Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tội mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang - Một số vấn đề lý ...

Tài liệu Tội mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn Luận văn ThS. Luật

.PDF
113
2327
108

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ QUẾ TỘI MUA BÁN NGƯỜI, MUA BÁN TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THỊ QUẾ TỘI MUA BÁN NGƯỜI, MUA BÁN TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Mạnh Hùng HÀ NỘI - 2014 2 Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch­a tõng ®­îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n TrÇn ThÞ QuÕ 3 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng Danh mục các biểu đồ 1 MỞ ĐẦU Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI MUA BÁN NGƯỜI 9 VÀ TỘI MUA BÁN TRẺ EM 1.1. Quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về tội 10 phạm buôn bán người, buôn bán trẻ em 1.1.1. Khái niệm buôn bán người theo quy định của luật pháp quốc tế 10 1.1.2. Khái niệm mua bán người, mua bán trẻ em theo quy định của 16 pháp luật hình sự Việt Nam 1.2. Lịch sử phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam quy định 20 về phòng, chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em 1.2.1. Hệ thống pháp luật hình sự Việt Nam trước khi ban hành Bộ 20 luật hình sự năm 1999 1.2.2. Hệ thống pháp luật phi hình sự có liên quan đến phòng, chống 24 tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em 1.3. Kinh nghiệm và sự hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, 31 chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em Chương 2: TỘI MUA BÁN NGƯỜI VÀ TỘI MUA BÁN TRẺ EM THEO 37 QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ HAI TỘI PHẠM NÀY TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG GIAI ĐOẠN 2009 - 2013 2.1. Tội mua bán người và tội mua bán trẻ em trong Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) 4 37 2.1.1. Tội mua bán người (Điều 119 Bộ luật hình sự) 37 2.1.2. Tội mua bán trẻ em (Điều 120 Bộ luật hình sự) 41 2.2. 47 Tình hình tội phạm mua bán người và tội phạm mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang 2.2.1. Đặc điểm chung về tình hình tội phạm mua bán người, mua 47 bán trẻ em trên phạm vi cả nước 2.2.2. Tình hình tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em trên địa 51 bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 đến năm 2013 2.3. Tình hình xét xử tội phạm mua bán người và tội phạm mua 58 bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013 2.4. Những khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân của những tồn 72 tại, hạn chế trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP 77 NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG TỘI PHẠM MUA BÁN NGƯỜI VÀ MUA BÁN TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG 3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về 77 tội mua bán người và tội mua bán trẻ em 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự đối 82 với tội mua bán người và tội mua bán trẻ em 3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống 84 tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em, trên địa bàn tỉnh Hà Giang 3.3.1. Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục cho nhân dân tham 85 gia phòng chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em 3.3.2. Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, gắn xây dựng nông thôn mới với công tác xóa đói giảm nghèo, dạy nghề và tạo việc làm cho nam nữ thanh niên 5 87 3.3.3. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong 88 điều tra, truy tố, xét xử tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em 3.3.4. Tăng cường sự phối hợp với các ngành chức năng trong công 90 tác phòng, chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em 3.3.5. Tăng cường công tác xác minh và hỗ trợ tái hòa nhập cộng đồng 93 cho nạn nhân của tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em 3.3.6. Tăng cường phối hợp, hợp tác quốc tế trong công tác phòng, 95 chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em 98 KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 6 100 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang Số vụ và số bị can đã khởi tố điều tra về tội mua bán 53 bảng 2.1 người và tội mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013 2.2 Số vụ và số bị can, bị cáo bị khởi tố điều tra, truy tố, xét 56 xử về tội mua bán người, mua bán trẻ em trên phạm vi cả nước từ 2009 - 2013 2.3 Số vụ và số bị cáo đã xét xử về tội mua bán người và tội 59 mua bán trẻ em theo Điều 119, 120 Bộ luật hình sự, trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013 2.4 Tổng hợp mức hình phạt của các bị cáo đã xét xử về tội 64 mua bán người và tội mua bán trẻ em, trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ 2009 - 2013 2.5 Thống kê số nạn nhân theo mục đích mua bán của tội 65 phạm mua bán người và tội phạm mua bán trẻ em, trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013 2.6 Thống kê thành phần độ tuổi các nạn nhân của tội phạm 68 mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ 2009 - 2013 2.7 Thống kê thành phần độ tuổi của tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013 7 69 DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Số hiệu Tên biểu đồ Trang Biểu đồ thể hiện tỷ lệ tổng số vụ án mua bán người, mua 53 biểu đồ 2.1 bán trẻ em trên tổng số vụ án về trị an xã hội của tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013 2.2 Biểu đồ thể hiện tổng số vụ án thụ lý về tội mua bán 57 người và tội mua bán trẻ em của tỉnh Hà Giang so với cả nước từ năm 2009 - 2013 2.3 Biểu đồ thể hiện tỷ lệ số vụ án xét xử về tội mua bán người 62 và tội mua bán trẻ em theo Điều 119 và Điều 120 Bộ luật hình sự, trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013 2.4 Biểu đồ thể hiện tỷ lệ số bị cáo xét xử về tội mua bán người 63 và tội mua bán trẻ em theo Điều 119 và Điều 120 Bộ luật hình sự, trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013 2.5 Tỷ lệ nạn nhân phân loại theo mục đích mua bán của tội 66 phạm mua bán người và tội phạm mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013 2.6 Tỷ lệ nạn nhân phân loại theo thành phần độ tuổi bị mua bán người và mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013 8 69 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bối cảnh toàn cầu hướng đến một thế giới văn minh, công bằng và bình đẳng nhằm đảm bảo các quyền cơ bản của con người đặc biệt là phụ nữ và trẻ em thì thế giới đã xuất hiện một hình thức xâm phạm nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm con người với các thủ đoạn ngày càng tinh vi, phức tạp và có tổ chức đó là tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em. Đây là một thách thức lớn đối với các quốc gia đang phát triển trong đó có Việt Nam. Những năm gần đây, tình hình tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em ở Việt Nam diễn biến phức tạp, có xu hướng quốc tế hóa. Trong nước đã xuất hiện nhiều đường dây mua bán người, mua bán trẻ em xuyên quốc gia, liên quan đến đối tượng thuộc nhiều địa phương, có sự cấu kết chặt chẽ giữa tội phạm trong nước và nước ngoài với nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, lừa gạt dưới mọi hình thức để đạt được mục đích. Đối tượng của hoạt động mua bán người là nam giới, phụ nữ và trẻ em, thuộc mọi lứa tuổi trong đó nhiều nhất là phụ nữ và trẻ em. Phần lớn phụ nữ, trẻ em bị buôn bán từ các vùng nông thôn, miền núi ra đô thị, bị ép buộc làm gái mại dâm phục vụ cho các cửa hàng, dịch vụ trá hình. Nhiều nạn nhân bị buôn bán ra nước ngoài, đến các quốc gia khác nhau với nhiều hình thức bóc lột nhằm trục lợi như mại dâm và làm vợ bất hợp pháp, nam giới bị buôn bán để bóc lột sức lao động... Thực trạng phụ nữ và trẻ em bị bán ra nước ngoài qua các hình thức dịch vụ môi giới hôn nhân, cho nhận con nuôi đã trở thành vấn đề nóng bỏng, nhức nhối, ảnh hưởng xấu đến đời sống sinh hoạt của nhân dân, phong tục tập quán, đạo đức xã hội. Tệ nạn mua bán người đe dọa đến sự an ninh, an toàn của con người trên nhiều phương diện, gây những tác hại nặng nề về thể chất và tinh thần cho nạn nhân, tước đoạt tự do và quyền con người, đe dọa đến an ninh toàn cầu và làm gia tăng tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia. Mua bán người, mua 9 bán trẻ em có những tác hại nặng nề đối với bản thân các nạn nhân, những người thường bị lạm dụng về thể chất và tinh thần, bị cưỡng hiếp, đe dọa đến tính mạng, sự an toàn của bản thân và gia đình họ. Mua bán người, mua bán trẻ em còn làm tăng nạn sản xuất và buôn bán giấy tờ giả, ảnh hưởng không nhỏ đến an ninh, trật tự của quốc gia. Trước thực trạng trên, Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng nhiều đề án, chương trình hành động và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để đấu tranh, phòng chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em. Trong chương trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em từ năm 2004 đến năm 2010 (ban hành kèm theo Quyết định số 130/2004/QĐ-TTg ngày 14/7/2004 của Thủ tướng Chính phủ) thì một trong những nội dung quan trọng là phải xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan về phòng, chống buôn bán phụ nữ, trẻ em. Đặc biệt là Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã điều chỉnh Điều 119 từ tội danh mua bán phụ nữ sang tội danh mua bán người để đáp ứng được yêu cầu đấu tranh chống tội phạm mua bán người và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử đối với loại tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em chưa thực sự hiệu quả, tỷ lệ khám phá, xử lý tội phạm còn thấp. Các cơ quan bảo vệ pháp luật đã có nhiều cố gắng trong việc phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử, bóc gỡ được nhiều đường dây buôn bán người mang tính tổ chức cao và hoạt động xuyên quốc gia, tuy nhiên, thực tế số tội phạm ẩn đối với loại hành vi này còn rất lớn. Hà Giang là tỉnh nằm ở cực Bắc của Tổ quốc, là một trong những tỉnh miền núi thuộc diện nghèo nhất nước, có đường biên giới dài, tiếp giáp với nhiều địa phương của Trung Quốc. Đảng bộ và chính quyền tỉnh Hà Giang đã tăng cường công tác tuyên truyền pháp luật để đấu tranh, phòng chống với các loại tội phạm, trong đó có tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em. Đồng thời, các cơ quan an ninh đã phối hợp với các ban ngành liên quan nỗ lực 10 phòng chống và giúp đỡ các nạn nhân bị mua bán tái hòa nhập với cộng đồng. Với những đặc thù riêng của địa phương, loại hình tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang có nhiều điểm khác biệt so với các địa phương trong cả nước. Do vậy, tác giả cho rằng cần có một nghiên cứu đầy đủ về thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống và thực tiễn xét xử để bổ sung cho lý luận về tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em nhằm áp dụng có hiệu quả vào thực tế tại tỉnh Hà Giang. Hơn nữa, là một kiểm sát viên trực tiếp thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự, trong đó có các vụ án về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em, nên tác giả muốn có nghiên cứu tổng quan để phục vụ công tác của mình. Đây cũng là lý do để tác giả lựa chọn đề tài "Tội mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học, nhằm tìm hiểu đầy đủ những cơ sở lý luận và thực tiễn về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em, áp dụng một cách có hiệu quả vào công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nơi địa phương đang cư trú. Mặt khác, qua việc nghiên cứu này để đánh giá kết quả tìm hiểu và nghiên cứu khoa học của bản thân trong quá trình được các thầy cô bồi dưỡng và đào tạo. 2. Tình hình nghiên cứu Dưới góc độ khoa học pháp lý, trong thời gian qua việc nghiên cứu về tội mua bán người, mua bán trẻ em đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu lý luận, hình sự và cán bộ thực tiễn. Tuy nhiên, chưa có nhiều công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu, có hệ thống dưới góc độ pháp lý hình sự về tội mua bán người, mua bán trẻ em đặc biệt là gắn với một địa bàn cụ thể như tỉnh Hà Giang. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em, cũng như đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về tội phạm này có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn phục vụ trực 11 tiếp cho địa bàn tỉnh Hà Giang. Về các vấn đề liên quan đến mua bán người, mua bán trẻ em đến nay đã có một số chương trình hành động, báo cáo của các tổ chức như: Chương trình hành động về phòng chống nạn buôn bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam (1999 - 2002) của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; Báo cáo đánh giá hệ thống pháp luật của Việt Nam trên tinh thần các Nghị định thư của Liên hợp quốc về phòng, chống buôn bán người và di cư trái phép, bổ sung Công ước Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia của Bộ Tư pháp. Trong các giải pháp phòng, chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em thì hoàn thiện hệ thống pháp luật là một vấn đề luôn được đặt lên hàng đầu. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá tình hình tội phạm và thực trạng xét xử để nâng cao hiệu quả giải quyết án là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Cho đến nay, Việt Nam đã xây dựng được một khung pháp lý tương đối đầy đủ nhằm bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm đối với nam giới, phụ nữ, trẻ em là đối tượng của hành vi mua bán như Hiến pháp, Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật hôn nhân và gia đình, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Pháp lệnh phòng chống mại dâm... Các văn bản pháp luật này tạo cơ sở pháp lý cho việc đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em trong thời gian qua. Tuy nhiên, trước xu thế mở cửa và hội nhập quốc tế, diễn biến tình hình tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em ngày càng trở lên phức tạp. Hệ thống văn bản pháp luật hiện hành của Việt Nam trong đó có các quy định của pháp luật hình sự đã bộc lộ một số bất cập, thiếu sót làm ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác phòng, chống loại tội phạm này. Trên phương diện hoàn thiện pháp luật và tình hình thực tiễn phòng chống tội phạm đã có một số công trình đề cập đến mua bán người, mua bán trẻ em của các tác giả Vũ Ngọc Bình, Phòng chống buôn bán và mại dâm trẻ em; Đỗ Thị Thơm, Hoàn thiện pháp luật về 12 quyền trẻ em ở Việt Nam hiện nay; Nguyễn Quang Dũng, Tình hình tội phạm mua bán phụ nữ qua biên giới nước ta và hoạt động phòng ngừa của Bộ đội Biên phòng; Phạm Văn Hùng, Quán triệt chương trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em từ năm 2004 - 2010; Đặng Xuân Khang, Tội phạm mua bán phụ nữ, trẻ em qua biên giới Việt Nam - thực trạng và giải pháp... đã có những đóng góp trong việc hoàn thiện pháp luật và đưa vấn đề phòng, chống mua bán người, mua bán trẻ em vào khoa học hình sự nhằm tìm ra giải pháp hiệu quả phòng ngừa loại tội phạm trên. 3. Mục đích và đối tượng nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và các quy định của pháp luật hình sự hiện hành về tội mua bán người và mua bán trẻ em; đối chiếu với các quy định của pháp luật quốc tế liên quan đến hành vi mua bán người và mua bán trẻ em. Luận văn nghiên cứu những vấn đề pháp lý cơ bản của tội mua bán người và tội mua bán trẻ em như: khái niệm, các dấu hiệu pháp lý, đồng thời đi sâu vào phân tích thực tiễn xét xử tội mua bán người và tội mua bán trẻ em từ năm 2009 đến năm 2013 trên địa bàn tỉnh Hà Giang, có so sánh, đối chiếu với số liệu trên toàn quốc. Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em và thực tiễn tội phạm trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 đến năm 2013, tác giả đề tài sẽ phân tích và chỉ ra thực trạng giải quyết, những tồn tại, khó khăn của các cơ quan pháp luật trong quá trình thực thi nhiệm vụ. Đồng thời, đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em tại tỉnh Hà Giang. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn trong đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em nói chung và trên địa bàn tỉnh Hà Giang nói riêng. 13 Với đối tượng và mục đích nghiên cứu như trên, học viên đề ra phạm vi nghiên cứu của đề tài là: Tìm hiểu một số quy định của pháp luật quốc tế về tội mua bán người, mua bán trẻ em. Nghiên cứu và hệ thống hóa những quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành đối với các hành vi mua bán người và mua bán trẻ em. Phân tình hình tội phạm và thực tiễn xét xử các vụ án mua bán người và mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang trong thời gian 05 năm, từ năm 2009 đến năm 2013, nêu ra những khó khăn, vướng mắc, những tồn tại và hạn chế trong công tác giải quyết. Từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị trong việc nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người và tội phạm mua bán trẻ em. 4. Cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở phương pháp luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những chủ trường, đường lối của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung cũng như đấu tranh phòng chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em nói riêng. Phương pháp luận cũng dựa trên cơ sở những thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: Lịch sử Nhà nước và pháp luật; Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật; Xã hội học pháp luật; Tâm lý học; Tội phạm học; Luật tố tụng hình sự… và những luận điểm, luận chứng khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên báo, tạp chí của một số nhà khoa học Luật hình sự Việt Nam và nước ngoài. 4.2. Các phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu của luận văn là kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, dùng lý luận để phân tích các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam đối với tội mua bán người và mua bán trẻ em. Sử dụng cơ sở lý 14 luận để làm rõ những vấn đề thực tiễn trong xét xử tội phạm mua bán người, mua bán trẻ em nói chung và trên địa bàn tỉnh Hà Giang nói riêng, minh chứng bằng những số liệu, dẫn chứng cụ thể. Bên cạnh đó, luận văn cũng sử dụng một số phương pháp tiếp cận để làm sáng tỏ về mặt khoa học từng vấn đề tương ứng. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp và thống kê xã hội học; phương pháp lịch sử; phương pháp so sánh, đối chiếu; phân tích quy phạm pháp luật, khảo sát thực tiễn; nghiên cứu, điều tra án điển hình... để phân tích và luận chứng các vấn đề khoa học - thực tiễn cần nghiên cứu trong luận văn này. 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài 5.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em trong khoa học Luật hình sự Việt Nam. Cụ thể, đã làm rõ các vấn đề chung về các tội này trong Luật hình sự Việt Nam, phân tích khái quát các quy định của pháp luật quốc tế; làm sáng tỏ các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em; phân tích thông qua nghiên cứu thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2009 - 2013 và trên toàn quốc để so sánh, qua đó chỉ ra những mâu thuẫn, bất cập của các quy định hiện hành; các sai sót trong quá trình áp dụng các quy định đó, cũng như đưa ra nguyên nhân để tìm giải pháp khắc phục, nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về tội mua bán người, mua bán trẻ em ở khía cạnh lập pháp và việc áp dụng trong thực tiễn, đặc biệt một số giải pháp gắn liền với việc phòng, chống loại tội phạm này trên địa bàn tỉnh Hà Giang. 5.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn còn có thể sử dụng là tài liệu tham khảo, nghiên cứu và học tập. Một số đề xuất, kiến nghị của luận văn sẽ cung cấp những luận cứ khoa học phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng Bộ luật 15 hình sự Việt Nam liên quan đến tội mua bán người và tội mua bán trẻ em, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống các tội này hiện nay và sắp tới ở địa bàn tỉnh Hà Giang nói riêng và cả nước nói chung. Đề tài giúp nhận thức đầy đủ về lý luận và thực tiễn trong đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người và mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang. Đề tài phân tích thực tiễn xét xử các vụ án hình sự về mua bán người, mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang, đánh giá đúng thực trạng giải quyết loại tội phạm này, tìm ra được những khó khăn, vướng mắc, nguyên nhân của tồn tại và hạn chế trong công tác đấu tranh, phòng ngừa. Từ đó xây dựng được hệ thống giải pháp hữu hiệu và có tính khả thi cao, phù hợp với điều kiện, tình hình thực tế tại địa phương. Với cá nhân người nghiên cứu, đề tài sẽ góp phần nâng cao hiệu quả công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử sơ thẩm án hình sự, trong đó có tội mua bán người và tội mua bán trẻ em. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về tội mua bán người và tội mua bán trẻ em. Chương 2: Tội mua bán người và tội mua bán trẻ em theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và thực tiễn xét xử hai tội phạm này trên địa bàn tỉnh Hà Giang giai đoạn 2009 - 2013. Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người và tội mua bán trẻ em trên địa bàn tỉnh Hà Giang. 16 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI MUA BÁN NGƯỜI VÀ TỘI MUA BÁN TRẺ EM Buôn bán người hình thành, phát triển và tồn tại kéo dài trong suốt lịch sử của nhân loại, từ khi hình thành hình thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ cho đến nay. Buôn bán người đã bị cả xã hội lên án và để chống lại tình trạng này, trong những năm đầu thế kỷ XX, một số Công ước quốc tế về chống buôn bán người đã được ký kết như Công ước bãi bỏ buôn bán nô lệ da trắng năm 1904, Công ước ngăn chặn tệ buôn bán phụ nữ năm 1910, Công ước về chống buôn bán nô lệ năm 1926... Sau khi được thành lập, Liên hợp quốc đã có nhiều văn bản pháp lý đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến phòng chống tội phạm buôn bán người, đặc biệt là buôn bán phụ nữ, trẻ em và bảo vệ các nạn nhân của tội phạm này để thay thế các văn bản quốc tế trước đó như Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948, Công ước quốc tế về loại trừ các hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội năm 1966, Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979, Công ước về quyền trẻ em năm 1989, Công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2000... và một số Nghị định thư bổ sung cho các công ước nêu trên như: Nghị định thư không bắt buộc năm 2000 bổ sung cho Công ước về quyền trẻ em về buôn bán trẻ em, mua dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em; Nghị định thư về phòng ngừa, trấn áp và trừng trị tội phạm buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ, trẻ em năm 2000 bổ sung cho Công ước về chống tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia... Cuộc đấu tranh chống tội phạm buôn bán người ngày càng được nhiều nước trên thế giới hưởng ứng, tham gia và đã thu được những kết quả nhất định. 17 1.1. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TỘI PHẠM BUÔN BÁN NGƯỜI, BUÔN BÁN TRẺ EM Khái niệm buôn bán người, buôn bán trẻ em là một trong những vấn đề nóng bỏng và gây tranh luận trong các cuộc hội thảo trong nước và các hội nghị quốc tế. Việt Nam cũng như các nước trong khu vực và trên thế giới đã và đang có những hoạt động nỗ lực nhằm ngăn chặn và đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này. Tuy nhiên, vẫn có những khác biệt của pháp luật quy định về tội mua bán người, mua bán trẻ em (theo pháp luật của Việt Nam) và tội buôn bán người (theo quy định của pháp luật quốc tế). Để có thể đưa ra được khái niệm mua bán người, mua bán trẻ em phù hợp với quy định của pháp luật quốc tế (vì hiện nay Việt Nam đã ra nhập và ký kết nhiều văn kiện quốc tế quy định về buôn bán người) và phù hợp với các quy định của pháp luật Việt Nam cũng như tình hình, hoàn cảnh thực tế của đất nước thì cần phải nghiên cứu toàn diện và sâu rộng các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật trong nước, trên cơ sở đó đưa ra khái niệm mua bán người, mua bán trẻ em. 1.1.1. Khái niệm buôn bán người theo quy định của pháp luật quốc tế Mua bán người, mua bán trẻ em là một loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng mà loài người tiến bộ trên khắp thế giới đều lên án rất mạnh mẽ. Tội phạm mua bán người làm rối loạn tình hình an ninh, trật tự, xâm phạm nhân quyền. Bên cạnh đó những hậu quả của mua bán người để lại những nỗi mất mát lớn cho các nạn nhân đặc biệt về mặt tinh thần. Tuy với những đặc điểm chung của cùng một loại hình tội phạm nhưng quan niệm về tội mua bán người ở các quốc gia so với quan niệm của các quy định quốc tế có sự khác biệt đáng kể, tùy mức độ rộng hẹp của cách hiểu Pháp luật quốc tế không quy định khái niệm mua bán người, mua bán trẻ em mà quy định chung về khái niệm buôn bán người. Nạn buôn người là hình thức hiện đại của nạn nô lệ, đang phá hủy gia đình và cộng đồng trên 18 khắp thế giới. Buôn bán người chính là hình thức mua bán, chiếm hữu nô lệ, coi con người là một loại hàng hóa và tước đoạt của họ những quyền cơ bản về tự do một cách trái pháp luật và vô đạo đức. Do có những đặc điểm riêng về truyền thống lịch sử, văn hóa xã hội, điều kiện kinh tế mà pháp luật của mỗi quốc gia quy định về khái niệm buôn bán người khác nhau. Pháp luật của một số quốc gia quy định khái niệm "buôn bán người" theo những chuẩn mực pháp lý quốc tế, thì cũng có một số quốc gia khác, khái niệm này chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp hoặc có những điểm không tương đồng với quy định của pháp luật quốc tế. Khái niệm "buôn bán người" được quy định trong nhiều văn bản pháp luật quốc tế. Nghị định thư về phòng ngừa, trấn áp và trừng trị việc buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ, trẻ em (Nghị định thư Palermo). Văn kiện này được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 15 tháng 11 năm 2000 và có hiệu lực ngày 25 tháng 12 năm 2003. Theo quy định của Nghị định thư này, khái niệm buôn bán người (trong đó có phụ nữ, trẻ em) được quy định như sau: a) Việc tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp và nhận người nhằm mục đích bóc lột bằng cách đe dọa dùng bạo lực hay cách thức ép buộc, bắt cóc, lừa gạt, man trá, lạm dụng quyền lực hoặc vị thế dễ bị tổn thương hay bằng việc cho hoặc nhận tiền hay lợi nhuận để đạt được sự đồng ý của một người kiểm soát đối với người khác vì mục đích bóc lột. Hành vi bóc lột ở đây ít nhất là bao gồm bóc lột vì mục đích mại dâm hoặc các hành vi bóc lột tình dục khác, các hình thức lao động hay dịch vụ cưỡng bức nô lệ hay những hình thức tương tự như nô lệ, khổ sai hay lấy các bộ phận cơ thể. b) Việc một nạn nhân của nạn buôn bán người chấp nhận sự bóc lột có chủ ý được nêu tại điểm (a) trên đây sẽ không được tính đến nếu bất kỳ một cách thức nào nêu trong điểm (a) đã được sử dụng. 19 c) Việc tuyển dụng, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp hoặc nhận trẻ em với mục đích bóc lột sẽ bị coi là buôn bán người thậm chí khi không có những hình thức được nêu ở điểm (a) trên đây. d) "Trẻ em" có nghĩa là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi [36]. Khái niệm buôn bán người theo quy định của Nghị định thư Palermo tập trung vào các yếu tố như: Thứ nhất, về hành vi, buôn bán người bao gồm: hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp hoặc nhận người. Thứ hai, về phương thức thực hiện hành vi là đe dọa hoặc sử dụng vũ lực hoặc các hình thức ép buộc, bắt cóc, lừa đảo, lạm dụng quyền lực hoặc vị thế dễ bị thương tổn, đưa hoặc nhận tiền hay lợi nhuận để đạt được sự đồng ý của một người có quyền kiểm soát đối với người khác. Thứ ba, về mục đích là nhằm bóc lột người bị mua bán (bóc lột vì mục đích mại dâm hoặc các hành vi bóc lột tình dục khác, các hình thức lao động hay dịch vụ cưỡng bức, nô lệ hay những hình thức tương tự nô lệ, làm khổ sai hay lấy các bộ phận cơ thể). Theo quy định của Nghị định thư Palermo, sự đồng ý của trẻ em là vô hiệu và bất kỳ sự tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao, chứa chấp hoặc nhận trẻ em nhằm mục đích bóc lột đều cấu thành tội buôn bán người, cho dù không có việc sử dụng vũ lực, cưỡng ép, man trá, lừa gạt... trẻ em đó. Đây là khái niệm có tính chính thống về buôn bán người theo tinh thần Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và Nghị định thư bổ sung Công ước về chống buôn bán người. Khái niệm này được sử dụng phổ biến trong hoạt động chống buôn bán người trên thế giới và được nội luật hóa trong pháp luật của nhiều quốc gia. Khái niệm này cũng đã bao hàm mọi hình thức buôn người và không chỉ giới hạn trong buôn người nhằm mục đích bóc lột tình dục mà còn đối với các mục đích khác. Khái niệm này đã tập trung vào các tình trạng cưỡng bức lao động, làm khổ sai, những hành vi như bắt 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan