Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tội che giấu tội phạm một số khía cạnh pháp lý hình sự và tội phạm học...

Tài liệu Tội che giấu tội phạm một số khía cạnh pháp lý hình sự và tội phạm học

.PDF
123
23
81

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN XUÂN HÀ TỘI CHE GIẤU TỘI PHẠM: MỘT s ố KHÍA CẠNH PHÁP LÝ HÌNH S ự VÀ TỘI PHẠM HỌC » • t t A \ CHUYÊN NGÀNH: LlíẬT HÌNH s ự MÃ SỐ: 60 38 40 LUẬN VÃN THẠC s ĩ LUẬT HỌC • • ■ •〕AI H O C Q U Ồ C G IA H A N O , Vz L O / K _ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẤN QUANG TIỆP HẢ NỘI - NĂM 2006 ! LỜI CAM ĐOAN T ôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong Luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của Luận văn chưa từng được a i công b ố trong bất kỳ công trìn h nào khác. Nguyễn Xuân Hà MỤC LỤC Trang M ỏ ĐẦU 5 Chương I. TỘI CHE GIẤU TÔI PHẠM TRONG LUẬT HÌNH s ự 10 VIỆT N AM V À MỘT s ố NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI 1.1. Khái lược sự hình thành và phát triển những quy định về 10 1.1.1. Giai đoạn từ thời kỳ nhà Lẻ cho đến trước Cách mạng 10 tội che giấu tội phạm trong luật hình sự Việt Nam tháng Tám nảm 1945 1.1.2. Giai đoạn từ khi Cách mạng tháng Tám nãm 1945 thành 18 công cho đến trước khi Bộ luật hình sự 1985 ra đời 1.1.3. Giai đoạn từ khi Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời cho 21 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 1.1.4. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 23 cho đến nay 1.2. Tội che giấu tội phạm trong Bộ luật hình sự năm 1999 1.2.1. Khái niệm tội che giấu tội phạm 1.2.2. Những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng củatội che 25 25 28 giấu tội phạm và hình phạt được áp dụng đối với người phạm tội 1.3. Những quy định về tội che giấu tội phạm trong pháp luật 37 hình sự một số nước trên thế giới Chương 2. TÌN H HÌNH, NGUYÊN NHÂN V À ĐIỀU KIỆN CỦA 44 TỘI CHE GIẤU TỘI PHẠM 2.1. Tình hình tội che giấu tội phạm 44 2.1.1. Tinh trạng, động thái của tội che giấu tội phạm 46 2.1.2. Nhân thân người phạm tội che giấu tội phạm 57 2.2. Nguyên nhân, điều kiện của tội che giấu tội phạm 3 62 2.2.1. Những nguyên nhủn, điéu kiện thuộc về bán thân chú 64 thể của tội pham 2.2.2. Những nguyên nhân, điều kiện thuộc vé cơ chế, chính 69 sách, pháp luật trong đấu tranh phòng, chống tội phạm 2.2.3. Những nguyên nhàn, điếu kiện thuộc về tồn tại, hạn chế 74 trong hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm của các cơ quan bảo vệ pháp luật 2.3. Dự báo tình hình tội che giấu tội phạm thời gian tới Chương 3. QUAN ĐDẾiM v à g i ả i p h á p đ ấ u t r a n h p h ò n g , 77 83 CHỐNG TỘI CHE GIẤU TỘI PHẠM 3.1. Những quan điểm của Đảng và Nhà nước cần quán triệ t 83 trong đấu tranh phòng, chống tội che giấu tội phạm 3.2. M ột số giải pháp nàng cao hiệu quả đấu tranh phòng, 88 chống tội che giấu tội phạm 3.2.1. Hòan thiện những quy định pháp luật làm cơ sở pháp lý 89 đấu tranh phòng, chống tội che giấu tội phạm 3.2.2. Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan bảo vệ 94 pháp luật: Công an, Viện kiểm sát, Tòa án và Tư pháp 3.2.3. Tăng cường hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục 110 pháp luật, nâng cao ý thức trách nhiệm của mọi cán bộ và quần chúng nhân dân trong đấu tranh phòng, chống tội che giấu tội phạm 3.2.4. Tăng cường hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, 114 chống tội che giấu tội phạm 118 KẾT LUẬN DANH MỤC T À I LEỆƯ TH AM KHẢO 4 121 M Ớ ĐẨU 1. T ín h cấp thiết của đề tài Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo đúng đần của Đảng và Nhà nước, đất nước ta đã vượt qua nhiều khó khản, thách thức và đạt được nhiêu thành tựu quan trọng trong quá trình thực hiện Chiến lược 10 năm phát triển kinh tế-xã hội. Nển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng bước đầu đã phát huy được tính tích cực, thu nhập quốc dân tiếp trẻn đà tăng trưởng mạnh, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tiềm lực kinh tế, cơ sờ vật chất kỹ thuật được tăng cường đáng kể; khả năng nội lực, tính độc ỉập tự chủ trong phát triển kinh tế được phát hay, đẩy mạnh. Đời sống văn hóa-xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt, cuộc sống của nhân dân được cải thiện cả vể vật chất lẫn tinh thần; nhiểu chính sách xã hội như: chương trình xóa đói, giảm nghèo, tạo công ăn việc làm cho người lao động...được thực hiện và đạt kết quả nổi bật. Thế và lực của đất nước vững mạnh thêm, hội nhập kinh tế quốc tế, đối ngoại phát triển và có những bước tiến mới rất quan trọng, vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng lên rõ rệt. Tuy nhiên, những thành tựu đã đạt được trong thời gian qua còn dưới mức khả nâng phát triển của đất nước, hoạt động kinh tế一xã hội còn nhiều yếu kém, bất cập. Bên cạnh đó, tình hình an ninh trật tự xã hội còn có những diễn biến phức tạp, tội phạm tiếp tục xuất hiện và xảy ra nhiểu trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó tình hình tội che giấu tội phạm đã và đang diễn ra, gây cản trở không nhỏ đến hoạt động phát hiện, điểu tra, truy tố, xét xử các loại tội phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng đã trở thành mối quan tâm, lo ngại của toàn xã hội. Tội che giấu tội phạm không những xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan tiến hành tố tụng, gây khó khăn cho cồng tác phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử nhằm xử [ý người phạm tội và tội phạm, mà còn có ảnh hưởng xấu, xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội. Những hành vi che giấu tội phạm đã gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng cho xã hội, khiến cho các hoạt động tố tụng giâi quyết vụ ấn hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng bị cản trở, dẫn tới sai lệch, không đáp ứng được đúng các thời hạn tố tụns theo quy định của pháp luật, ảnh hưởng đến việc giữ chuẩn mực cán cân công lý, làm mất uy tín cua Đàng và Nhà nước ta. Thực ĩiễn điểu tra, truy tố, xét xử trong những năm qua cho thấy, một số khòng ít những cá nhàn trong xã hội không những không làm tròn nghĩa vụ của công dân, thực hiện đấu tranh phòng, chống tội phạm, mà trái lại có hành vi che giấu, chứa chấp, nuôi dưỡng, cung cấp các điều kiện vật chất cho người phạm tội để họ trốn tránh khỏi sự phát hiện của các cơ quan chức năng. Thậm chí, một số người là cán bộ, công chức trong cơ quan nhà nước, cơ quan tư pháp đã có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để cản trở việc phát hiện, điểu tra, xử lý người phạm tội, dùng quyền hành khống chế người phát hiện tội phạm, không chịu cung cấp tài liệu có liên quan đến vụ án hình sự, gây khó khăn cho hoạt động xử lý người phạm tội. Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội che giấu tội phạm cũng đã đặt ra nhiểu vấn để vướng mắc, đòi hỏi khoa học pháp lý phải nghiên cứu, giải quyết như khái niệm, những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của tội che giấu tội phạm, nguyên nhân, điều kiện và các giải pháp đấu tranh phòng, chống tội che giấu tội phạm..-.Về mặt lý luận, xung quanh vấn để đấu tranh phòng, chống tội che giấu tội phạm, còn nhiểu quan điểm khác nhau cần phải được nghiên cứu để phục vụ các yêu cầu của thực tiễn. Với các lý do nẻu trên, việc nghiên cứu để tài: “ Tội che giấu tội phạm: một số khía cạnh pháp lý hình sự và tội phạm học” là vấn để mang tính cấp thiết, không những nhằm phục vụ yêu cầu nghiên cứu vể mặt lý luận, mà còn là để đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội che giấu tội phạm trong tình hình hiện nay. 2. T in h hình nghiẻn cứu đề tài Từ trước đến nay, tội che giấu tội phạm mạc dù ít được các nhà luật học quan tâm, nghiên cứu sâu, nhưng ở bình diện chung đã được đề cập trong một số sách báo pháp lý như: Bình luận khoa học Bộ luật hình sự của Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà N ộ i-1987,tái bản 6 nam 1992,1997); ThS. Phạm Thanh Bình và TS. Nguyễn Vạn Nguyên có công trình "Cúc tội xám phạm hoạt dộng n (p h á p " (Nhà xuất bàn Chính trị quốc gia, Hà N ộ i-1997); Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa Luật,Đại học quốc gia Hà Nội (Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà N ộ i-1997); Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Tập I I của Trường Đại học Luật Hà Nội (Nhà xuất bản Công an nhân dân,Hà Nộ卜 1998); Giáo trình luật hỉnh sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội (Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội2000); Bỉnh luận khoa học Bộ luật hình sự năm ỉ 999 (Phần các tội phạm) của tập thể tác giả: TS. Phùng Thế Vắc, TS. Trần Van Luyện, LS. ThS. Phạm Thanh Bình, TS. Nguyễn Đức Mai, ThS. Nguyễn Sĩ Đại, ThS. Nguyễn Mai Bộ (Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội-2001); PGS. TS. Nguyễn Xuân Yêm có công trình “ Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tộ i p h ạ m ” (Nhà xuất bản Cống an nhàn dân, Hà Nội-2001); Giáo trình luật hình sự Việt Nam ị Phần các tội phạm) của Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội (Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội-2002); tác giả Thái Văn Đoàn có bài viết: "M ộ t số bất hợp lý trong các quy định về tộ i che giấu tội phạm và tội không tố giác tộ i phạm” (Tạp chí Tòa án nhân dân tháng 10-2005,số 19)….Các công trình này ít nhiều đã đề cập đến tội che giấu tội phạm, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về tội che giấu tội phạm dưới hai góc độ: pháp lý hình sự và tội phạm học. 3- M ục đích, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi nghỉẻn cứu của luận văn Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Mục đích của luận văn là trên cơ sở lý luận và thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội che giấu tội phạm, để xuất hệ thống những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm này ờ nước ta. Để đạt được mục đích trên, tác giả đạt ra và giải quyết các nhiệm vụ sau: - Phân tích, làm rõ lịch sử hình thành và phát triển những quy định vể tội che giấu tội phạm trong luật hình sự Việt Nam. - Làm sáng tỏ khái niệm, các dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của tội 7 che giấu tội phạm trong Bộ luật hình sự nảm 1999; phân tích các quy định của pháp luật hình sự một số nước trên thế giới về tội phạm này. - Phân tích, đánh giá đúng thực trạng tình hình tội che giấu tội phạm, nguyên nhân của thực trạng đó; dự báo tình hình tội che giấu tội phạm trong thời gian tới ở nước ta. - Để xuất hê thống các giải pháp nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tội che giấu tội phạm. Đ ối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Luận văn nghiên cứu tội che giấu tội phạm dưới hai góc độ: pháp lý hình sự và tội phạm học ở Việt Nam, trong thời gian từ nảm 1997 đến năm 2005. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa MácLênin,tư tưởng Hổ Chí M inh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây đựng Nhà nước pháp quyển xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân và đấu tranh phòng, chống tội phạm; những thành tựu của các khoa học: triết học, tội phạm học, luật hình sự, tâm lý xã hội, xã hội học… Cơ sở thực tiễn của luận văn là những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án vé tội che giấu tội phạm; số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các cơ quan chức nâng khác vể tội phạm này. Phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong khi thực hiện để tài, tác giả sử dụng các phương pháp: phân tích, tổng hợp, quy nạp, diễn giải, hệ thống, lịch sử,lồgíc, thống kê và k ế t hợp v ớ i các p h ư ơ n g pháp kh á c n h ư so sánh, đ iể u tra x ã h ộ i… 5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý Việt Nam ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học, nghiên cứu một cách tương đối toàn diện và có hệ thống về tội che giấu tội phạm dưới hai góc độ: pháp lý hình sự và tội phạm học. Có thể xem những nội dung sau đây là nhữìig đóng góp mới về khoa học của luận văn: 8 - Phần tích, làm rõ lịch sử hình thành và phát triển những quy định vé tội che giấu tội phạm trong luật hình sự Việt Nam. - Làm sáng tỏ những vấn để lý luận chung về tội che giấu tội phạm; những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của tội che giấu tội phạm trong pháp luật hình sự hiện hành. - Phân tích, đánh giá những quy đinh vé tội che giấu tội phạm trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới nhằm rút ra những kinh nghiệm, giá trị hợp iý về lập pháp hình sự vể tội che giấu tội phạm nhằm áp dụng có chọn iọc và điều kiện cụ thể của nước ta. - Đánh giá đúng thực trạng tình hình tội che giấu tội phạm ở Việt Nam, phân tích, làm rỗ nguyên nhân và điểu kiện của thực trạng đó. - Để xuất hệ thống các giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội che giấu tội phạm. 6* Ý nghĩa của luận văn Luận văn là cồng trình nghiên cứu vừa có ý nghĩa về mật lý luận, vừa có ý nghĩa về mặt thực tiễn. Nhung kết luận về tình hình, nguyên nhân, điều kiện của tội che giấu tội phạm và kiến nghị của tác giả trong luận văn về các giải pháp đồng bộ đấu tranh phòng, chống loại tội này có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội che giấu tội phạm ở nước ta. Thông qua kết quả nghiên cứu và các đề xuất trong luận văn,tác giả mong muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình vào việc tổng kết, phát triển lý luận vể đấu tranh phòng, chống tội che giấu tội phạm. Luận văn có thể được sử đụng làm tài liệu tham khảo cho cồng tác nghiên cứu, giảng dạy vể khoa học luật hình sự, tội phạm học nói chung vẻ tội che giấu tội phạm nói riêng và cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại cơ quan Công an, Viện lciểm sát, Tòa án. 7. Kết cấu của luận vãn Luận văn gồm 123 trang. Ngoài phần M ở đầu, Kết luận và Đanh mục tài liệu tham khảo, Luận văn có 3 chương, 8 mục. 9 Chương I T Ộ, I CHE G IẤ U T Ộ4 I PH ẠM TRONG L U Ậ備T H ÌN H s ự攀 V籲IỆ T N A M ■ VÀ M Ộ T SỐ NƯỚC TRÊN T H Ế G IỚ I LI. KHÁI LƯỢC Sự HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHỮNG QUY ĐỊNH VỂ TỘI CHE GIẤU TỘI PHẠM TRONG LUẬT HÌNH sự VIỆT NAM Trải qua hàng nghìn năm đựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã đạt được nhiểa thành tựu quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện một Nhà nước độc lập, tự chủ với một nền pháp luật đầy tính sáng tạo, phù hợp với điểu kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước trong từng giai đoạn lịch sử. Cùng với quá trình phát triển của đất nước, lịch sử luật hình sự Việt Nam đã trải qua một chặng đường dài từ khi bắt đầu hình thành nhà nước đầu tiên-Nhà nước Wãn Lang-thời kỳ Hùng Vương, chúng ta đã có luật pháp, lần lượt qua các thời kỳ dưới các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Lê ,Nguyễn,...luật hình sự nước ta ngày càng được củng cố, phát triển và hoàn thiên cho tới ngày nay. Do còn rất ít tài liệu được lưu trữ, để lại, nên việc nghiên cứu lịch sử các quy định của pháp luật hình sự Việt nam nói chung, những quy định về tội che giấu tội phạm nói riêng dưới các triều đại thời kỳ phong kiến gập rất nhiều khó khãn,hạn chế, Do vậy, trong phạm vi luận văn, chúng tôi chỉ cố gắng đề câp tới lịch sử hình thành và phát triển những quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội che giấu tội phạm trong nhũng giai đoạn mà kỹ thuật lập pháp hình sự nước nhà đạt trình độ phát triển nổi bật nhất thời kỳ này. Tiêu biểu là Quốc triều hình luật (Bộ ỉuật Hổng Đức) dưới thời nhà Lê và Hoàng Việt ỉuật lệ dưới thời nhà Nguyễn là hai bộ luật thể hiện rõ nhất những thành tựu và kinh nghiệm đáng chú ý trong lập pháp hình sự của dân tộc qua các bước thăng trầm của lịch sứ. L l . l . Giai đoạn từ thời kỳ nhà Lê cho đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 Ị . Ỉ . Ỉ . L Thời kỳ nhà Lê Ngay từ thế kỷ X V ,nước ta đã có Quốc triẻu hình iuật (Bộ luật Hổng 10 Đức) dược các quan đại thần đời Lê Thánh Tông biên soạn công phu, áp dụng vào công quyền Việt Nam suốt mấy thế ký. Bộ luật đã trở thành một khuôn mảu cho cổ luật Việt Nam trong suốt mấy trảm năm và làm rạng danh cho nền vân hiến Việt Nam. Từ nảm 1418,cuộc kháng chiến của nhân dân ta do Lê Lợi lãnh đạo với sự giúp sức của người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi chống quân xâm lược nhà Minh đã giành nhiều thắng lợi và cho đến năm 1428,đã đánh đuổi được quân xàm lược, giành lại độc iập cho đất nước. Từ khi lẻn nắm quyền, hoạt động xây dựng pháp luật nói chung, pháp luật hình sự nói riêng đã được nhà Lê quan tâm, chú trọng. Thành công nhất, đời vua Lê Thánh Tông đã ban hành Quốc triều hình luật (Bộ luật Hổng Đức) nổi tiếng vào năm 1483,được chia làm 6 quyển với 13 chương, bao gồm 722 điều [32, tr. 27-29]. Tội che giấu tội phạm được đề cập trong luật hình sự Việt Nam ngay từ thời kỳ này, Tại Điều 298,Chương Hộ hôn của Quốc triều hình luật (Bộ luật Hổng Đức) quy định: Những trấn, trường, châu, huyện, sách, thôn và trang không được chứa chấp, che giấu những quản dân các lộ khác đến trốn tránh dù là do việc công mà đến (xong việc rói, còn dùng dằng ờ lại quá 20 ngày là trốn tránh) trái luật này thì bất tội quan cai quản địa phương ấy; dân từ 1 người đến 5 người thì xử tội biếm hay đồ, 6 người đến 10 người, thì xử tội lưu, 15 người trờ lẽn thì tội cũng chỉ đến lưu đi châu xa; quàn từ 3 người trờ lên thì xử tội đổ, 5 người trở lên thì xử tội lưu, 10 người trở lên thì tội cũng chỉ đến lưu đi châu xa. Dung nhận kẻ có tội trốn tránh, thì phải thêm tội một bậc, và truy thu tiển khoá dịch nộp vào kho. Còn người lưu ngụ ở nơi khác đến, thì các trấn qưan (tướng, suý và quan văn) phải nã bắt và giao về bản quán hay bản quàn để chịu sai dịch. Nếu trấn quan không đốc xét truy bắt trong trấn có nhiều kẻ phạm tội ẩn nấp, thì xử tội biếm hay bãi chức [33, tr. 117118]. Điểu 301 Chương Hộ hôn của Bộ luật còn quy định : “ Các chùa quán và 11 nhà dân, có sư,đạo sỹ hay người làng khác đến trú ngụ, quá 5 ngày mà không trình với xã quan, thì xử biếm một tư;ké trú ngụ quá 3 tháng không (Ji, mà xă quan che giấu, không làm giấy trình để huyện quan xét xử, thì xử tội biếm hay tội đó” [33, tr. 118]. Đặc biệt, Điểu 373 Chương Điền sản của Bộ luật quy định và đổng nhất che giấu tội phạm với không tố giác tội phạm trong trường hợp quan lại biết mà không tố giác: Những người cày ruộng đất công mà khai dối ià cày cấy cho quan ty, để mong tránh đóng thuế, thì xử tội theo luật chiếm ruộng đất công. Quan ty dung túng thì cũng đổng tội; không biếc thì không xử tội. Xã quan biết mà không tố giác thì xử tội giấu giếm; khổng biết thì được giảm 2 bậc; quan lộ huyện vồ tình không biết thì xử tội biếm [33 , tr. 137]. Nhưng đáng chú ý,Điểu 429 Chương Đạo tặc của Bộ luật đã phản biệt tính chất mức độ nặng, nhẹ giữa không tố giác tội phạm với che giấu tội phạm, theo đó người che giấu tội phạm bị xử lý nặng hơn gấp hai lẩn người không tố giác tội phạm: Kẻ ăn trộm mới phạm lần đầu, thì phải lưu đi châu xa. Kẻ trộm đã có tiếng và kẻ trộm tái phạm, thì phải tội chém. Giữa ban ngày ản cắp vật cũng xử tội đổ, đã lấy được của, thì phải bổi thường tang vật. Những kẻ chứa chấp, thì đều bị nhẹ hơn một bậc và bất bổi thường một phần ba tang vật. Kẻ biết việc mà không cáo giác thì bị nhẹ tội hơn hai bậc [33 ,tr. 159】 . Mặc dù Bộ luật Hổng Đức chưa đưa ra được luận cứ cho việc phải xử nặng hành vi che giấu tội phạm so với hành vi không tố giác tội phạm, nhưng quy định trên trong Bộ luật này rất đáng được chúng ta nghiên cứu, có thể tiếp thu áp dụng trong điểu kiện hiện nay ờ nước ta. Như vậy, tội che giấu tội phạm đã được đề cập đến trong Bộ luật Hổng Đức, mặc dù chưa có được một khái niệm pháp lý rõ ràng vé che giấu tội phạm cũng như chưa có một điểu luật cụ thể quy định về tội che giấu tội phạm để áp 12 dụng xử lý chung, mà mới chi là những quy định rái rác ờ một số điểu luật vé một số trường hợp phạm tội cỏ các hành vi che giấu, giấu giếm. Tuy nhiên, những quy định này cũng đã tương đối cụ thể, chi tiết, có sự biến hóa, kết hợp uyển chuyển, lúc nào hành vi đó bị xử lý vé tội không tố giác, lúc nào thì hành vi đó bị xử lý vé che giấu tội phạm: đặc biệt là đã có sự phản hoá nặng, nhẹ giữa che giấu tội phạm và không tố giác tội phạm, từ đó quy định xử lý che giấu tội phạm nặng hơn gấp hai lần không tố giác tội phạm. Điều đó đã thể hiện sự khá hoàn chỉnh trong các quy định pháp luật hình sự nói chung, các quy định về che giấu tội phạm nói riêng thời kỳ nhà Lẻ, phản ánh được những đặc điểm của xã hội đương thời; đổng thời cũng thể hiện trình độ lập pháp hình sự đầy sáng tạo của cha ông ta thời kỳ này. ỉ . 1.12. Thời kỳ nhà Nguyễn Sau khi đánh bại triểu đại Tây Sơn, năm 1802 Nguyễn Ánh lẻn ngôi vua, lấy hiệu Gia Long, ổng giao cho Tiền quản Bắc thành Tổng trấn Nguyễn Vãn Thành (1757-1817) là Tổng tài cùng hai vị: Vũ Trinh (1769-1828) và Trần Hựu trực tiếp soạn thảo Bộ Hoàng Viêt luật lệ. Bộ luật được biên soạn trong một thời gian dài, đến nám 1811 thì hoàn tất và nàm 1812 được khắc in lần đầu ờ Trung Quốc rồi cho áp dụng vào nảm 1813 trên phạm vi toàn quốc. Hoàng Việt luật lệ, hay còn gọi là Bộ luật Gia Long là một trong những bộ luật lớn nhất của chế độ phong kiến Việt Nam. Có thể nói, đây là một bộ luật đầy đủ và hoàn chinh nhất của nén cổ luật V iệt Nam, gồm hai phần, 22 quyển với 398 điểu [31, tr. V IIIXI]. Tại Điều 15 Quyển 2- Danh lệ phần thượng của Bộ luật quy định về tội không được tha, trong đó có đoạn: Cướp người, buôn người, dụ dỗ quyến rũ người, nếu dính líu đến việc tội ác, tuyên truyền lờ i sai đạo lí, xúi xiển giết người, cố ý thèm bớt tội nhân, nếu biết sự việc mà cố tình dung túng, cho phép giấu giếm phạm nhân, chí cách họ trốn đi, vì họ ỉàm trung gian tiền, những loại ấy đểu là thực phạm (đều cố tâm phạm cả) dù gặp ân xá cũng không được tha [31, tr. 128-131]. 13 Như vậy,trong Bộ luật này quy định đối với những hành vi biết sự việc mà cố che giấu, dung túng, nghe lời mà giấu để đưa đi trốn vì là trung gian nhận tién, bị coi là chính phạm, cũng nguy hiểm như các tội thập ác,giết người..., phải xử lý nghiêm minh, không được àn xá. Quy định này như là một nguyên tắc của Bộ luật trong việc xử lý, áp dụng hình phạt đối với loại tội phạm này, chể hiên sự nghiêm khắc trừng trị của pháp luật hình sự thời kỳ này đối với những người có hành vi che giấu tội phạm trong những trường hợp mà Bộ luật có quy định. Tại Điều 31 Quyển 3-Danh lệ phần hạ của Bộ luật quy định vé trường hợp những người thàn thuộc cùng chứa chấp che giấu tội của ahau, cụ thể là: Phàm ở chung một nhà (cùng chung của cải, ở chung thân thuộc, không hạn là khác làng, đù không có chế độ tang phục) nếu hàng Đại công trở lên và ồng bà ngoại, cha mẹ vợ của cháu ngoại, rể như anh em,vợ chổng của cháu, vợ của anh em (có cm nặng) có tội do người này hoặc người kia làm cùng nhau che chả Nỏ tì, người làm cổng vì nghĩa nặng với gia trưởng mà giấu thì đều miễn bàn (tôn trường không được vì nô tì, người làm công mà giấu, có bổn phận trị tội họ). Nếu tiết lộ sự việc và thông báo tin tức đến nỗi khiến tội nhân lo sợ khi đang được giấu che này trốn lánh đi (vì đối với pháp luật họ được quyển che giấu cho nhau) cũng không buộc tội (nghĩa là có tình thân thuộc che giấu cho nhau, phạm tội nếu pháp quan truy bắt nhân đó mà tiết lộ sự việc và ngầm thông báo tin tức khiến tội nhân đang được che giấu sợ trốn đi, cũng không bị tội). Hàng tiểu công trở xuống giấu nhau và tiết lộ sự việc thì giảm 3 bực tội so với người thường, người thân không có chế độ tang phục, giảm 1 bực...Nếu phạm tội mưu phản trở lên thì không dùng luật này (là tuy có chế độ tang phục thân thuộc mà phạm mưu phản, đại nghịch. Mưu phản chỉ che giấu không thú tội thì y luật phạt tội không dùng luật này) [31, tr. 192-194]. 14 Quy định này có nghĩa: trường hợp những người thân thuộc trong gia đình chung sống trong một nhà thuộc hàng đại công trò lên, như: ông bà ngoại, cha mẹ vợ của cháu, rể、vợ chổng của cháu, anh em của cháu, vợ cùa anh em có an nghĩa với nhau mà phạm tội thì được phép che giấu tội cho nhau mà không bị cấm. Nô tì, người làm cồng cho gia trưởng mà che giấu tội phạm của gia trưởng vì nghĩa nạng tình thâm thì cũng không bị xử lý. Nếu biết pháp quan đang phát lệnh truy nã mà người che giấu tiết iộ, thông báo cho người phạm tội đang ẩn náu, trốn tránh biết để chạy trốn đi nơi khác thì cũng không bị buộc tội. Những người ở hàng tiểu công trở xuống, bổn tông bên ngoại, có vị trí thân thuộc xa mà dung chức, che giấu và thông báo, tạo điểu kiện thông báo,che giấu cho nhau thì mặc dù bị tội nhưng được giảm 3 bực tội so với người thường; người thân mà không thuộc hàng phải để tang nếu che giấu tội cho nhau thì bị phạt tội nhưng giảm 1 bực so với người thường. Quy định này cho thấy: mặc dù pháp luật hình sự phong kiến nước ta rất hà khắc ahumg cũng đã có những chính sách nhân đạo nhất định được áp dụng như không xử tội che giấu tội phạm đối với những người thân thuộc, trong cùng một gia đình có hành vi che giấu tội phạm cho nhau. Điểu này, đã thể hiện rõ tư tưởng coi trọng luân thường, đạo lý, coi trọng tình người, thể hiện phong tục văn hóa, truyền thống đạo đức gia phong của người Á đông, tổn trọng kỷ cương trong gia đình của xã hội phong kiến nước ta lúc bấy giờ. Bên cạnh đó, Bộ luật cũng đã thể hiện sự phân hoá rõ ràng tuỳ theo tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm xảy ra mà xem xét xử lý hành vi che giấu tội phạm đó, chẳng hạn như đối với các tội mưu phản, đại nghịch, gây rối là các tội phạm vào Thập ác, thì người có hành vi che giấu các tội này phải bị nghiêm trị kể cả trong trường hợp là những người ruột thịt trong gia đình che giấu tội cho nhau. Điểu này thể hiện tính agiiiêm minh của pháp luật hình sự nước ta thời kỳ này nói chung, Bộ luật Hoàng Việt luật lệ nói riêng, đổng thời thể hiện trình độ lập pháp tương đối cao của triều đại nhà Nguyễn thời kỳ này. Tội che giấu tội phạm cũng được đề cập trong những quy định về Binh luật, tại các quyển 10, 11 của Bộ luật. Tại Điểu 18 Quyến 10 quy định về tội quan lính trốn khi cố thủ đánh giặc,có đoạn: 15 Phàm quan quân đã nhận lịnh chỉ huy’ theo lính đi dẹp giặc nhưng lén trốn...biết y trốn mà quan Giám háu che giấu thì phạt 100 trượng, không kể lần nào, sung lính, đuổi về quê hay đi nơi khác...Nếu là quân nhân giữ các nơi, thành trì mà trốn...Giám hầu biết trốn mà vẫn che giấu thì đồng tội với phạm nhân...Ai biết việc tùng chinh mà bỏ trốn kia và kẻ chấp chứa, che giấu thì không cần biết phạm lần mấy. Cứ tội là phạt 100 trượng,sung lính…[31 ,tr. 506-510]. Tại Điều 4 Quyển 11 của Bộ luật quy định về xét hỏi bọn do thám, có đoạn: Phàm những ai đi men theo biên giới ải, đồn trại...phải xét chúng, bắt được phải đem đến quan hỏi tra, nếu quả thật đó là hạng người đón dẫn vào trong và đưa người ra ngoài, thì đem chém…Giám hầu bỏ qua, người coi ngó biết cố dung túng, che giấu không thú tội thì đều xử tội như kẻ phạm...Bọn do thám đi qua, người giữ biết chúng là do thám như dung túng cho qua mà còn che giấu, không đi tố cáo, tội cùng người phạm [31,tr. 525-527], ở những quy định này, hành vi che giấu được để cập nhưng chưa rõ ràng, còn mập mờ với hành vi không tố giác, và đổng nhất với đổng phạm, quy định xử lý ở cùng mức hình phạt. Tại Quyển 12 của Bộ luật quy định về Hình luậì. Trong hai tội mưu phản đại nghịch và mưu phản có để cập về hành vi che giấu các tội phạm này. Cụ thể, tại Điều i. Mưu phản đạo nghịch có đoạn quy định: “ Phàm kẻ mưu phản không làm lợi cho đất nưóc,mưu hại xã tắc và đại nghịch không có lợi đối với vua, mưu phá huỷ tôn miếu, sơn lăng và cung quyết…A i biết tình hình mà cố dung túng, che giấu thì bị xử chém” [31 ,tr. 555-556]. Tại Điều 2. Mưu phản có đoạn quy định: “ Phàm kẻ mưu phản gài mưu trong nước nghe lịnh nước ngoài. Chỉ ỉà cùng mưu thì cũng không chia cầm đầu hay tòng phạm mà đem chém hết ráo. Con trai, con gái, thê thiếp của chúng đem phân phối làm nô tì trong các nhà bực công thần...Ai biết mà cố tình chứa chấp, che giấu thì bị tội giảo” [31, tr. 560-561]. 16 Vẫn trong những quy định về hình luật,tại Quyển 18 của Bộ luật có quy định về bắt tù trốn, trong đó Điều 27 quy định về "biết chuyện mà che giấu tội nhản trong trường hợp không phải là thân thuộc với nhau và tội nhân chưa đến quan ••,cụ thể như sau: Phàm biết người khác phạm tội, việc bị lộ, quan ti sai người đi bắt gọi, đem phạm nhân giấu trong nhà, không nộp, không thưa lên và chỉ đường cho phạm nhân trốn, cung cấp lương thực, chỉ nơi trôn cho người ỉcia...thân thuộc được miễn giảm, còn người ngoài vẩn chiếu tội che giấu. Việc chưa phát ỉộ quan ti không bắt, gọi, mà che giấu là điểu không nên. Còn người trốn, các nơi đổi chỗ đưa đ i,che giấu tội nhân, biết chuyện mà đổi chỗ, đưa đi trốn lánh thì đều bị tội [31 ,tr. 952953], Từ sự phân tích ở trên, có thể thấy rằng pháp luật hình sự nhà Nguyễn mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề của pháp luật hình sự phong kiến Trung Quốc, nhưng cũng đã tiếp thu các giá trị, kinh nghiệm lập pháp hình sự nói chung và tội che giấu tội phạm nói riêng của nhà Lê đổng thời có sự sáng tạo nhất định, thể hiện kỹ thuật lập pháp hình sự nói chung và về tội che giấu tội phạm nói riêng đạt ờ trình độ tưcmg đối cao thời kỳ này. Như vậy, có thể nói tội che giấu tội phạm đã được quy định từ rất sớm trong lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam. Từ thời nhà Lê, tội che giấu tội phạm đã được đề cập, quy định trong Bộ luật Hổng Đức và dưới thời nhà Nguyễn, nó tiếp tục được ghi nhận và quy định trong Hoàng Việt luật lệ. Mặc dù các quy định này còn nhiều điểm hạn chế như: chưa tập trung, thống nhất ở một điều luật, chưa đưa ra được những khái niệm pháp lý rõ ràng vẻ hành vi che giấu cũng như tội che giấu tội phạm và có chỗ còn đổng nhất với đổng phạm, với không tố giác tội phạm, cũng như cách diễn đạt từ ngữ thể hiện về tội che giấu tội phạm chưa được chuẩn hóa, không nhất quán. Tuy nhiên, các quy định này đã thể hiện rõ thái độ,nhận thức nghiêm khắc của chế độ cầm quyền phong kiến đương thời đối với những hành vi che giấu tộij)jỊạiĩU-iighiêỊì^Efl|) 知 Ig pháp luật M MOC d ' o c hình sự đối với những người có các hành vi í ị ũ • 17 c ; !,.a ■ :丨 ::':Ạ ^ L 0 Ị CÌA ^ ' ' , Ị 一」 1.1.2. Giai đoạn từ khi Cách mang tháng Tám năm 1945 thành còng cho đến trước khi Bộ luật hình sự nám 1985 ra đời Sau khi Cách mạng Tháng Tám nũm 1945 thành công, Nhà nước còng nông non trẻ đã tích cực tiến hành hoạt động lập pháp nói chung và hoạt động lập pháp hình sự nói riêng. Chi trong gần bốn tháng năm 1945 và nám 1946, Nhà nước ta đã ban hành một loạt các văn bản quy phạm pháp luật hình sự,đáp ứng yêu cầu giữ vững chính quyén nhân dân, góp phần xây dựng và phát triển lực lượng, chuẩn bị sẩn sàng bước vào cuộc kháng chiến lâu dài của cả nước thời kỳ này. Nhằm trừng trị các loại việt gian,phản động, chống chính sách dùng người Việt trị người Việt của bọn thực dân Pháp, Nhà nước ta đã ban hành sắc lệnh số 133-SL ngày 20-1-1953 trừng trị những tội xầm phạm đến an toàn nhà nước, đối nội và đối ngoại. Trong đó, Điểu 14 của Sắc lệnh quy định vể tội che giấu phần tử phản quốc: uKẻ nào chứa chấp, tìm cách giấu giếm, giúp đỡ các phần tử phản quốc, sẽ bị phạt tù từ 10 năm trờ xuống. Nếu tội trạng nặng, sẽ bị phạt tù từ 10 năm đến chuns thân, hoặc sẽ bị xử tử hình” [1 ,tr. 77]. Mặc dù sắc lệnh chưa đề cập tội che giấu tội phạm nói chung, nhưng việc quy định tội che giấu phần tử phản quốc đã tạo cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh phòng, chống những tội xâm phạm đến an toàn nhà nước, đối nội và đối ngoại thời kỳ đó. Với việc Sác lệnh số 133-SL ngày 20-1-1953 được ban hành, thể hiện những bước tiến bộ về kỹ thuật lập pháp hình sự thời kỳ này, không những chỉ ra được những quan hệ xã hội cụ thể có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự tổn vong của chính quyển nhân dân bị các hành vi phạm tội xàm phạm, mà còn lần đầu tiên chính thức ghi nhận vể mặt pháp lý tội che giấu phần tử phản quốc. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miển Bắc hoàn toàn được giải phóng, miền Nam tạm thời bị đế quốc Mỹ và bọn tay sai thống trị. Tình hình đó đã hình thành ở nước ta “ hai khu vực có chế độ chính trị và xã hội khác nhau” [13, tr. 505]: ở miển Bác, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây đựng miền Bắc thành căn cứ vững mạnh của cách mạng cả nước; ở miền Nam, tiến hành cách mạng đân tộc, dân chú nhầm giải phóng miền Nam 18 khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà. Để ìãng cường chuyên chính dân chủ nhân dân, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân và Nhà nước dân chủ nhàn dân, ngày 30-10-1967,Nhà nước ta đã ban hành Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng, trong đó quy định tội che giấu phần tử phản cách mạng tại Điều 17: “ Kẻ nào biết rõ phần tử phản cách mạng mà chứa chấp, che giấu, tiếp tế, giúp đỡ cho chúng lẩn trốn hoặc cất giấu tang vật, thú tiêu chứng cứ tội phạm của chúng thì bị phạt tù từ 2 năm đến 10 nảm” [29, tr. 197]. Điểm mới của quy định này so với quy định tương ứng trong Sắc lệnh số 133-SL là Pháp lệnh đã ghi nhận điều kiện vể ý thức chủ quan của người phạm tội che giấu phần tử phản cách mạng là “biếí rõ phấn tử phản cách mạng ” và bổ sung thêm một số hình thức che giấu là “ cất giấu tang vậtf thủ tiêu chứng cứn. Hình phạt được áp đụng đối với người phạm tội che giấu phần tử phản cách mạng đã được giảm hơn so với sắc lệnh số 133-SL, chỉ bị phạt tù từ 2 năm đến 10 nãm. Ngày 21 •10-1970, Pháp lệnh trừng trị các tội xầm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa được Nhà nước ta ban hành đã quy định về tội bao che cho kẻ xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa tại Điều 19: 1. Kẻ nào tuy biết là có xảy ra tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, nhưng lợi dụng chức vụ, quyển hạn, cố tình cản trờ việc phát hiện, điểu tra, xử lý kẻ phạm tội thì bị phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm. 2. Phạm tội trong trường hợp có hành động đàn áp,trả thù người đấu tranh phát hiện tội phạm và kẻ phạm tội thì bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm [29 ,tr. 207]. Như vậy, trong Pháp lệnh này một trong những hình thức của che giấu tội phạm và bao che đã được Nhà nước ta chính thức ghi nhận và chủ thể của hành vi bao che phải là chủ thể đặc biệt: người có chức vụ, quyên hạn; tình tiết tăng nặng định khung hình phạt là: có hành động đàn áp, trả thù người đấu tranh phát hịên tội phạm và kẻ phạm tội. Đây có thể nói là một bước tiến bộ vể kỹ thuật lập pháp hình sự của Nhà nước ta đối với tội che giấu tội phạm thời kỳ này. Trong thời gian từ năm 1978 đến những năm 1980, 1981,trước thực trạng 19 tình hình k in h 【 ế-xẵ hội của nước ta gập nhiểu khó khăn, phải đối phó với chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch, bọn gian thương đầu cơ, buôn lậu,làm hàng giả, kinh doanh trái phép,hoạt động gây rối loạn thị trường. Việc đấu tranh chống những hiện tượng tiêu cực trên thị trường là một yêu cầu cấp bách nhằm thiết lập một trật tự mói xã hội chủ nghĩa trên mặt trận lưu thông phân phối, góp phần thúc đẩy sản xuất, ổn định giá cả, bảo đảm đời sống cho người lao động, ngày 30-6-1982,Pháp lệnh trừng trị các tội đầu cơ,buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép được Hội đổng Nhà nước ban hành. Đáng chú ý, Điểu 7 của Pháp lệnh này quy định vể tội bao che người phạm tội: Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn, cố tình cản trở việc phát hiện, điểu tra, xử lý người phạm tội ghi trong Pháp lệnh này thì bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm. Trong trường hợp có hành động đàn áp, trả thù người phát hiện hoặc tố giác tội phạm thì bị phạt tù từ hai năm đến năm năm. Nếu vì mục đích thu lợi bất chính mà bao che người phạm tội, thì tùy hành vi cụ thể, bị coi ỉà cùng phạm tội và bị xử phạt theo các điểu 2, 3,4 ,5,6 Pháp lệnh hoặc bị xử phạt theo Pháp lệnh ngày 2005-1981 trừng trị tội hối lộ [17 ,tr. 98]Việc Pháp lệnh trừng trị các tội đầu cơ, buồn lậu quy định tội bao che người phạm tội đã thể hiện thái độ kiên quyết của Nhà nước ta trong việc xử lý nghiêm những hành vi, hoạt động gây rối thị trường, đổng thời xử lý cả những hành vi bao che, cản trở cuộc đấu tranh chống các tội đầu cơ,buôn lậu. Vào đầu những năm tiếp theo của thời kỳ này, khái niệm che giấu tội phạm đã bắt đầu xuất hiện trong các sách báo pháp lý. Giáo trình hình luật xã hội chủ nghĩa của Trường Cao đẳng kiểm sát Hà Nội đã đề cập tội che giấu tội phạm và đưa ra khái niệm che giấu tội phạm, cụ thể là: che giấu tội phạm là hành vi của một người, tuy không có sự bàn bạc,thoản thuận trước với kẻ phạm tội, nhưng đã che đậy cho y bằng cách cho y trốn tránh hoặc giấu giếm những công cụ, phương tiện phạm tội hay những vật đã có được bằng con đường phạm pháp [30, tr. 188】 . 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan