mà vi phạm các quy định về an toàn giao thông vận tải đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường không gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe người khác hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản …,” [19] 9 So với Sắc luật số 03-SL/76 thì quy định tại Điều 186 Bộ luật hình sự 1985 đã có bƣớc tiến bộ rất lớn về cả kỹ thuật lập pháp và nội dung. Cụ thể nhƣ sau: - Tên của tội đã đƣợc xác định rõ là “Tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông vận tải gây hậu quả nghiêm trọng” - Sắc luật số 03-SL/76 chỉ nêu tội danh và hình phạt mà không mô tả dấu hiệu pháp lý đặc trƣng của tội phạm cũng nhƣ quy định các khung hình phạt tƣơng ứng với các loại trƣờng hợp phạm tội khác nhau nhƣ quy định tại Điều 186 Bộ luật hình sự năm 1985. - Đƣờng lối xử lý tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông vận tải gây hậu quả nghiêm trọng của Bộ luật hình sự năm 1985 có thay đổi mức hình phạt tù theo hƣớng tăng nặng hơn tối đa từ 15 năm lên 20 năm cho phù hợp với các trƣờng hợp đặc biệt nghiêm trọng của tội này. - Các tình tiết định khung tăng nặng đƣợc quy định tại Điều 186 Bộ luật hình sự năm 1985 cụ thể, đầy đủ và rõ ràng hơn. Nhiều tình tiết định khung tăng nặng khác trong Bộ luật hình sự năm 1985 đã đƣợc bổ sung (4 khung hình phạt khác nhau). Tuy nhiên quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 về tội vi phạm quy định về an toàn giao thông vận tải cũng đã bộc lộ nhiều hạn chế. Đó là quy định cả 4 loại hành vi vi phạm trong bốn lĩnh vực an toàn giao thông vận tải (đƣờng bộ, đƣờng sắt, đƣờng thủy và đƣờng không) có đặc điểm kỹ thuật và yêu cầu bảo đảm an toàn rất khác nhau vào cùng một điều luật. Điều này đã hạn chế nhiều đến việc quy định cụ thể hành vi phạm tội cũng nhƣ việc phân hóa trách nhiệm hình sự của hành vi phạm tội. Bộ luật hình sự năm 1985 đƣợc sửa đổi, bổ sung vào các năm 1989, 1991, 1992, 1997 nhƣng nội dung của Điều 186 về tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ về cơ bản không thay đồi, mà chỉ có sự thay đổi về tên tội (đƣợc sửa đổi bổ sung vào năm 1991), từ tội vi phạm quy định về an toàn giao thông vận tải gây hậu quả nghiêm trọng thành tội vi phạm quy định về an toàn giao thông vận tải. Bỏ cụm từ “gây hậu quả nghiêm trọng” nhằm cho tên tội phù hợp với tất cả các trƣờng hợp bị coi là phạm tội này theo nội dung điều luật. 10 1.2. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lí của tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ 1.2.1.Khái niệm tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ Tội phạm là một hiện tƣợng xã hội có tính lịch sử, phát sinh trong điều kiện kinh tế, xã hội nhất định, đó là hiện tƣợng tiêu cực của xã hội, tội phạm luôn chứa đựng trong nó tính chống đối lại Nhà nƣớc, chống đối lại xã hội, đi ngƣợc lại lợi ích chung của cộng đồng, trật tự xã hội, xâm phạm đến quyền, tự do và các lợi ích hợp pháp của con ngƣời. Tại Điều 8 BLHS năm 1999 hiện hành thì khái niệm tội phạm đƣợc định nghĩa: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khá của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. [20]. Khái niệm tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ là sự cụ thể hóa khái niệm tội phạm, hiện nay vẫn còn một số quan điểm khác nhau. Có tác giả cho rằng: “Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là hành vi xâm phạm những quy định của Nhà nước về an toàn giao thông đường bộ” [13,tr.434]. Tác giả cho rằng khái niệm này còn khá chung chung và chƣa nêu cụ thể hành vi phạm tội và dấu hiệu chủ thể của tội phạm. Tác giả Đinh Văn Quế trong cuốn bình luận khoa học BLHS đã định nghĩa: “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông trong khi điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác” [18, tr. 6]. Giáo trình luật hình sự Việt Nam của trƣờng Đại học luật Hà Nội thì định nghĩa: “Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là 11 hành vi của người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác” [28, tr. 196]. Cả hai định nghĩa trên đều chƣa đề cập đến vấn đề năng lực TNHS của ngƣời điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ khi tham gia giao thông. Trên cơ sở kế thừa những hạt nhân hợp lí trong các định nghĩa trên, tác giả xin đƣa ra định nghĩa về tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ nhƣ sau: "Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực TNHS thực hiện khi điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ, vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ hoặc tài sản của người khác". 1.2.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ Các dấu hiệu pháp lý đặc trƣng (các yếu tố cấu thành tội phạm) là cơ sở pháp lý của việc định tội danh. Cũng nhƣ các tội phạm khác, tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ quy định tại Điều 202 của BLHS 1999 có 4 yếu tố cấu thành là khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể. * Khách thể của tội phạm: Khách thể của tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ đƣợc xác định là trật tự an toàn của hoạt động giao thông đƣờng bộ và sự an toàn về tính mạng, sức khỏe và tài sản của ngƣời tham gia giao thông. [41, tr 417] * Mặt khách quan của tội phạm Mặt khách quan của tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ bao gồm: hành vi khách quan; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, thời gian, địa điểm, phƣơng tiện phạm tội. Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ quy định tại Luật giao thông đƣờng bộ nhƣ: hành 12 vi vi phạm quy định về tốc độ và khoảng cách giữa các xe, sử dụng làn đƣờng, vƣợt xe, chuyển hƣớng xe…[41,418] Hậu quả do hành vi vi phạm tội này gây ra là thiệt hại về tính mạng, thiệt hại nghiêm trọng sức khoẻ, tài sản của Nhà nƣớc và công dân. Thiệt hại đƣợc coi là nghiêm trọng thuộc một trong các trƣờng hợp sau đây: “ a. Làm chết một người; b. Gây thương tích hoặc gây tổn hại nặng cho sức khỏe của một người đến 4 người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; c. Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; d. Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 31% nhưng tổng tỷ lệ thương tật của những người này từ 41% trở lên; e. Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của một người với tỷ lệ thương tật từ 21% đến 30% và còn gây thiệt hại về tài sản với giá trị ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng; f. Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21% nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả các nạn nhân từ 31% đến 40% và còn gây thiệt hại về tài sản với giá trị ba mươi triệu đến dưới năm mươi triệu; g. Gây thiệt hại về tài sản với giá trị từ năm mươi triệu đến dưới năm trăm triệu động”[34] Giữa hành vi vi phạm và hậu quả xảy ra phải có mối quan hệ nhân quả. Hành vi vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ phải là nguyên nhân phát sinh hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Tội phạm hoàn thành từ thời điểm xảy ra thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản của ngƣời khác. Khoản 4 Điều 202 BLHS đƣợc coi là cấu thành giảm nhẹ đặc biệt đối với tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ. Trên thực tế rất ít xảy ra trƣờng hợp này. Đây là trƣờng hợp vi phạm quy định về an toàn giao thông đƣờng bộ mà nếu không đƣợc ngăn chặn kịp thời thì hậu quả đặc biệt nghiêm trọng 13 nhất định xảy ra. Có quan điểm cho rằng, khoản 4 Điều 202 BLHS là cấu thành hình thức, vì theo quy định của điều luật, không cần có hậu quả xảy ra tội phạm đã hoàn thành. Nếu chỉ căn cứ vào quy định tại khoản 4 của điều luật này thì dƣờng nhƣ đây là tội có cấu thành hình thức. Tuy nhiên, ở đây cần lƣu ý hậu quả chƣa xảy ra là do “đƣợc ngăn chặn kịp thời” chứ không phải do “hành vi phạm tội mới đe dọa xâm phạm đến các quan hệ xã hội” nhƣ đối với các tội phạm có cấu thành hình thức. Vì vậy, về bản chất, cấu thành tội phạm của khoản này vẫn là cấu thành tội phạm vật chất. Hậu quả của hành vi mặc dầu chƣa xảy ra nhƣng hoàn toàn có thể suy đoán đƣợc dựa trên diễn tiến của hành vi nếu không đƣợc ngăn chặn kịp thời. * Mặt chủ quan của tội phạm Lỗi của ngƣời phạm tội trong tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ là lỗi vô ý vì quá tự tin hoặc vô ý do cẩu thả. * Chủ thể của tội phạm Theo quy định tại khoản 2 Điều 12 BLHS 1999 “Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”[20]. Tội vi phạm các quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ quy định tại khoản 1 Điều 202 BLHS là tội phạm nghiêm trọng; quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 202 BLHS là tội phạm rất nghiêm trọng;quy định tại khoản 4 Điều 202 BLHS là tội phạm ít nghiêm trọng. Nhƣ vậy, chủ thể của tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ quy định tại Điều 202 của BLHS là ngƣời từ đủ 16 tuổi trở lên có đủ năng lực TNHS. BLHS 2015 đã sửa đổi quy định về độ tuổi chịu TNHS, theo đó nhà làm luật quy định cụ thể những trƣờng hợp ngƣời từ đủ 14 tuổi đến dƣới 16 tuổi phải chịu TNHS tại khoản 2 Điều 12 BLHS 2015. Tuy nhiên, theo quy định này thì ngƣời từ đủ 14 tuổi đến dƣới 16 tuổi cũng vẫn không phải chịu TNHS đối với tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đƣờng bộ (Điều 260 BLHS 2015). * Hình phạt đối với tội phạm Điều 202 BLHS 1999 quy định bốn khung hình phạt với ngƣời phạm tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ: Khoản 1 Điều 202 của 14 BLHS quy định phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mƣơi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm, hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm, khoản 2 Điều của 202 BLHS quy định phạt tù từ ba năm đến mƣời năm, khoản 3 Điều 202 của BLHS quy định phạt tù từ bảy năm đến mƣời lăm năm. Vi phạm quy định an toàn giao thông đƣờng bộ mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không đƣợc ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm phải chịu TNHS theo khoản 4 Điều 202 của BLHS. 1.3. Phân biệt tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ với một số tội danh khác * Phân biệt tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ với tội giết ngƣời. Giữa hai tội phạm này có một số điểm khác nhau nhƣ sau: Bảng 1.1: Sự khác nhau giữa tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ với tội giết người Tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông Tội giết ngƣời Tiêu chí đƣờng bộ Về khách thể trực tiếp - Xâm phạm đến sự an toàn của hoạt động giao thông đƣờng bộ và sự an - Xâm phạm đến quyền đƣợc toàn về tính mạng, sức khỏe và tài sống của con ngƣời sản của ngƣời khác - Hành vi vi phạm các quy định về - Là hành vi tƣớc đoạt trái pháp đảm bảo trật tự an toàn giao thông luật tính mạng của ngƣời khác, Hành vi khác quan đƣờng bộ của ngƣời điều khiển là khả năng gây ra cái chết cho phƣơng tiện tham gia giao thông đã con ngƣời, chấm dứt sự sống gây ra hậu quả nghiêm trọng cho xã của họ. Hành vi khách quan của hội (thiệt hại về tính mạng, tài sản tội giết ngƣời có thể là hành tính thành tiền và làm mất trật tự an động hoặc là không hành động 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan