MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN TÕA HÀNH CHÍNH LÀ THIẾT CHẾ
1
6
CƠ BẢN BẢO VỆ QUYỀN CÔNG DÂN
1.1.
1.1.1.
1.1.2.
1.1.2.1.
1.1.2.2.
1.1.3.
1.1.4.
1.2.
1.2.1.
1.2.2.
1.2.2.1.
1.2.3.2.
1.2.3.3.
1.3.
Khái niệm tòa án hành chính, thiết chế cơ bản bảo vệ quyền
công dân
Khái niệm Tòa án hành chính
Quyền công dân - Đối tượng bảo vệ của Tòa hành chính
Khái niệm quyền công dân
Quyền công dân - đối tượng bảo vệ của Tòa hành chính
Khái niệm Tòa hành chính là thiết chế cơ bản bảo vệ quyền
công dân
Những yếu tố thể hiện Tòa hành chính là thiết chế cơ bản
bảo vệ quyền công dân
Vị trí, vai trò của tòa hành chính trong việc bảo vệ quyền
công dân
Vị trí của Tòa hành chính
Vai trò của Tòa hành chính
Tòa hành chính là công cụ bảo vệ người dân trước sự xâm
hại của cơ quan công quyền
Tòa án hành chính là công cụ đấu tranh có hiệu quả trong
việc nâng cao trình độ và năng lực quản lý xã hội của các cơ
quan và cán bộ, nhân viên nhà nước
Tòa hành chính là công cụ để công dân kiểm soát sự hoạt
động của bộ máy nhà nước
Tòa hành chính của một số nước trên thế giới và một số
kinh nghiệm có thể vận dụng nhằm nâng cao vai trò của
Tòa hành chính trong bảo vệ quyền công dân ở Việt Nam
Chương 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
6
6
10
10
14
16
19
21
21
23
23
26
28
31
39
TÕA HÀNH CHÍNH TRONG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN CÔNG DÂN
2.1.
Sơ lược sự hình thành và phát triển của Tòa hành chính Việt 39
4
2.1.1.
2.1.2.
2.1.3.
2.2.
2.2.1.
2.2.2.
2.2.2.1.
2.2.2.2.
2.3.
2.3.1.
2.3.1.1.
2.3.1.2.
2.3.2.
2.3.2.1.
2.3.2.2.
2.3.2.3.
2.3.2.4.
Nam
Tòa hành chin
40
́ h từ năm 1945 đến năm 1996
Tòa hành chin
42
́ h từ năm 1996 đến 2010
Tòa hành chin
45
́ h theo Luật tố tụng hành chính 2010
Cơ cấu tổ chức, đối tượng xét xử và thẩm quyền xét xử của
47
Tòa hành chính hiện nay
Cơ cấu tổ chức của Tòa hành chính
47
Đối tượng xét xử và thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính
49
Đối tượng xét xử
49
Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính
50
Thực trạng và nguyên nhân của thực trạng trong hoạt động
55
bảo vệ quyền công dân của Tòa hành chính hiện nay
Thực trạng hoạt động bảo vệ quyền công dân của Tòa án
55
hành chính hiện nay
Những kết quả đạt được
55
Một số hạn chế trong hoạt động của Tòa hành chính
58
Nguyên nhân thực trạng hoạt động bảo vệ quyền công dân
60
của Tòa hành chính trong thời gian qua
Những cản trở từ quy định của pháp luật
60
Sự hạn chế trong nhận thức của công dân
62
Nguyên nhân từ đội ngũ thẩm phán
62
Vấn đề thi hành án chưa được thực hiện nghiêm túc, triệt để
63
Chương 3: NHỮNG QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
65
VAI TRÕ CỦA TÕA HÀNH CHÍNH TRONG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN
CÔNG DÂN
3.1.
3.1.1.
3.1.2.
3.1.3.
3.1.4.
Những quan điểm nâng cao vai trò Tòa hành chính ở Việt
Nam hiện nay
Nâng cao vai trò của Tòa hành chính phải căn cứ vào đường
lố i, chủ trương của Đảng về tố tụng hành chính
Nâng cao vai trò của Tòa hành chính phải bảo đảm các
nguyên tắ c của pháp luâ ̣t xã hô ̣i chủ nghiã
Nâng cao vai trò của Tòa hành chính phải đáp ứng yêu cầ u
của cải cách hành chính , cải cách tư pháp và xây dựng nhà
nước pháp quyề n xã hô ̣i chủ nghiã
Nâng cao vai trò của Tòa hành chính phải phù hơ ̣p với thực
tiễn tố tu ̣ng hành chính và vận dụng có chọn lọc kinh
nghiệm của nước ngoài phù hợp với Việt Nam
5
65
65
67
69
71
3.2.
3.2.1.
3.2.2.
3.2.3.
3.2.4.
3.2.5.
Một số ý kiến góp phần nâng cao vai trò của tòa án hành
chính trong việc bảo vệ quyền công dân
Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật
Hoàn thiện đội ngũ cán bộ, thẩm phán tòa hành chính
Vận dụng có chọn lọc kinh nghiệm của nước ngoài phù hợp
với Việt Nam
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền pháp luật
Đẩy mạnh công tác thi hành bản án, quyết định của Tòa án
về vụ án hành chính
72
KẾT LUẬN
78
80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
6
74
74
75
76
77
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quyền con người, quyền công dân là giá trị nhân văn cao quý, là tài
sản chung vô giá của nhân loại và mỗi quốc gia. Bảo đảm quyền con người là
bảo đảm dân chủ, hiệu quả, hiệu lực nhà nước cũng như quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân. Do vậy, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công
dân là nghĩa vụ chung của xã hội, là sứ mệnh cao cả của mỗi quốc gia. Đây
cũng là mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta luôn hướng tới. Việc bảo đảm các
quyền con người, quyền công dân phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: kinh tế,
chính trị, văn hóa, tư tưởng... trong đó nhà nước bảo đảm về mặt pháp lý,
các cơ quan tố tụng bảo đảm thực thi pháp luật có hiệu quả là vấn đề cực kỳ
quan trọng.
Việt Nam đang trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, do đó vấn đề bảo vệ quyền con người, quyền công dân càng được
quan tâm, coi trọng. Đó là nhà nước của dân, do dân, vì dân, Nhà nước có kỷ
cương, kỷ luật, có nền pháp chế cao và nền dân chủ mở rộng, Nhà nước quản
lý xã hội bằng pháp luật và theo pháp luật. Điều này có nghĩa là, Nhà nước
đặt ra pháp luật thì chính cơ quan nhà nước và nhân viên nhà nước phải tuân
theo pháp luật, các quyền và lợi ích cơ bản của công dân đã được pháp luật
công nhận và phải được coi trọng và bảo đảm thực hiện trên thực tế. Để thực
hiện điều đó pháp luật nước ta đã đặt ra nhiều đảm bảo pháp lý nhằm ngăn
chặn sự xâm phạm từ phía các cơ quan công quyền như: hoạt động giám sát,
kiểm tra của Đảng, của các cơ quan quyền lực nhà nước, của các tổ chức và
công dân; hoạt động kiểm tra, thanh tra của chính các cơ quan nhà nước tuy
nhiên các cơ chế này vẫn chưa đủ, cần phải có thiết chế có hiệu lực hơn.
Khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân đã đã
được Hiến pháp ghi nhận, do đó đảm bảo công dân thực hiện tốt quyền khiếu
nại tố cáo của mình cũng là mục tiêu quan trọng của Nhà nước Việt Nam. Hội
nghị đại biểu toàn quốc của Đảng giữa nhiệm kỳ (khóa VII) đề ra nhiệm vụ
7
"Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt
Nam… Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa… Nghiêm chỉnh xem xét và giải
quyết các đơn thư khiếu nại và tố cáo của công dân…", Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VIII và IX tiếp tục khẳng định nhiệm vụ xây dựng nhà nước
pháp quyền, trong đó đề ra yêu cầu "xúc tiến thành lập Tòa hành chính trong
Tòa án nhân dân, bổ sung thể chế làm căn cứ cho xét xử" [11] và "đổi mới cơ
chế, xác định trách nhiệm của các cấp, các cơ quan, cán bộ, công chức trong
việc giải quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo của công dân" [13].
Như vậy, vấn đề bảo đảm quyền tự do dân chủ của công dân luôn
được đặt ra như là một nhiệm vụ rất quan trọng trong quá trình xây dựng nhà
nước pháp quyền. "Bảo vệ quyền, lợi ích của con người, của công dân là một
nguyên tắc cơ bản và tối cao của nhà nước pháp quyền. Song để bảo vệ các
quyền và lợi ích đó khỏi bị xâm phạm từ phía nhà nước, phía hành pháp thì rõ
ràng phải có những thiết chế, cơ chế đặc biệt" [3, tr. 65]. Đó chính là thiết chế
Tòa án hành chính có chức năng giải quyết các khiếu kiện hành chính, phán
quyết tính hợp pháp hoặc bất hợp pháp của quyết định hành chính hoặc hành
vi hành chính của cơ quan nhà nước và nhân viên nhà nước, khi những quyết
định và hành vi đó xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; kiểm
soát hữu hiệu hoạt động của cơ quan nhà nước và nhân viên nhà nước trong
quá trình quản lý, điều hành xã hội, khắc phục những biểu hiện cửa quyền,
lạm quyền, lộng quyền hoặc trốn tránh thẩm quyền, vô trách nhiệm trước
nhân dân, bảo vệ các quyền tự do dân chủ của nhân dân.
Tuy nhiên trên thực tế các khiếu kiện hành chính xảy ra rất nhiều trên
toàn lãnh thổ nhưng công dân khởi iện ra tòa còn ít, các văn bản quy phạm
pháp luật còn chưa chặt chẽ, chưa đầy đủ. Thẩm phán xét xử án hành chính,
đặc biệt là ở cấp huyện còn thiếu kinh nghiệm, còn lúng túng về kỹ năng xét
xử và thiếu kiến thức quản lý nhà nước, có nơi, có lúc còn tâm lý e ngại…dẫn
đến Tòa hành chính vẫn chưa thực sự phát huy được vai trò của mình trong
việc bảo vệ quyền công dân.
8
Đây là một thách thức của thực tiễn cần được nghiên cứu và tìm ra
giải pháp, do đó tôi chọn đề tài: "Tòa hành chính - Thiết chế cơ bản bảo vệ
quyền công dân" làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Để Tòa hành chính phát huy được vai trò của mình trong việc bảo vệ
quyền và lợi ích của công dân đòi hỏi phải rút kinh nghiệm trên cả mặt thực
tiễn cũng như lý luận.Trong nhiều năm qua đã có rất nhiều công trình nghiên cứu
về vấn đề liên quan đến tài phán hành chính: "Tài phán hành chính so sánh",
của Đinh Văn Minh; "Thiết lập tài phán hành chính ở nước ta", GS.TS
Nguyễn Duy Gia (chủ biên), Nxb Giáo dục, Hà Nội, năm 1995; "Một số vấn
đề về tài phán hành chính ở Việt Nam", PTS. Lê Bình Vọng, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1994; "Tài phán hành chính ở Việt Nam", PTS. Đinh Văn
Mậu và PTS. Phạm Hồng Thái, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1995; "Số
chuyên đề về Tòa hành chính và việc giải quyết khiếu kiện của tổ chức, công
dân", Bộ Tư pháp, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, tháng 12/2001; "Thẩm
quyền xét xử của Tòa án nhân dân trong việc giải quyết các khiếu kiện hành
chính", Nguyễn Thanh Bình, Luận án tiến sĩ luật học, Viện Nghiên cứu Nhà
nước và Pháp luật, 2003; "Một số vấn đề về đổi mới cơ chế giải quyết khiếu
kiện hành chính ở Việt Nam", TS. Nguyễn Văn Thanh và LG. Đinh Văn
Minh, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2004; "Thẩm quyền xét xử khiếu kiện hành
chính của tòa án - Sự đảm bảo công lý trong quan hệ giữa nhà nước và công
dân", TS. Nguyễn Thanh Bình; "Luật tố tụng hành chính", Nxb Chính trị
quốc gia, 2011.
Ngoài ra còn một số nghiên cứu khác đã được công bố rộng rãi trên sách
báo, tạp chí và các báo cáo công tác xét xử hàng năm của Tòa hành chính.
Tuy nhiên, chưa có bất kỳ nghiên cứu nào về đề tài "Tòa hành chính Thiết chế cơ bản bảo vệ quyền công dân" nói trên.
3. Mục đích nghiên cứu
9
Trên cơ sở phạm vi nghiên cứu những quy định của Pháp lệnh thủ tục
giải quyết các vụ án hành chính, Luật khiếu nại, tố cáo và gần đây nhất là Luật tố
tụng hành chính, các quy định về quyền công dân và bảo vệ quyền công dân...
kết hợp với đánh giá thực tiễn hoạt động của Tòa hành chính kể từ khi thành
lập và hoạt động cho đến nay, tôi mong muốn làm sáng tỏ vai trò và tầm quan
trọng của Tòa hành chính trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân. Qua đó cũng làm nổi bật những thành tựu đạt được trong hoạt động
bảo vệ quyền công dân, đồng thời phân tích một số điểm mới tích cực của luật
tố tụng hành chính để Tòa hành chính ngày một phát huy vai trò của mình.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi của luận văn này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu lý
luận Tòa hành chính là thiết chế cơ bản bảo vệ quyền công dân, thực trạng
hoạt động bảo vệ quyền công dân của Tòa hành chính trên cơ sở phân tích,
đánh giá các quy định pháp luật hiện hành, thực tiễn hoạt động của Tòa hành
chính ở Việt Nam trong những năm qua, phân tích thực trạng hoạt động,
những hạn chế, nguyên nhân tồn tại, từ đó rút ra những kết luận làm cơ sở cho
việc đề ra những quan điểm và giải pháp nâng cao vai trò của Tòa hành chính.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khóa luận này được hoàn thiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật
lịch sử, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về quyền công dân, về pháp
luật, về cải cách tư pháp.
Ngoài ra khóa luận này còn sử dụng các biện pháp nghiên cứu khác
như: thống kê, phân tích, so sánh và tổng hợp, phương pháp khảo sát thực tiễn
hoạt động của Tòa hành chính.
6. Những điểm mới của luận văn
- Lần đầu tiên luận văn phân tích những cơ sở lý luận về Tòa hành
chính là thiết chế cơ bản bảo vệ quyền công dân
- Luận văn đã đánh giá có tính hệ thống về quá trình phát triển của
Tòa hành chính, đánh giá thực trạng hoạt động bảo vệ quyền công dân của
10
Tòa hành chính ở Việt Nam hiện nay.
- Đặc biệt, luận văn đưa ra các quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao
vai trò của Tòa hành chính trong việc bảo về quyền công dân.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn đã đóng góp một số vấn đề lý luận về Tòa hành chính Thiết chế cơ bản bảo vệ quyền công dân có thể giúp cho các nhà hoạch định
chính sách, nhà lập pháp, những người làm công tác nghiên cứu, làm công tác
xét xử án hành chính có thêm một phần thông tin lý luận về Tòa hành chính,
từ đó đóng góp vào việc xây dựng, tổ chức thực hiện và hoàn thiện thiết chế
Tòa hành chính ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài
liệu tham khảo cho sinh viên trong các trường chuyên luật và không chuyên
luật, cho học viên đang học tập trong hệ thống các trường chính trị, cho
những người quan tâm nghiên cứu vấn đề này
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận Tòa hành chính là thiết chế cơ bản bảo vệ
quyền công dân.
Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động bảo vệ quyền công dân
của Tòa hành chính
Chương 3: Một số quan điểm và giải pháp nâng cao vai trò của Tòa
hành chính trong việc bảo vệ quyền công dân.
11
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN TÕA HÀNH CHÍNH LÀ THIẾT CHẾ CƠ BẢN
BẢO VỆ QUYỀN CÔNG DÂN
1.1. KHÁI NIỆM TÕA ÁN HÀNH CHÍNH, THIẾT CHẾ CƠ BẢN BẢO VỆ
QUYỀN CÔNG DÂN
1.1.1. Khái niệm Tòa án hành chính
Khái niệm về Tòa án hành chính (Tòa hành chính) là khái niệm còn
khá mới mẻ trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam về cả phương diện lý luận và
thực tiễn. Ở một số nước trên thế giới thường được sử dụng chung thuật ngữ
"Tài phán hành chính" cho cả hoạt động giải quyết kiếu kiện của các cơ quan
hành chính và xét xử hành chính của tòa án. Ở Việt Nam, cụm từ "Tài phán
hành chính" dường như đã khá quen thuộc trong gần 20 năm trở lại đây. Để
tìm hiểu về Tòa hành chin
́ h , chúng ta cần phải hiểu rõ những quan niệm về
hoạt động tài phán nói chung và tài phán hành chính nói riêng bởi giữa chúng
có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Thuật ngữ "tài phán" có nguồn gốc từ tiếng Latinh là "jurisdictio",
trong tiếng Anh là từ "jurisdiction". Theo nghĩa rộng thì tài phán là quyền lực
của chính phủ trong việc xem xét tính đúng sai của các hoạt động diễn ra trên
phạm vi lãnh thổ nhất định; theo nghĩa hẹp thì thuật ngữ này dùng để chỉ thẩm
quyền của Tòa án trong việc xem xét, đánh giá và ra các phán quyết đối với
vụ việc cụ thể và với các đối tượng xác định (Bryan A.Garner, Black’s Law
Dictionary, tr 85, 1999). Theo khái niệm này thì tài phán được hiểu bao gồm
hoạt động giải quyết tranh chấp của Tòa án và hoạt động giải quyết tranh chấp
thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính. Như vậy, có thể nói khái niệm "tài
phán" rộng hơn khái niệm "xét xử" ở nhiều khía cạnh. Hoạt động tài phán có
thể thực hiện bởi nhiều loại cơ quan khác nhau. Không chỉ tòa án mà các cơ
quan hành chính hay các cơ quan khác cũng có quyền tài phán. Quyền tài
phán có thể do một cơ quan độc lập, chuyên trách thực hiện hoặc có thể do
12
một cơ quan thực hiện nhiều chức năng, trong đó có chức năng tài phán. Điều
đó phụ thuộc vào cơ cấu, phương thức tổ chức quyền lực trong bộ máy nhà
nước, vào thẩm quyền mỗi cơ quan theo quy định của pháp luật.
Về khái niệm tài phán hành chính, quan niệm của các quốc gia thuộc
các hệ thống pháp luật khác nhau trên thế giới không có sự thống nhất:
Ở các nước thuộc hệ thống Common Law không có sự phân biệt rõ
ràng giữa công pháp và tư pháp, do đó các tranh chấp hành chính cũng không
được xác định rõ là phát sinh trong lĩnh vực nào. Ở các nước này, các tranh
chấp hành chính trước hết được giải quyết bởi cơ chế giải quyết khiếu nại do
cơ quan hành chính đã ban hành quyết định hành chính hoặc có hành vi hành
chính bị khiếu nại. Trường hợp người dân không đồng ý với quyết định giải
quyết khiếu nại thì có quyền khởi kiện tại Tòa án. Tuy nhiên các nước này
không thành lập hệ thống Tòa án chuyên trách mà các tranh chấp hành chính
được giải quyết bởi hệ thống Tòa án thường, theo đó thủ tục tố tụng để giải
quyết các tranh chấp này cũng là thủ tục tố tụng dân sự.
Đối với các quốc gia thuộc hệ thống Civil Law, có sự phân định rạch
ròi giữa luật công và luật tư, do đó các tranh chấp phát sinh cũng được xác
định rõ thuộc lĩnh vực luật nào. Tranh chấp hành chính là tranh chấp nảy sinh
trong lĩnh vực luật công, do đó được giải quyết theo một cơ chế khác so với
các tranh chấp trong lĩnh vực luật tư. Ở các nước này, các tranh chấp hành
chính có thể được giải quyết bằng con đường giải quyết khiếu nại (cơ chế
hành chính) bởi các cơ quan đã ban hành quyết định hành chính hoặc thực
hiện hành vi hành chính bị khiếu nại. Bên cạnh đó để đảm bảo tính độc lập,
khách quan trong việc giải quyết các tranh chấp hành chính thì một hệ thống
cơ quan tài phán hành chính độc lập được thành lập đó là hệ thống Tòa án
hành chính, tồn tại song song bên cạnh hệ thống Tòa án tư pháp để chuyên
giải quyết các tranh chấp hành chính bằng thủ tục tố tụng. Vậy theo quan
điểm của các quốc gia thuộc hệ thống pháp luật này thì tài phán hành chính là
hoạt động xét xử các tranh chấp hành chính giữa các cá nhân, cơ quan, tổ
13
chức với các cơ quan công quyền; đồng thời có một hệ thống Tòa án hành
chính được thành lập để giải quyết các tranh chấp này.
Ở các nước thuộc hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa trước đây, tồn
tại quan điểm cho rằng tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhà
nước xã hội chủ nghĩa là đại diện cho quyền lực của nhân dân. Do quan điểm
này mà các nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa cho rằng quyền lợi của nhà
nước và nhân dân về cơ bản là thống nhất, không thừa nhận sự tồn tại các
tranh chấp giữa nhà nước và công dân. Các quốc gia này cũng không có sự
phân định rạch ròi giữa công pháp và tư pháp, các tranh chấp hành chính được
giải quyết theo cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính (thủ tục hành chính).
Ở Việt Nam, trước khi Tòa hành chính được thành lập (01-7-1996) thì
vấn đề giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với các quyết định hành chính, hành vi
hành chính của cơ quan công quyền đã được quan tâm ở mức độ nhất định.
Tuy nhiên do chịu ảnh hưởng của mô hình hệ thống pháp luật cũng như tư
tưởng lập pháp xã hội chủ nghĩa trước đây nên trong thời kỳ này pháp luật
nước ta chỉ thừa nhận các tranh chấp hành chính như những khiếu nại thông
thường, được giải quyết theo thủ tục giải quyết khiếu nại hành chính mà
không được giải quyết theo thủ tục tố tụng tại Tòa án.
Ngày 28/10/1995, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, khóa IX, kỳ họp thứ 8 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật tổ chức Tòa án nhân dân, trong đó Tòa án nhân dân được trao chức
năng xét xử các vụ án hành chính. Theo đó hệ thống Tòa hành chính đã được
thành lập bên cạnh các Tòa chuyên trách khác của Tòa án nhân dân. Đây có
thể coi là sự chuyển biến căn bản về tư tưởng lập pháp trong việc giải quyết
các tranh chấp hành chính ở nước ta, là dấu mốc đánh dấu sự ra đời của ngành
luật hành chính ở Việt Nam. Như vậy mô hình tài phán hành chính ở Việt
Nam không theo mô hình của các quốc gia thuộc hệ thống Common Law,
cũng không hoàn toàn giống các quốc gia thuộc hệ thống Civil Law. Chúng ta
thừa nhận cơ chế giải quyết tranh chấp hành chính bằng thủ tục tố tụng, tuy
nhiên không thành lập một hệ thống Tòa án hành chính độc lập mà thành lập
14
các Tòa hành chính với tư cách là tòa chuyên trách thuộc hệ thống Tòa án
nhân dân.
Theo Hiến pháp Việt Nam 1992 thì: "Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa
án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật định
là những cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam".
Điều 1 Luật tổ chức Tòa án nhân dân quy định: Tòa án xét xử những vụ án
hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải
quyết những việc khác theo quy định của pháp luật.Trong phạm vi chức năng
của mình, Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà
nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của
công dân". Như vậy, Tòa án là một cơ quan tư pháp của Nhà nước, có chức
năng xét xử. Tòa án hành chính (Tòa hành chính) là tòa chuyên trách thuộc hệ
thống Tòa án nhân dân có chức năng xét xử những vụ án hành chính, gồm
toàn bộ những quy định về tổ chức, hoạt động xét xử những vi phạm Pháp
luật hành chính với chức năng kiểm tra bảo vệ quyền lợi của công dân và
công chức trước những hoạt động của các cơ quan và các nhà chức trách hành
chính. Đó là phương thức, là biện pháp kiểm tra, giám sát hữu hiệu hoạt động
với cơ quan hành chính công chức, viên chức tránh các hiện tượng lạm quyền,
lộng quyền loại trừ những tiêu cực cửa quyền quan liêu trong bộ máy hành
chính, bảo đảm sự tuân thủ pháp luật của các chủ thể khi tham gia vào quản lý
nhà nước, đảm bảo thể chế kỷ luật trong nền hành chính nhà nước.
Trong quá trình thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành các cơ
quan hành chính nhà nước và công dân cùng tham gia và chu trình quản lý
nhà nước. Nhờ đó mà các cơ quan hành chính có quyền ban hành các quy
định có tính chủ đạo, tính quy phạm và các quyết định có tính cá biệt cụ thể
để thi hành luật. Để thực hiện các quyết định ấy các công chức, viên chức đều
thực hiện các hành vi theo chức trách của mình khi được Nhà nước trao quyền
và công dân có nghĩa vụ phải chấp hành. Tuy nhiên việc không tránh khỏi
một số trường hợp các quy định hành chính và các hành vi hành chính vượt
quá thẩm quyền, không còn phù hợp với pháp luật hoặc cán bộ, công chức,
15
viên chức không thực hiện theo đúng chức trách của mình dẫn đến xâm phạm
đến các quyền lợi và lợi ích hợp pháp của công dân làm phát sinh các tranh
chấp hành chính và khiếu kiện hành chính. Tòa án hành chính có nhiệm vụ và
trách nhiệm để giải quyết các tranh chấp và khiếu kiện hành chính. Khi đó
Tòa án hành chính giải quyết các tranh chấp bằng cách kiểm tra các quyết
định hành chính và các hành vi hành vi hành chính đã được ban hành hoặc
thực hiện từ đó trên cơ sở phán xét đúng hay sai hợp pháp hay không hợp
pháp của quyết định, hành vi. Như vậy, xét trên khía cạnh dân chủ, Tòa án
hành chính là một thiết chế đảm bảo quyền dân chủ bằng cách cho phép người
dân có thể chống lại các quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ
quan công quyền, công chức đã lạm quyền, vi phạm pháp luật làm thiệt hại
hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quyền và lợi ích của họ. Về phương diện pháp
chế, Tòa hành chính là một công cụ hữu hiệu để các nhà nước và công dân
kiểm soát sự hoạt động của bộ máy quản lý, đảm bảo sự nhất quán trong việc
thực hiện các đường lối, chính sách của quyền lực chính trị.
1.1.2. Quyền công dân - Đối tƣợng bảo vệ của Tòa hành chính
1.1.2.1. Khái niệm quyền công dân
"Quyền" theo định nghĩa của Từ điển Tiếng Việt, là: "1. Điều mà pháp
luật hoặc xã hội công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi (quyền công
dân, quyền bầu cử và quyền ứng cử); 2. Những điều do địa vị hay chức vụ mà được
làm (nói tổng quát. Có chức có quyền. lạm dụng quyền. Cầm quyền" [46, tr. 815].
Tuy nhiên, dù với cách giải thích thứ hai, "quyền" vẫn là những gì "mà pháp
luật hoặc xã hội công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi", là khả
năng xử sự nhất định của cá nhân, tổ chức - khả năng năng được hưởng, được
làm, được đòi hỏi từ cộng đồng xung quanh.
"Công dân" theo định nghĩa của Từ điển tiếng Việt, là "người dân,
trong mối quan hệ về mặt quyền lợi và nghĩa vụ với Nhà nước" [46, tr. 207].
Khi con người được coi là công dân, quyền công dân chính là quyền con
người trong một xã hội cụ thể, trong một chế độ xã hội - chính trị cụ thể. Điều
này chỉ ra tính khác biệt của quyền công dân so với quyền con người - một
16
khái niệm thường bị hiểu đồng nhất với khái niệm quyền công dân. Quyền
con người không chỉ là quyền mang tính chất xã hội của con người - thành
viên trong xã hội, mà còn bao gồm những quyền thể hiện tính chất tự nhiên,
cá nhân, gắn với thuộc tính tự nhiên của con người: quyền ăn, quyền ở, quyền
sống, quyền tự vệ..., những quyền này mang tính tự thân, vốn có của con
người mà không cần phải được pháp luật của một nhà nước nào ghi nhận,
điều chỉnh. Khái niệm quyền con người rộng hơn khái niệm quyền công dân.
Nói tới quyền con người là nói tới các quyền của cá nhân mỗi con người
không phân biệt các đặc tính tự nhiên: chủng tộc, màu da, lứa tuổi, giới tính…
hay các đặc tính xã hội của con người: trình độ văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng,
chế độ chính trị… Quyền công dân được hiểu là quyền con người giới hạn
trong phạm vi các đặc tính xã hội của con người và trong phạm vi một quốc
gia, một chế độ chính trị trong đó con người tồn tại.
Quyền con người, quyền công dân là yếu tố cơ bản, nền tảng của một
xã hội dân chủ, văn minh. Tư tưởng về quyền con người (nhân quyền) đã hình
thành từ rất sớm trong lịch sử nhân loại; nhưng không phải trong bất cứ hình
thái kinh tế - xã hội nào, trong bất cứ kiểu Nhà nước nào nó cũng tồn tại và
được thừa nhận một cách đầy đủ. Vì thế, quyền con người, quyền công dân là
một phạm trù lịch sử và là kết quả của cuộc đấu tranh không ngừng của toàn
nhân loại vươn tới những lý tưởng, giải phóng hoàn toàn con người nhằm xây
dựng một xã hội thật sự công bằng, dân chủ, nhân đạo.
Giai cấp tư sản khi thực hiện cách mạng tư sản, đã coi nhân quyền như
một vũ khí của mình để tranh giành quyền lực với giai cấp phong kiến và để tập
hợp lực lượng trong xã hội; do đó từ thế kỷ XVIII vấn đề nhân quyền đã được
giai cấp tư sản đề cập đến như Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng quốc Hoa
Kỳ năm 1789, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1789.
Sau khi chiến tranh thế giới lần thứ II kết thúc, chủ nghĩa phát xít bị
đập tan năm 1945, vấn đề nhân quyền đã trở thành mối quan tâm của cả Nhà
nước xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, nên khi tổ chức Liên Hợp Quốc ra
đời thì vấn đề cơ bản, đầu tiên của tổ chức này là vấn đề nhân quyền. Nhân
17
quyền đã trở thành vấn đề quan trọng, thường xuyên được đề cập đến trong
quan hệ quốc tế. Liên Hợp Quốc đã ban hành hàng loạt các văn kiện khẳng
định các quyền và tự do của tất cả mọi người, đặc biệt là Hiến chương Liên
Hợp Quốc 1945 và Tuyên ngôn thế giới về quyền con người 1948 thì vấn đề
nhân quyền đã chuyển sang một bước ngoặt mới trong lịch sử nhân loại, trở
thành một quan hệ cơ bản được điều chỉnh bằng pháp luật quốc tế.
Đến nay quyền con người đã được ghi nhận, khẳng định trong Hiến
pháp của nhiều quốc gia trên thế giới. So với khái niệm quyền con người thì
khái niệm quyền công dân mang tính xác định hơn. Vì thế, nội dung, số
lượng, chất lượng quyền công dân của mỗi quốc gia là khác nhau, và tùy
thuộc vào thể chế chính trị xã hội, vào giai cấp cầm quyền trong xã hội. Trước
đây ở các nước xã hội chủ nghĩa vấn đề quyền con người ít được nói đến, nên
mặc nhiên được hiểu rằng quyền con người và quyền công dân là đồng nhất.
Trong các văn kiện pháp lý (hiến pháp, luật) chỉ tồn tại thuật ngữ quyền công
dân. Ở Việt Nam cũng vậy, trong các hiến pháp năm 1946, năm 1959, 1980
đều chỉ đề cập đến quyền và nghĩa vụ của công dân mà không đề cập đến vấn
đề quyền con người. chỉ đến hiến pháp năm 1992, vấn đề quyền con người
mới chính thức được đề cập đến (điều 50 hiến pháp 1992). Với truyền thống
nhân đạo, yêu chuộng hòa bình và công lý, Việt Nam hiểu hơn ai hết giá trị
đích thực của tự do, của nền độc lập dân tộc và quyền con người. Chính vì
vậy, ngay sau khi Nhà nước Việt Nam ra đời năm 1945, một năm sau đó,
Hiến pháp năm 1946 - Hiến pháp dân chủ đầu tiên của nền cộng hòa năm thứ
hai được ban hành đã thiết lập và đảm bảo cho công dân thực hiện và hưởng
thụ các quyền và tự do dân chủ.
Các bản Hiến pháp tiếp theo, quyền và nghĩa vụ của công dân Việt
Nam được phát triển và mở rộng không những về nội dung, số lượng mà cơ
chế đảm bảo tính thực hiện của các quyền cũng ngày càng được hoàn thiện.
Không kể tham gia các công ước về nhân quyền hoặc liên quan đến quyền
con người do các tổ chức quốc tế khác thông qua, tính đến nay Việt Nam đã
ký, phê chuẩn và gia nhập 9 công ước và 2 nghị định thư bổ sung công ước
18
trong tổng số gần 20 công ước và nghị định thư bổ sung công ước về nhân
quyền do Liên hợp quốc ban hành.
Trong các văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ VI, VII, VIII và IX của
Đảng đều nhấn mạnh xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ
quyền con người và trong hoạt động lập pháp: "ưu tiên xây dựng các luật về
kinh tế, về các quyền công dân". Chỉ tính từ năm 1992 đến nay, không kể các
văn bản do Chính phủ và cơ quan nhà nước khác có thẩm quyền ban hành,
Quốc hội đã thông qua khoảng 240 đạo luật, trong đó có khoảng 48 văn bản
có liên quan trực tiếp đến bảo vệ quyền và tự do cơ bản của công dân.
Những cam kết chính trị - pháp lý ở tầm quốc tế, Việt Nam đã không
ngừng thể chế hóa các chuẩn mực quốc tế vào pháp luật trong nước. Khẳng
định: "ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về
chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các
quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật" - quy định của
Hiến pháp 1992 đã tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật, thiết chế bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
1.1.2.2. Quyền công dân - đối tượng bảo vệ của Tòa hành chính
Hiến pháp năm 1992 của nước ta đã quy định rằng công dân nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có các quyền cơ bản như: Quyền bình
đẳng trước pháp luật (Điều 52); quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội
(Điều 53); quyền ứng cử, bầu cử (Điều 54); quyền lao động (Điều 55); quyền
được bảo hộ lao động (Điều 56); quyền được tự do kinh doanh theo quy định
của pháp luật (Điều 57); quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành,
nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất…; quyền thừa kế (Điều 58); quyền
học tập (Điều 59); quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp (Điều 60); quyền
được hưởng chế độ bảo vệ sức khỏe (Điều 61); quyền tự do ngôn luận (Điều 69);
quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền đi ra nước ngoài và từ
nước ngoài về nước (Điều 68); quyền tự do tín ngưỡng (Điều 70); quyền bất
khả xâm phạm về thân thể (Điều 71); quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở
(Điều 73) và một số quyền cơ bản khác…
19
Trong các quyền công dân đã được Hiến pháp Việt Nam hiện hành ghi
nhận thì khiếu nại và tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân.
Điều 74 Hiến pháp Việt Nam quy định:
Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan nhà
nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của các cơ
quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang
nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào. Việc khiếu nại, tố cáo phải
được cơ quan nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn pháp
luật quy định [37].
Sự ra đời của Luật khiếu nại tố cáo năm 1998 và các văn bản hướng
dẫn thi hành là những bước tiến quan trọng nhằm thể chế hóa quyền khiếu
nại, tố cáo của công dân đã được Hiến pháp ghi nhận. Đây là một trong
những biện pháp để công dân thực hiện quyền làm chủ của mình trong chế
độ dân chủ nhân dân ở nước ta thông qua việc tham gia xây dựng nhà nước,
xây dựng chính quyền và quản lý nhà nước. Đồng thời quyền khiếu nại, tố
cáo, khởi kiện cũng là một trong những công cụ quan trọng để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân khi bị xâm hại. Mặt khác việc giải quyết
kịp thời, khách quan, đúng pháp luật đối với các khiếu kiện của công dân
cũng là một trong những biện pháp hữu hiệu góp phần chấn chỉnh, sửa chữa
những sai sót trong hoạt động quản lý và hoàn thiện chính sách, pháp luật
của nhà nước.
Với mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì
dân, mọi quyền lực thuộc về nhân dân, mọi hoạt động của bộ máy nhà nước
phải phù hợp với ý chí, nguyện vọng của nhân dân, vì nhân dân mà phục vụ,
nhà nước ta đã có nhiều biện pháp tích cực, trong đó có biện pháp bảo đảm
quyền khiếu nại, tố cáo của có vị trí đặc biệt. Các văn bản pháp luật về khiếu
nại tố cáo được ban hành, sửa đổi, bổ sung và ngày càng hoàn thiện; trách
nhiệm của các cấp, các ngành trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công
dân được đề cao, góp phần quan trọng vào việc giải quyết các tranh chấp giữa
công dân và nhà nước, thiết thực bảo vệ quyền lợi của công dân. Nghị quyết
20
Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã chỉ rõ "Đẩy mạnh
giải quyết các khiếu kiện của công dân...xúc tiến thiết lập hệ thống Tòa án
hành chính để xét xử các khiếu kiện của dân đối với các quyết định hành
chính…". Tại kỳ họp thứ IX ngày 28/10/1995 đã thông qua luật sửa đổi bổ
sung một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân trong đó quy định Tòa
hành chính được thành lập và bắt đầu đi vào hoạt động kể từ ngày 01/7/1996.
Như vậy, Tòa hành chính được thành lập để đảm bảo quyền khiếu nại tố cáo
của công dâ, bảo vệ quyền công dân trước sự xâm hại của các cơ quan công
quyền hay quyền công dân chính là đối tượng bảo vệ của Tòa hành chính.
Nhận thức được điều đó, kể từ khi thành lập đến nay, Nhà nước ta thường
xuyên xây dựng, đổi mới và hoàn thiện các quy định của pháp luật về thiết
chế Tòa hành chính để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,
một cách hữu hiệu nhất, đảm bảo dân chủ hóa xã hội chủ nghĩa.
1.1.3. Khái niệm Tòa hành chính là thiết chế cơ bản bảo vệ quyền
công dân
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư thì thiết chế là toàn bộ cơ cấu xã hội
do pháp luật tạo nên, có thể hiểu là những nguyên tác, quy định, quy chế, nội
dung. Thiết chế bảo vệ quyền công dân hay thể chế bảo vệ quyền công dân là
các nguyên tắc, quy phạm được sắp xếp một cách logic, hợp thành một hệ
thống thống nhất, định hướng và điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh
trong hoạt động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Theo Từ điển Tiếng Việt "Cơ bản" có nghĩa là quan trọng, trọng yếu
nhất. Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do
dân và vì dân. Điề u 50 Hiế n pháp năm 1992 quy đinh:
̣ "Ở nước cộng hoà xã
hội chủ nghiã Viê ̣t Nam , các quyền con người về chính trị , dân sự , kinh tế ,
văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiê ̣n ở các quyề n công dân và được quy
đi ̣nh trong Hiế n pháp và Luật " [37]. Tuy nhiên, các quyền con người , quyề n
công dân chỉ có ý nghĩa thực tế khi được bảo đảm bằng v
iê ̣c tổ chức , điề u
hành của nhà nước trong các lĩnh vực chính trị , kinh tế , văn hoá ...nhằ m thoả
mãn nhu cầu hợp pháp của công dân và được bảo vệ bằng các thiết chế pháp
lý khi các quyền, lơ ̣i ích của công dân bi ̣xâm ha ̣i.
21
Trong hoa ̣t đô ̣ng của miǹ h , hê ̣ thố ng cơ quan hành chiń h nhà nước có
những thẩ m quyề n hành chính sau:
- Thẩ m quyề n ban hành các văn bản quy pha ̣m pháp luâ ̣t
(bao gồ m
nghị định , quyế t đinh
̣ , nghị quyết , thông tư , chỉ thị có chứa các quy phạm
pháp luật).
- Thẩ m quyề n giải quyế t các yêu cầ u về tự do , quyề n và lơ ̣i ić h hơ ̣p
pháp của công dân, bao gồ m các hoa ̣t đô ̣ng: cấ p phép, đăng ký, chứng thực thi ̣
thực, công chứng, giữ và cấ p hồ sơ dân sự cho công dân, tổ chức.
- Thẩ m quyề n giải quyế t các tranh chấ p hành chiń h theo thủ tu ̣c hành
chính (khiế u na ̣i hành chin
́ h).
- Thẩ m quyề n cưỡng chế hành chiń h nhà nước, bao gồ m các biê ̣n pháp
phòng ngừa, ngăn chă ̣n, xử lý vi pha ̣m hành chính, trưng mua và trưng du ̣ng.
- Thẩ m quyề n thanh tra và kiể m tra trong quản lý hành chiń h nhà nươ. ́ c
- Thẩ m quyề n quản lý dich
̣ vu ̣ công.
- Thẩ m quyề n đa ̣i diê ̣n chủ sở hữu nhà nước.
- Thẩ m quyề n quản lý hành chiń h nô ̣i bô ̣ nhằ m bảo đảm về tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước.
Để thực hiê ̣n thẩ m quyề n hành chiń h kể trên
, các cơ quan nhà nước và cá
nhân có thẩ m quyề n ban hành cácquyết định hành chính quy pha ̣m, cá biệt hoặc
bằ ng hành vi hành chính tổ chức trực tiế p. Trong nhiề u trường hơ ̣p nhữngquyết
định hành chính, hành vi hành chính này có thể trái pháp luật, gây thiê ̣t ha ̣i tới
quyề n, lơ ̣i ić h hơ ̣p pháp của công dân và trước những quyết định hành chính,
hành vi hành chính trái pháp luật này thì công dân có quyền phản kháng , yêu
cầ u cơ quan nhà nước có thẩ m quyề n tuyên bố tính bấ t hơ ̣p pháp của các
quyết định hành chính, hành vi hành chính đó và yêu cầ u bồ i thường thiê ̣t ha ̣i.
Thực chấ t của hoạt động giải quyết các vụ án hành chính là bằng hoạt
đô ̣ng xét xử, theo quy đinh
̣ của pháp luật tòa án xem xét các quyết định hành
chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước, nhân viên có thẩ m quyề n có
22
vi pha ̣m pháp luâ ̣t hay không, có xâm phạm quyền, lơ ̣i ić h hơ ̣p pháp của công
dân, tổ chức hay không, từ đó ra quyế t đinh
̣ xử lý và khôi phu ̣c quyề n , lơ ̣i ić h
hơ ̣p pháp của công dân , chính vì vậy, theo TSKH. Lê Cảm thì việc ban hành
"Luật về khiếu nại đến toà án những hành vi (quyết định) đã xâm phạm đến
các quyền và tự do của công dân" và luật này được coi là "Tấm lá chắn thép
để bảo vệ các quyền con người trong nhà nước pháp quyền" [7, tr. 29].
Trong hệ thống tòa án, các tòa chuyên trách (Tòa dân sự, Tòa hình sự,
tòa kinh tế, tòa lao động) có thẩm quyền bảo vệ quyền công dân từ các hành
vi vi phạm pháp luật từ phía công dân và các chủ thể khác thì Tòa hành chính
bảo vệ quyền và lợi ích của công dân khi quyền và lợi ích ấy bị xâm phạm bởi
chính các quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước,
nhân viên, công chức nhà nước. Tòa hành chính, xem xét các quyết định hành
chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước, nhân viên có thẩ m quyề n có
vi pha ̣m pháp luâ ̣t hay không , có xâm phạm quyề n, lơ ̣i ić h hơ ̣p pháp của công
dân, tổ chức hay không, từ đó ra quyế t đinh
̣ xử lý và khôi phu ̣c quyề n , lơ ̣i ić h
hơ ̣p pháp của công dân . Việc trao quyền khởi kiện vụ án hành chính đến toà
án cho công dân đã làm nên sự khác biê ̣t giữa nhi ệm vụ của Tòa hành chính
và các toà án khác là trong khi đối tượng xét xử của các toà án thường là các
quan hệ hình sự , dân sự, lao động, kinh tế, là các vi phạm pháp luật từ phía
công dân và các tổ chức trong mối quan hệ không mang tính quyền lực nhà
nước thì nhiệm vụ của Tòa hành chính là bảo vê ̣ quyề n , lơ ̣i ích hơ ̣p pháp của
công dân do những quyết định hành chính, hành vi hành chính trái pháp luật
xâm pha ̣m. Thêm vào đó, Tòa án là một thiết chế đặc thù mà những nguyên
tắc tổ chức và hoạt động của nó là những đảm bảo khá vững chắc cho việc
bảo đảm các quyền và lợi ích của công dân, cơ quan, tổ chức như: Tòa án là
một trọng tài khách quan, độc lập với bộ máy hành chính về mặt tổ chức, tòa
án (thẩm phán và hội thẩm nhân dân) độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; các
bên bình đẳng trước tòa án, bình đẳng trong tranh tụng, tòa án xét xử công
khai, xét xử có hội thẩm nhâ dân tham gia…Do đó, với sự ra đời của tòa á
hành chính, vấn đề đảm bảo pháp chế và kỷ luật trong quản lý nhà nước nói
23
- Xem thêm -