Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tội lợi dụng chức vụ quyền hạn, trong khi thi hành công vụ theo pháp luật hình s...

Tài liệu Tội lợi dụng chức vụ quyền hạn, trong khi thi hành công vụ theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn thành phố hồ chí minh

.PDF
79
900
153

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN MẠNH TƯỜNG TỘI LỢI DỤNG CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN TRONG KHI THI HÀNH CÔNG VỤ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2017 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN MẠNH TƯỜNG TỘI LỢI DỤNG CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN TRONG KHI THI HÀNH CÔNG VỤ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS TRẦN ĐÌNH NHÃ HÀ NỘI - 2017 MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI LỢI DỤNG CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN TRONG KHI THI HÀNH CÔNG VỤ ..... 7 1.1 Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ. ........................................................................... 7 1.2 Phân biệt tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ với một số tội phạm khác ............................................................................ 18 1.3 Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ trong sự so sánh với Bộ luật hình sự năm 2015 ............................................................. 21 Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI TỘI LỢI DỤNG CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN TRONG KHI THI HÀNH CÔNG VỤ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ........................................................... 24 2.1 Thực trạng tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ tại Thành phố Hồ Chí Minh ........................................................................ 24 2.2 Định tội danh tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ ................................................................................................................. 27 2.3 Quyết định hình phạt đối với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ .......................................................................................... 37 2.4 Những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự đối với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ ................................................................................................................. 54 Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG PHÁP LUẬT VỀ TỘI LỢI DỤNG CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN TRONG KHI THI HÀNH CÔNG VỤ ................................................................................. 59 3.1 Hoàn thiện quy định về mở rộng chủ thể của tội phạm ........................ 59 3.2 Hoàn thiện quy định về tình tiết định tội danh...................................... 60 3.3 Hoàn thiện quy định về tình tiết định khung hình phạt ........................ 60 3.4 Các giải pháp khác ................................................................................ 62 KẾT LUẬN .................................................................................................... 68 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 70 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật hình sự CQĐT Cơ quan điều tra HSST Hình sự sơ thẩm TAND Tòa án nhân dân TPHCM Thành phố Hồ Chí Minh TTHS Tố tụng hình sự UBND Ủy ban nhân dân VKSND Viện kiểm sát nhân dân XHCN Xã hội chủ nghĩa DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Tình hình xét xử các tội phạm về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ trên địa bàn TP.HCM từ năm 2012 đến năm 2016. Bảng 2.2. Số liệu bản án và bị cáo bị xét xử theo tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ trên địa bàn TP.HCM từ năm 2012 đến năm 2016. Bảng 2.3. Số liệu thống kê các tội phạm về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ đã xét xử trên địa bàn TP.HCM từ năm 2012 đến năm 2016. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tham nhũng trong thời đại ngày nay là một hiện tượng xã hội, có tính lịch sử, là vấn đề mang tính chất toàn cầu. Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 tiếp tục khẳng định: “tình hình tham nhũng vẫn diễn biến phức tạp trên nhiều lĩnh vực, nhất là trong quản lý, sử dụng đất đai, đầu tư xây dựng, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước, gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, tiềm ẩn các xung đột lợi ích, phản kháng về xã hội, làm tăng thêm khoảng cách giàu nghèo. Tham nhũng trở thành vật cản lớn cho thành công của công cuộc đổi mới, cho sức chiến đấu của Đảng, đe dọa sự tồn vong của chế độ”. Trong Mục A “các tội phạm về tham nhũng” thuộc Chương XXI “Các tội phạm về chức vụ”của Bộ luật hình sự hiện hành có qui định cụ thể các tội tham nhũng bao gồm 08 tội danh cụ thể, trong đó có “Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” (Điều 281 BLHS). Cùng với việc quyết liệt đấu tranh phòng ngừa các loại tội tham nhũng với chiến lược quốc gia như đã nêu “Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” cũng cần được nghiên cứu kỹ lưỡng các vấn đề đặc thù để có thể xây dựng chiến lược phòng ngừa hiệu quả. Bởi vì, cho đến nay kết quả đấu tranh chống tham nhũng, trong đó tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ vẫn còn hạn chế, vẫn chưa ngăn chặn và đẩy lùi được tệ nạn nghiêm trọng này. Như chúng ta đã biết, TP.HCM là thành phố lớn nhất cả nước, là đầu tàu kinh tế và là một trong những trung tâm văn hóa, giáo dục hàng đầu đất nước. Ở thành phố này, bên cạnh những thuận lợi đạt được thì còn tồn tại không ít những vấn đề liên quan đến cơ chế quản lý của nhà nước đang làm phát sinh 1 các vấn đề tiêu cực như vấn nạn tham nhũng nói chung, lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ nói riêng. Các cơ quan bảo vệ pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh đang tích cực đấu tranh nhằm ngăn chặn các hành tiêu cực trên và cũng đã đạt được nhiều thành quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên, với diễn biến phức tạp của loại tội phạm này thì cơ chế quản lý vẫn còn những hạn chế nhất định như: Tỷ lệ phát hiện và xử lý thấp, tội phạm ẩn cao, việc xác định tội danh và quyết định hình phạt chưa thống nhất trong các cơ quan tư pháp. Hiện nay, các tội phạm về tham nhũng nói chung và tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ nói riêng đang là loại tội phạm có diễn biến phức tạp trên địa bàn thành phố. Bởi vậy, việc nghiên cứu đề tài này là cần thiết, cấp bách không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn mang ý nghĩa thực tế. Trên cơ sở những kiến thức đã học và những hiểu biết thực tế cũng như qua các tài liệu thu thập được, tác giả đã chọn đề tài: “Tội lợi dụng chức vụ quyền hạn, trong khi thi hành công vụ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” làm luận văn Thạc sĩ Luật học, chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong khoa học luật hình sự, tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ đã được nghiên cứu, phân tích, bình luận trong hệ thống giáo trình ở các cơ quan đào tạo luật học như: “Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm)”, GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb. Khoa học xã hội, 2014; “Luật hình sự Việt Nam”, GS.TSKH Lê Cảm chủ biên, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2001, tái bản năm 2007; “Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (tập II)”, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2009; “Luật hình sự Việt Nam (Quyển 2 – Phần các tội phạm)”, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2010;… 2 Ngoài ra, do tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ là loại tội phạm có tính nhảy cảm cao, phức tạp, nguy hiểm cho xã hội nên đã được một số nhà luật học trong nước quan tâm nghiên cứu. Đáng chú ý là cuốn sách của GS.TS Võ Khánh Vinh về “Tìm hiểu trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về chức vụ”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994 hay của ThS.Đinh Văn Quế về “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 (Phần các tội phạm)”, tập V – “Các tội phạm về chức vụ”, Nxb. TP.HCM, năm 2002, tái bản năm 2010; luận án tiến sỹ luật học với đề tài “Các tội phạm về tham nhũng theo pháp luật hình sự Việt Nam” của tác giả Trần Văn Đạt, Học viện Khoa học Xã hội, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, 2012. Đối với cấp độ Luận văn Cao học Luật, có luận văn thạc sỹ luật chuyên ngành Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm với đề tài “Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa” của tác giả Nguyễn Thị Mai Chi, Học viện Khoa học Xã hội, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, 2016; luận văn thạc sỹ luật học đề cập đến một tội trong nhóm tội phạm tham nhũng với đề tài: “Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Tạ Thu Thủy, Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009. Như vậy, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể, đầy đủ và toàn diện Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ trong luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh. Do đó, việc tác giả lựa chọn đề tài này rõ ràng đáp ứng tính thời sự và cấp thiết. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1 Mục đích nghiên cứu Làm rõ khái niệm, đặc điểm pháp lý và nhất là các vấn đề về định tội danh, quyết định hình phạt đối với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ từ thực tiễn TP.HCM, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp, 3 kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật đối với tội phạm nói trên tại địa bàn TP.HCM. 3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài cần tập trung giải quyết những nhiệm vụ cụ thể sau: Một là, làm rõ những vấn đề lý luận và pháp lý về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ theo pháp luật hình sự Việt Nam. Hai là, làm rõ thực trạng áp dụng pháp luật đối với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ từ thực tiễn TP.HCM, nêu ra những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật hình sự về tội phạm nói trên. Ba là, đề xuất các giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tượng nghiên cứu Luận văn lấy các quan điểm khoa học pháp lý hình sự, những quy định pháp luật hình sự, thực tiễn áp dụng pháp luật về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ trên địa bàn TP.HCM để nghiên cứu các vấn đề thuộc nội dung của luận văn. 4.2 Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của Luận văn là những vấn đề lý luận chung về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, thực tiễn áp dụng pháp luật, các vấn đề liên quan đến việc định tội danh, trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với tội phạm này trên địa bàn TP.HCM thông qua việc phân tích, đánh giá thực tiễn xét xử trong 05 năm gần đây (từ năm 2012 đến năm 2016). 4 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1 Phương pháp luận Cơ sở phương pháp luận của luận văn là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh; Các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và chính sách hình sự trong việc điều tra, truy tố, xét xử. 5.2 Phương pháp nghiên cứu Luận văn áp dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp quy nạp và diễn dịch; so sánh; thống kê. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1 Ý nghĩa khoa học Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ; nâng cao hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử; góp một phần nhỏ trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật. 6.2 Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cán bộ hoạt động trong các cơ quan tư pháp và bổ trợ tư pháp, đồng thời có thể sử dụng cho việc tìm hiểu, nghiên cứu, giảng dạy. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 03 chương với tên gọi như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ 5 Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ tại Thành phố Hồ Chí Minh Chương 3: Những giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ. 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI LỢI DỤNG CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN TRONG KHI THI HÀNH CÔNG VỤ 1.1 Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ. 1.1.1 Khái niệm Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ thuộc nhóm tội tham nhũng. Cũng như tình hình tội phạm nói chung tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn là một hiện tượng tiêu cực của xã hội, có tính lịch sử và phổ biến. Đây là một hiện tượng xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ xuất hiện khi một số người sử dụng quyền lực được giao làm trái quy định nhằm để thỏa mãn lòng tham, tính vụ lợi của mình mà gây thiệt hại cho một số chủ thể khác, rộng hơn là cả toàn xã hội. Tuy chưa được nghiên cứu một cách toàn diện và sâu rộng nhưng chung quy lại mục tiêu để nghiên cứu tội phạm nói trên là nhận diện ra hiện tượng tiêu cực, từ đó tìm ra được những giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn, khắc phục và hạn chế được tình hình tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ nói riêng. Để hiểu rõ khái niệm về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi hành công vụ, trước hết cần làm rõ một số thuật ngữ như: “lợi dụng”, “chức vụ”, “quyền hạn”, “công vụ”. Thuật ngữ “lợi dụng” theo Từ điển Hán Việt được hiểu là dựa vào điều kiện thuận lợi nào đó để làm việc gì (sẽ dễ thành công); “Chức vụ: việc trong chức phận mình phải làm”; “quyền hạn: giới hạn của quyền lực hoặc quyền lợi” và “Công vụ: chức việc của nhà quan” [33]. Trong các thuật ngữ này thì thuật ngữ “công vụ” chính là thuật ngữ khó đạt được sự đồng thuận nhất. Tuy nhiên, về cơ bản thì đa số các quan điểm khoa học đều thống nhất rằng công 7 vụ là hoạt động lực mang tính quyền lực – pháp lý được thực thi bởi đội ngũ cán bộ, công chức hoặc những người được nhà nước trao quyền nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, phục vụ nhân dân. Công vụ là một loại hoạt động nhân danh quyền lực nhà nước. Nói đến công vụ là nói đến trách nhiệm của cán bộ, công chức trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ nhằm mục tiêu phục vụ người dân và xã hội. Do đó, khái niệm chuẩn xác nhất trong trường hợp này cần phải được hiểu và được xây dựng trên nền tảng khoa học pháp lý. Hoạt động công vụ theo Điều 2 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 “là việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức theo quy định của luật này và các quy định khác có liên quan”. Cán bộ, công chức khi tham gia hoạt động công vụ phải tuân thủ các nghĩa vụ và có trách nhiệm thực hiện đúng quyền hạn được giao. Thông thường thì nghĩa vụ và quyền hạn này được quy định trong các văn bản pháp luật. Trong lĩnh vực hình sự thì pháp luật quy định chỉ có những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong luật hình sự đang có hiệu lực tại thời điểm xảy ra hành vi và thời điểm xem xét, xử lý hành vi đó mới được coi là tội phạm. Theo Điều 277 Bộ luật hình sự, thì các tội phạm về chức vụ là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức do người có chức vụ thực hiện trong khi thực hiện công vụ. Việc đưa ra một khái niệm về các tội phạm về chức vụ thật chính xác, thật đặc trưng cho loại tội phạm này về lý luận và thực tiễn vẫn còn nhiều vấn đề phải tiếp tục nghiên cứu và đương nhiên còn nhiều ý kiến khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta cũng không nên quá câu nệ vào khái niệm hay định nghĩa về loại tội phạm này, vì khi đã có luật thì trước hết mọi cơ quan, tổ chức và mọi người phải tuân theo pháp luật. Kết hợp các thuật ngữ nêu trên thành một khái niệm cụ thể, căn cứ vào quy định pháp luật hiện hành có thể xây dựng khái niệm “Lợi dụng chức vụ, 8 quyền hạn trong khi thi hành công vụ để phạm tội” là hành vi vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Người có khả năng thực hiện hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi chỉ có thể là cán bộ, công chức có chức vụ, quyền hạn nhất định. Khi thi hành nhiệm vụ, công vụ, họ đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để cố ý làm trái công vụ nhằm vụ lợi. Tính chất vụ lợi cũng có thể biểu hiện ở những động cơ cá nhân khác, như mong muốn củng cố địa vị, uy tín, vật chất hoặc quyền lực cá nhân. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ là tội phạm chỉ được quy định từ khi Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành. Trước khi Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành, hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ chỉ được coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Ví dụ: khoản 4 Điều 19 Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng ngày 13-10-1967 quy định việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn để hoạt động phản cách mạng là trường hợp cần xử phạt nặng; bản tổng kết ngày 10-8-1970 của Toà án nhân dân tối cao về thực tiễn xét xử loại tội giết người cũng xác định lợi việc dụng chức vụ, quyền hạn để giết người là tình tiết tăng nặng. Bộ luật hình sự năm 1985 quy định hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn và hành vi lạm quyền trong khi thi hành công vụ đều tại một điều luật (Điều 221). Tuy nhiên, do chưa có thực tiễn xét xử nhiều loại tội phạm này, nên lúc đầu Điều 221 chỉ quy định một khung hình phạt, không quy định các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt. Đến năm 1991, do yêu cầu đấu tranh với loại tội phạm này, nên từ năm 1991 đến năm 1997, Quốc hội liên tục sửa đổi bổ sung Điều 221 vào các ngày 12-8-1991, ngày 22-12-1992 và ngày 10-5-1997 Quốc hội đã ban hành các luật sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự theo hướng tách hành vi lạm quyền 9 trong khi thi hành công vụ ra thành điều luật riêng (Điều 221a); cấu tạo lại thành nhiều khoản khác nhau; mức hình phạt cũng nghiêm khắc hơn nhiều so với Điều 221 chưa sửa đổi, bổ sung. (nếu mức hình phạt cao nhất quy định tại Điều 221 lúc đầu là năm năm tù thì sau khi sửa đổ, bổ sung lần thứ 3 vào ngày 10-5-1997, mức cao nhất đối với tội phạm này là hai mươi năm tù). Trong Bộ luật hình sự 1999, Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ cũng là một tội phạm độc lập được quy định tại Điều 281 (được sửa đổi bổ sung năm 2009). Cụ thể là: Điều 281. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ 1. Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười năm: a) Có tổ chức; b) Phạm tội nhiều lần; c) Gây hậu quả nghiêm trọng. 3. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ mười năm đến mười lăm năm. 4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm, có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng. Bộ luật hình sự được sửa đổi, bổ sung năm 2015 đã quy định tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ tại Điều 356 khác với quy định tại Điều 281 Bộ luật hình sự hiện hành. Điều 356 của Bộ luật hình sự 2015 đã cụ thể hóa định lượng thiệt hại về tài sản, theo đó, gây thiệt hại về 10 tài sản từ 10.000.000 đồng trở lên mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này. Từ sự phân tích trên và theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi bổ sung năm 2010) có thể đưa ra khái niệm Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ như sau: Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện một cách cố ý trái với công vụ được giao vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. 1.1.2 Các dấu hiệu pháp lý Xuất phát từ khái nệm nêu trên, có thể thấy tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ có các dấu hiệu pháp lý sau: 1.1.2.1 Khách thể của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ Khách thể của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ là hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức; làm cho cơ quan, tổ chức bị suy yếu, mất uy tín, mất lòng tin của nhân dân đối với cơ quan Nhà nước. Mặc dù tội phạm này gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền lợi ích hợp pháp của công dân nhưng không vì thế mà cho rằng khách thể của tội phạm này những thiệt hại thực tế xảy ra của Nhà nước, của xã hội, quyền lợi ích hợp pháp của công dân, mà những thiệt hại đó chỉ là hậu quả của hành vi phạm tội. 1.1.2.2 Mặt khách quan của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ Đối với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, các dấu hiệu thuộc mặt khách quan cũng là những dấu hiệu rất quan trọng để xác 11 định hành vi phạm tội cũng như để phân biệt tội phạm này với các tội phạm khác có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn. a. Hành vi khách quan Trước hết, người phạm tội phải là người có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình. Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ cũng tương tự như hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn của người phạm tội tham ô, tội nhận hối lộ và các tội phạm khác có việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn và đã sử dụng chức vụ, quyền hạn đó một cách trái phép nhằm mục đích mà họ đặt ra. Nếu không sử dụng chức vụ, quyền hạn mà mình có thì không thể đạt được mục đích của mình. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ để gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của tổ chức xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân là do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện và hành vi gây thiệt hại đó có liên quan trực tiếp đến chức vụ, quyền hạn của người phạm tội và nếu họ không có chức vụ, quyền hạn đó thì họ khó có thể thực hiện được hành vi gây thiệt hại; chức vụ, quyền hạn là điều kiện thuận lợi để người phạm tội thực hiện hành vi gây thiệt hại một cách dễ dàng. Vì vậy, khi xác định một người có lợi dụng chức vụ, quyền hạn hay không, trước hết phải căn cứ vào chức vụ họ đang giữ và theo pháp luật thì họ có những quyền gì? Nếu trong khi thi hành công vụ họ đã thực hiện vượt quá giới hạn cho phép là lạm dụng chức vụ, quyền hạn, mà không phải là lợi dụng chức vụ, quyền hạn. Đây là dấu hiệu cơ bản để phân biệt giữa hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn với hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn trong nhiều tội phạm có dấu hiệu lợi dụng chức vụ, quyền hạn và lạm dụng chức vụ, quyền hạn. b. Hậu quả 12 Người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn phải gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của tổ chức xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Nếu không gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của tổ chức xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân mà nhằm mục đích khác, thì tuỳ trường hợp mà người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ theo Điều 282 Bộ luật hình sự; tội nhận hối lộ theo điểm b khoản 2 Điều 279 Bộ luật hình sự; tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác theo Điều 280 Bộ luật hình sự, hoặc tội tha trái pháp luật người đang bị tạm giam, giữ theo Điều 302 Bộ luật hình sự… Khác với các tội phạm khác, hậu quả của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của tổ chức xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, hậu quả lại là dấu hiệu bắt buộc. Nếu hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chưa gây thiệt hại thì chưa cấu thành tội phạm này. Ngoài thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của tổ chức xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm thì còn có những hậu quả khác không phải lại dấu hiệu bắt buộc nhưng trong một số trường hợp nó là yếu tố định khung hình phạt như: hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Trong đó có những thiệt hại vật chất, có thiệt hại phi vật chất. Ví dụ, Điều 356 Bộ luật hình sự 2015 đã định lượng thiệt hại về tài sản: từ 20.000.000 đồng đến dưới 1 tỷ đồng là thiệt hại nghiêm trọng, từ 1 tỷ đồng trở lên là rất nghiêm trọng,… 1.1.2.3 Chủ thể của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ Đối với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm là các dấu hiệu rất quan trọng để xác định hành vi phạm tội; là dấu hiệu phân biệt sự khác nhau giữa tội lợi dụng 13 chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ với các tội phạm khác. Cũng như chủ thể của các tội phạm khác, chủ thể của tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ cũng phải đảm bảo các yếu tố (điều kiện) cần và đủ như: độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại các Điều 12, 13 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, đối với tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, chỉ những người sau đây mới có thể là chủ thể của tội phạm này: Trước hết, người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ phải là người có chức vụ, quyền hạn. Người có chức vụ, quyền hạn là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ. Theo Luật cán bộ, công chức năm 2008 thì cán bộ, công chức bao gồm: - Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. - Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan