Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý từ thực tiễn tỉnh ninh thuận...

Tài liệu Tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý từ thực tiễn tỉnh ninh thuận

.PDF
86
105
92

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGÔ VĂN PHÁT TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ TỪ THỰC TIỄN TỈNH NINH THUẬN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2017 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGÔ VĂN PHÁT TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ TỪ THỰC TIỄN TỈNH NINH THUẬN Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 60.38.01.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN THUẬN HÀ NỘI - 2017 MỤC LỤC MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ ....................................................................................................................8 1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của trợ giúp pháp lý ...................................8 1.2. Các quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý ......16 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng .................................................................................26 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ TẠI TỈNH NINH THUẬN ....................................................................30 2.1. Các đặc điểm về tự nhiên và dân cư liên quan đến tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý tại Ninh Thuận .................................................................................30 2.2. Các quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý ........................................33 2.3. Thực tiễn tổ chức và hoạt động về trợ giúp pháp lý tại Ninh Thuận .........38 Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM HIỆU QUẢ, CHẤT LƢỢNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ ..............................................................................61 3.1. Nhu cầu bảo đảm hiệu quả, chất lượng trợ giúp pháp lý ...........................61 3.2. Các quan điểm bảo đảm hiệu quả, chất lượng trợ giúp pháp lý .................64 3.3. Các giải pháp bảo đảm hiệu quả, chất lượng trợ giúp pháp lý ...................67 KẾT LUẬN ...............................................................................................................76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................77 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CTVTGPL: Cộng tác viên trợ giúp pháp lý HĐPHLN: Hội đồng phối hợp liên ngành TGPL: Trợ giúp pháp lý TGVPL: Trợ giúp viên pháp lý XHCN: Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Chế độ trợ giúp pháp lý (TGPL) là một loại trợ giúp tư pháp được đại đa số các nước trên thế giới áp dụng (khoảng 150 nước). Nó là kết quả tất yếu của sự phát triển trong xã hội, là công cụ để Nhà nước thực hiện nghĩa vụ đối với công dân của mình, Nhà nước ban hành pháp luật, buộc người dân phải tuân theo, do vậy Nhà nước cũng phải có cơ chế bảo đảm để pháp luật bảo vệ được quyền lợi của nhân dân. Nếu không làm được điều này, tất yếu sự hoài nghi của công chúng đối với pháp luật sẽ này sinh và đó sẽ là nguy cơ lớn đối với khả năng thực thi pháp luật. Nhiều cuộc tranh luận trên thế giới đã đi đến khẳng định rằng, TGPL là cần thiết. Nó cần thiết đối với việc củng cố luật pháp, với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền và có tầm quan trọng như một bộ phận không thể tách rời của việc thực thi công lý và bảo đảm công bằng xã hội. Từ những năm 50 của thế kỷ 20, đã có ý kiến từ các luật gia tư sản cho rằng việc tiếp cận luật pháp của người nghèo là cần thiết đối với việc duy trì trật tự pháp luật, do đó cần phải tư vấn và đại diện pháp lý phù hợp cho những người mà cuộc sống, tài sản, danh dự bị đe dọa nhưng không có khả năng chi trả dịch vụ pháp lý… Sẽ là rất vô nghĩa nếu quyền được bào chữa chỉ áp dụng đối với người có khả năng trả chi phí dịch vụ. Vì vậy, việc khẳng định vị trí TGPL là một yêu cầu mang tính thủ tục cần thiết để bổ sung ý nghĩa cho Nhà nước pháp quyền. Nếu thừa nhận trật tự xã hội trong Nhà nước pháp quyền là một mục tiêu cần hướng tới thì việc thừa nhận TGPL rất quan trọng, có thể coi như một phương tiện để đạt được mục tiêu ấy. Thực hiện Nghị quyết của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Ở nước ta hoạt động TGPL ra đời năm 1997 trên cơ sở Quyết định số 734/TTg ngày 6/09/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập tổ chức TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách. Tháng 6/2006, 1 Quốc hội thông qua Luật TGPL (có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2007) và một loạt các văn bản hướng dẫn thi hành Luật. Có thể nói đây được xem là một bước tiến của công tác lập pháp khi đúc rút kinh nghiệm của việc thực hiện một Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về TGPL, một lĩnh vực còn mới mẽ được thể chế ổn định trong văn bản có hiệu lực cao. Luật này còn là tuyên ngôn nhân quyền của Nhà nước Việt Nam về các vấn đề công lý khi khẳng định quyền được TGPL của người nghèo và các nhóm dân cư thiệt thòi, dễ bị tổn thương được Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm để họ có quyền bình đẳng tiếp cận dịch vụ pháp lý có chất lượng như các công dân khác. Ở tỉnh Ninh Thuận, sau khi có Quyết định số 734/TTg ngày 6/09/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập tổ chức TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách. Ngày 03/3/1998, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh có Quyết định số 445/QĐ-TH về việc thành lập Trung tâm Trợ giúp pháp lý người nghèo và đối tượng chính sách trực thuộc Sở Tư pháp. Khi luật TGPL năm 2006 được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 01/01/2007, trong đó, có quy định cơ cấu tổ chức bộ máy của Trung tâm TGPL, các đối tượng thuộc được trợ giúp pháp lý miễn phí. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để tiếp tục kiện toàn tổ chức của Trung tâm TGPL. Trên cơ sở đó, ngày 04/7/2007, Ủy ban nhân dân tỉnh có Quyết định số 152/2007/QĐ-UBND về việc đổi tên Trung tâm Trợ giúp pháp lý người nghèo và đối tượng chính sách thành Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Ninh Thuận. Tiếp đó, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận đã ban hành Chỉ thị số 35/2000/CT-UBND ngày 27/9/2000 về việc tăng cường công tác trợ giúp pháp lý, trong đó giao cho Sở Tư pháp xây dựng phương án bố trí cán bộ cho Trung tâm Trợ giúp pháp lý, đồng thời giúp Ủy ban nhân dân tỉnh quản lý, chỉ đạo về công tác cán bộ, công tác trợ giúp pháp lý, đưa công tác này từng bước phát triển lớn mạnh, phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị tại địa phương. Hiến pháp năm 2013, tại điều 14 quy định “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và 2 pháp luật. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” [49]. Để đảm bảo thực hiện đầy đủ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân theo Hiến pháp, thì vai trò của Nhà nước càng hết sức quan trọng. Bởi TGPL là trách nhiệm của Nhà nước đối với nhân dân, Nhà nước ban hành và tổ chức thực hiện pháp luật, do đó Nhà nước phải có trách nhiệm thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, tư vấn pháp luật, để đưa pháp luật đi vào cuộc sống, mà hoạt động TGPL là một trong những chính sách hiệu quả để đưa pháp luật đến với nhân dân. Gần 20 năm hình thành và phát triển, hệ thống TGPL Việt Nam đã và đang không ngừng lớn mạnh về quy mô, ổn định về tổ chức với đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý (TGVPL), cộng tác viên TGPL là Luật sư và các cộng tác viên khác không ngừng phát triển về số lượng cũng như năng lực, trình độ, đạo đức nghề nghiệp và kỹ năng TGPL. Công tác TGPL đạt được những kết quả tích cực, góp phần không nhỏ trong việc nâng cao hiểu biết pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích của người dân nhất là người nghèo, người dân tộc thiểu số, người có công với cách mạng, người khuyết tật và những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn khác. Đồng thời, là cầu nối quan trọng giữa Nhà nước với nhân dân, tạo sự đoàn kết gắn bó giữa chính quyền địa phương với nhân dân, xây dựng và gìn giữ khối đại đoàn kết dân tộc, ổn định an ninh trật tự an toàn xã hội, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, hoạt động TGPL vẫn còn nhiều bất cập như đối tượng được thụ hưởng dịch vụ pháp lý miễn phí còn bị hạn chế, chưa đảm bảo tất cả các đối tượng yếu thế trong xã hội được TGPL; hệ thống pháp luật về TGPL chưa đồng bộ, còn chồng chéo; đội ngũ người thực hiện TGPL còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng chuyên môn; chưa phát huy tích cực vai trò tham gia TGPL của các tổ chức xã hội, nhất là vai trò của luật sư trong việc tham gia thực hiện hoạt động 3 TGPL…Vì vậy, hiệu quả và chất lượng hoạt động TGPL cho người dân không đáp ứng nhu cầu thực tế. Trên cơ sở thực tế đó, ngày 01/06/2015 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt đề án Đổi mới công tác trợ giúp pháp lý giai đoạn 2015-2025. Mục tiêu tổng quát “ Đổi mới công tác TGPL theo hướng đẩy mạnh xã hội hóa với lộ trình phù hợp với đặc thù từng vùng, miền, khu vực tiến tới sau năm 2025 người thực hiện trợ giúp pháp lý là luật sư hành nghề, bảo đảm cho các đối tượng thuộc diện được TGPL được cung cấp dịch vụ pháp lý kịp thời, chất lượng tương đương với dịch vụ mà luật sư cung cấp trên thị trường; chuyển các Trung tâm TGPL nhà nước theo hướng từ việc chủ yếu cung cấp dịch vụ TGPL hiện nay thành cơ quan thực hiện quản lý nhà nước về TGPL, tinh giảm tổ chức, bộ máy và biên chế; cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính trong việc tiếp cân dịch vụ TGPL nhà nước” [30]. Xuất phát từ thực tế khách quan nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “Tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận” là cần thiết cả về phương diện lý luận cũng như phương diện thực tiễn để làm luận văn thạc sĩ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trợ giúp pháp lý là một nhiệm vụ mới của ngành Tư pháp thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước đối với những người nghèo và đối tượng chính sách, những người yếu thế trong xã hội trên phương diện pháp luật, tạo điều kiện cho họ tiếp cận pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, công bằng trước pháp luật, góp phần thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra. Đến nay, đã có một số đề tài nghiên cứu tiến sĩ, thạc sĩ, đề tài cấp bộ và các bài báo, tạp chí, chuyên đề nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến TGPL miễn phí cho người nghèo, đối tượng chính sách và các đối tượng yếu thế khác trong xã hội. Đó là: - Các luận án, luận văn: Luận án tiến sĩ “ Điều chỉnh pháp luật về TGPL ở Việt Nam trong điều kiện đổi mới” của Tiến sĩ Tạ Thị Minh Lý; Luận văn thạc sĩ “ Hoàn thiện pháp luật về người thực hiện TGPL ở Việt Nam” của tác giả Vũ Hồng 4 Tuyến; Luận văn thạc sĩ “ Hoàn thiện các hình thức tiếp cận pháp luật của người nghèo ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Đỗ Xuân Lân; Luận văn thạc sĩ “ Phát triển TGPL ở cơ sở” của tác giả Đặng Thị Loan; Luận văn thạc sĩ “ Bảo đảm quyền được TGPL” của tác giả Phan Thị Thu Hà; Luận văn thạc sĩ “ Chất lượng TGPL của Trung tâm TGPL tỉnh Bắc Ninh” của tác giả Nguyễn Đức Trực; Luận văn thạc sĩ “ Thực hiện pháp luật về TGPL cho người nghèo ở Việt Nam” của tác giả Vũ Thị Hoàng Hà;…. - Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: “Mô hình tổ chức và hoạt động TGPL, phương hướng thực hiện trong điều kiện hiện nay”; bài viết “ Luận cứ khoa học và thực tiễn xây dựng pháp lệnh TGPL”; bài viết “ Chất lượng vụ việc TGPL” Ts.Tạ Thị Minh Lý, Tạp chí Dân chủ pháp luật, Bộ Tư Pháp, số chuyên đề tháng 10/2009, tr.2-8; Bài viết “ Đánh giá chất lượng vụ việc TGPL là hình thức giám sát hiệu quả nhất về thi hành pháp luật TGPL” Ts. Tạ Thị Minh Lý, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp - Văn phòng Quốc Hội; Bài viết “ Chất lượng vụ việc TGPL và các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng vụ việc TGPL” của Đỗ Xuân Lân; Tạp chí Dân chủ pháp luật, Bộ Tư Pháp , số 1/2008, tr.22-29; Bài viết “ Chất lượng vụ việc TGPL” của Nguyễn Hải Anh, Tạp chí Dân chủ pháp luật, Bộ Tư Pháp, số 5/2008; bài viết “ Tiêu chí đánh giá chất lượng vụ việc TGPL” chuyên đề của Cục TGPL, Bộ Tư Pháp, 2008; Bài viết “ Tiêu chí đánh giá chất lượng cung ứng dịch vụ công tại các cơ quan hành chính nhà nước” của PGS.Ts Nguyễn Hữu Hải, Ths. Lê Văn Hòa, Học viện hành chính, Tạp chí Tổ chức nhà số 3/2010; Báo cáo Tổng kết 08 năm triển khai Luật TGPL năm 2006 của Bộ Tư Pháp năm 2015…. Hầu hết các công trình nghiên cứu TGPL nêu trên đều ở tầm vĩ mô, chiến lược khi Nhà nước bước đầu thực hiện TGPL với tư cách là dịch vụ công trên phạm vi toàn quốc. Với đề tài “ Tổ chức và hoạt động TGPL từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận” trong phạm vi luận văn, tác giả sẽ đi sâu phân tích làm sáng tỏ các vần đề có liên quan đến hoạt động TGPL trên cả hai khía cạnh lý luận và thực tiễn tại Ninh Thuận, góp phần tìm ra giải pháp khoa học đưa hoạt động TGPL trong thời gian tới gần với người dân, đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích chính đáng của người dân nhất 5 là những người yếu thế trong xã hội; bảo đảm mọi tầng lớp người dân đều công bằng trước pháp luật, góp phần đưa chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đi vào cuộc sống, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục tiêu của Luận văn là nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống những vần đề lý luận và thực tiễn về mô hình hoạt động TGPL bao gồm khái niệm, mục tiêu, đặc điểm, thực trạng hoạt động của Trung tâm TGPL nhà nước trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận trong thời gian qua; trên cở sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động TGPL, giúp người dân nhất là những người “yếu thế” trong xã hội tiếp cận pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ. Để thực hiện mục tiêu trên, đề tài có nhiệm vụ: - Làm rõ cơ sở lý luận, pháp lý và cơ sở thực tiễn về hoạt động TGPL; - Phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động TGPL trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận. Làm rõ nguyên nhân những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế bất cập cũng như tình hình quản lý, đánh giá trong hoạt động TGPL trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận. - Đề xuất các giải pháp, kiến nghị để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động TGPL trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Luận văn tập trung nghiên cứu về những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp lý về hoạt động TGPL dưới gốc độ Luật Hiến Pháp và Luật Hành Chính. - Đề tài nghiên cứu công tác TGPL, tổ chức thực hiện TGPL, người thực hiện TGPL và đối tượng được TGPL trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận. - Thời gian nghiên cứu, khảo sát trong khoảng thời gian kể từ ngày Luật TGPL có hiệu lực (1/7/2007) đến năm 2016. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước, pháp luật; quan điểm chủ trương, chính sách của 6 Đảng, pháp luật của Nhà nước về vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Luận văn nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, luật học, phân tích - tổng hợp, thống kê, so sánh… 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn Luận văn góp phần làm rõ các vần đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động TGPL ở tỉnh Ninh Thuận. Từ đó đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần bảo đảm và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động TGPL trong thời gian tới. Luận văn góp phần khẳng định sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước về mặt pháp luật- công lý cho người dân nhất là những người yếu thế trong xã hội. Kết quả nghiên cứu có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc hoàn thiện các quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả thực tiễn hoạt động TGPL cho Ninh Thuận và các địa phương khác. 7. Cơ cấu của Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì nội dung của Luận văn bao gồm 03 chương như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về trợ giúp pháp lý. Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý tại Ninh Thuận. Chương 3: Quan điểm, giải pháp đảm bảo hiệu quả, chất lượng trợ giúp pháp lý tại Ninh Thuận. 7 Chƣơng 1 NHỮNG VẦN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ 1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của trợ giúp pháp lý 1.1.1. Khái niệm trợ giúp pháp lý Dưới góc độ ngôn ngữ học, “trợ giúp pháp lý” (TGPL) được sử dụng phổ biến từ giữa thế kỷ XX từ tiếng Anh là “Legal aid”. Đó là việc cung cấp cho những người không đủ khả năng có được đại diện pháp lý khi tiếp cận với hệ thống tư pháp. Nó được coi là trụ cột của tiếp cận công lý để bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, có quyền được tư vấn và quyền được xét xử một cách công bằng. Về dịch thuật, “legal aid” được dịch là “bảo trợ tư pháp”; “ hỗ trợ pháp lý”, khía cạnh “hỗ trợ”, “bảo trợ” gắn liền với tính chất “giúp đỡ” hoặc “trợ giúp”. Thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” thể hiện khái quát nhất nội dung chính của các hoạt động này. Theo Đại từ điển tiếng việt, “trợ giúp” là sự giúp đỡ, bảo trợ, hỗ trợ, giúp cho ai việc gì, đem lại cho ai cái gì đang lúc khó khăn, đang cần đến [44]. Thuật ngữ “pháp lý” được hiểu là lý lẽ, lẽ phải theo pháp luật; pháp lý là lý luận, luận điểm cơ bản đối với pháp luật của một chế độ [55]. Dưới góc độ luật định, pháp luật của một số nước định nghĩa về TGPL không đồng nhất như là [35, tr.10]: - “Sự trợ giúp trong việc sử dụng bất kỳ biện pháp nào mà một người có thể sử dụng, hơn cả các biện pháp đối với thủ tục tố tụng, liên quan đến việc áp dụng pháp luật” (Điều 2 Luật về TGPL năm 1988 của Anh); - Là hoạt động có mục đích tạo điều kiện cho người gặp khó khăn về tài chính có cơ hội tiếp cận với dịch vụ pháp lý (Québec -Canada); - Là tạo sự công bằng khi tiếp cận pháp luật của các cá nhân không thể thuê mướn luật sư, tạo cơ hội cho những người có thu nhập thấp (điều 1001 Luật về công ty dịch vụ pháp lý của Hoa Kỳ sửa đổi năm 1977); 8 - Là việc giúp đỡ một phần hoặc toàn bộ tài chính cho những người không có khả năng thanh toán cho các chi phí về tư vấn pháp luật, đại diện hoặc bào chữa trước tòa án (Đức). - Ở các nước ASEAN, TGPL được hiểu là hoạt động giúp đỡ pháp luật dành cho những đối tượng nhất định không có khả năng chi trả về tài chính. Ở Việt Nam, thuật ngữ “TGPL” chính thức được quy định trong Quyết định số 734/TTg ngày 06/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ,về việc thành lập tổ chức TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách. Từ đó, thuật ngữ “TGPL” xuất hiện phổ biến trong các văn bản pháp luật, sách báo và tạp chí. Trong quá trình xây dựng luật TGPL, các nhà nghiên cứu đã tham khảo khái niệm TGPL của một số nước trên thế giới. Dưới gốc độ khoa học ở Việt Nam, TGPL được hiểu “ là sự cung cấp dịch vụ pháp lý của Nhà nước và xã hội cho người nghèo, đối tượng chính sách và đồng bào dân tộc thiểu số qua các hình thức tư vấn pháp luật, đại diện, bào chữa nhằm bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật và thực hiện công bằng xã hội” (nghĩa rộng) hoặc “ là sự giúp đỡ của các tổ chức TGPL của Nhà nước cho người nghèo, đối tượng chính sách và đồng bào dân tộc thiểu số tiếp cận với các dịch vụ pháp lý (tư vấn pháp luật, đại diện, bào chữa), nhằm bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật và thực hiện công bằng xã hội” (nghĩa hẹp) [53]. Như vậy, hiện còn có nhiều ý kiến về TGPL, tuy nhiên, khái niệm được thể hiện trong luật TGPL là phù hợp hơn cả. Tại điều 3 Luật TGPL quy định: “ TGPL là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được TGPL bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật”[45, tr.3]. Cùng với khái niện đó, luật TGPL cũng xác định trách nhiệm nhà nước trong việc thực hiện TGPL tại điều 6 quy định: “ TGPL là trách nhiệm của Nhà nước, Nhà nước giữ vai trò nòng cốt trong việc thực hiện, tổ chức thực hiện TGPL; khuyên khích, tạo điều kiện để mặt trận tổ quốc việt nam và các tổ chức thành viên, tổ chức 9 hành nghề luật sư và luật sư, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác tham gia thực hiện, đóng góp, hỗ trợ hoạt động TGPL”. Từ khái niệm TGPL được thể hiện cụ thể như sau: Thứ nhất, từ góc độ nghề nghiệp, TGPL là dịch vụ pháp lý thuộc phạm trù nghề luật, có lịch sử ra đời và phát triển gắn với nghề luật sư. Nghể luật sư không phát triển thì khó có thể khởi động và phát triển TGPL, trừ khi Nhà nước có đủ điều kiện về nhân lực cung ứng. Chất lượng TGPL phụ thuộc chủ yếu vào nguồn lực nhân lực có chất lượng nên đòi hỏi người thực hiện TGPL có trình độ pháp lý, kỹ năng hành nghề cao, chuyên môn hóa, có đạo đức nghề nghiệp, có thời gian tích lũy kinh nghiệm và uy tín nghề nghiệp. Người thực hiện TGPL thường là luật sư (Nhà nước hoặc hành nghề tự do), chuyên gia pháp lý…hình thức TGPL là tư vấn, đại diện, bào chữa trong phạm vi và theo trình tự luật định. Thứ hai, từ góc độ chính trị, TGPL là phương thức tổ chức thực hiện đường lối của Đảng đã được thể chế hóa trong pháp luật, thông qua vận dụng pháp luật vào từng trường hợp cụ thể. Qua đó, đưa chủ trương, đường lối của Đảng vào cuộc sống, khắc phục sự bất cập trong hoạt động công vụ, tăng niềm tin của dân vào pháp luật. Nó còn là cơ chế để phát huy vai trò, tính đúng đắn của đường lối, chính sách đã được luật hóa. Công dân với tư cách là chủ thể của quyền lực nên họ phải đảm bảo về mặt pháp lý để họ được hưởng công bằng trong giải quyết tranh chấp, khiếu kiện hoặc xét xử. Qua TGPL, Nhà nước điều tiết, giải quyết các mối quan hệ xã hội đang có sự bất ổn, nhằm khắc phục bất cập của công vụ hoặc tình trạng quẫn bách phải tự “xử lý”, phải “chạy chọt” tốn kém. TGPL chính là công cụ góp phần khắc phục sự bất bình đẳng do phân tầng giàu nghèo, làm giảm bớt mâu thuẫn giai cấp, từ đó thiết lập sự ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ chế độ và định hướng các quan hệ xã hội theo ý chí của Nhà nước. Thứ ba, từ gốc độ kinh tế, TGPL là việc Nhà nước và xã hội tạo cơ chế để một người được nhận tư vấn pháp luật, được đại diện bảo vệ quyền lợi hoặc được bào chữa miễn phí hoặc giảm phí. Nhà nước có thể cung cấp kinh phí cho tổ chức nghề nghiệp (văn phòng luật sư, công ty luật…) hoặc lập ra các tổ chức hưởng 10 lương (Trung tâm TGPL) … Sự cung ứng tài chính của Nhà nước thực tế có giá trị xã hội và lợi ích kinh tế lớn khi góp phần giữ ổn định trật tự xã hội, tránh được chi phí giải quyết khiếu kiện không cần thiết để người dân yên tâm lao động sản xuất tạo ra nhiều của cải, vất chất cho xã hội [35, tr.13]. Cần phân biệt trợ giúp pháp lý so với một số hình thức trợ giúp khác như: - Trợ giúp pháp lý khác với trợ giúp người khuyết tật Theo Quyết định số 1019/QĐ-TTg, ngày 05/8/2012 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012-2020, mục tiêu: “Hỗ trợ người khuyết tật phát huy khả năng của mình để đáp ứng nhu cầu bản thân; tạo điều kiện để người khuyết tật vươn lên tham gia bình đẳng vào các hoạt động kinh tế - xã hội, góp phần xây dựng cộng đồng và xã hội” [ 27, tr.3]. Như vậy, hoạt động trợ giúp người khuyết tật là trợ giúp về cả vật chất và tinh thần trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, từ y tế, văn hóa, giáo dục, việc làm…và TGPL chỉ là một trong nhiều lĩnh vực trợ giúp đối với người khuyết tật. - Trợ giúp pháp lý khác với tư vấn pháp luật trong các dịch vụ có thu phí. Tư vấn pháp luật trong các dịch vụ pháp lý có thu phí được hiểu là việc giải đáp pháp luật, hướng dẫn cá nhân, tổ chức trong nước và nước ngoài xử sự đúng pháp luật; cung cấp dịch vụ pháp lý giúp cho các cá nhân, tổ chức thực hiện và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, cũng có thể hiểu là việc hướng dẫn, đưa ra ý kiến, giúp khách hàng soạn thảo các giấy tờ liên quan đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ [39]. Xét về mục đích TGPL và tư vấn pháp luật là cung cấp thông tin pháp lý cho các đối tượng, giúp họ hiểu được quyền và nghĩa vụ của mình trong các quan hệ pháp luật mà xử sự cho đúng. Tuy nhiên, tư vấn pháp luật trong các dịch vụ pháp lý có thu phí thì người được tư vấn pháp luật phải trả một khoản chi phí nhất định theo quy định của pháp luật hoặc theo sự thỏa thuận của hai bên không trái với quy định pháp luật còn TGPL thì người được TGPL được miễn phí hoàn toàn. Xét về đối tượng và lĩnh vực được tư vấn pháp luật trong các dịch vụ pháp lý có thu phí thì đối tượng rộng rãi, trên mọi các lĩnh vực mà pháp luật điều chỉnh so với TGPL thì đối tượng là những người “yếu thế” trong xã hội thuộc diện 11 người nghèo, người có công, người khuyết tật, người dân tộc) và lĩnh vực pháp luật bị hạn chế (chẳng hạn không được tư vấn pháp luật, thực hiện TGPL trong lĩnh vực kinh doanh thương mại). 1.1.2. Đặc điểm của trợ giúp pháp lý TGPL là một trong những chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta, nhằm góp phần chăm lo cho người dân thuộc các đối tượng yếu thế trong xã hội, những đối tượng không có điều kiện về mặt kinh tế để thuê các dịch vụ pháp lý có thu phí. Do khả năng hiểu biết pháp luật còn hạn chế, nên các đối tượng yếu thế trong xã hội không thể tự mình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm hại, do đó nhà nước phải có trách nhiệm bảo vệ họ, đồng thời khuyên khích toàn thể xã hội tham gia vào hoạt động TGPL. Về người được trợ giúp pháp lý: Ở các nước, người được TGPL có điểm chung là người nghèo và người không có khả năng thanh toán chi phí khi tiếp cận dịch vụ pháp luật (Canada, Hàn Quốc, Philippine, Thái Lan) hoặc đối tượng yếu thế (phụ nữ, vị thành niên, người già cô đơn không nơi nương tựa, người khuyết tật). Theo Luật Nam úc, người được TGPL là người nghèo, người khuyết tật, người bị thiệt thòi. Một số nước lại TGPL cho người có hoàn cảnh khó khăn (Trung Quốc, Đức), người không có điều kiện thuê luật sư (Singapore) hoặc bao gồm tất cả công dân (Thụy Điển, Nam Phi) [35, tr.13]. Ở Việt Nam, với bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII khẳng định: “tạo điều kiện cho người nghèo được hưởng dịch vụ tư vấn pháp luật miễn phí...” [1] để cụ thể hóa những chủ trương, chính sách của Đảng, ngày 06/07/1997, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 734/TTg về việc thành lập tổ chức TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách. Luật TGPL ra đời thể hiện nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, sống và làm việc theo pháp luật, tăng cường pháp chế XHCN, khẳng định Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đối tượng được hưởng các quyền và lợi ích 12 từ TGPL phần lớn là những người yếu thế trong xã hội như: “người nghèo, người có công với cách mạng, người già cô đơn, người khuyết tật, trẻ em không nơi nương tựa và người dân tộc thiểu số sống tại vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn” [45]. TGPL là hoạt động hoàn toàn miễn phí, do ngân sách nhà nước chi trả, không thu bất kỳ một khoản phí hay lệ phí nào từ người được TGPL, cũng như người thực hiện TGPL không được đòi hỏi bất kỳ lợi ích nào từ phía người được TGPL. Điều đó, thể hiện vai trò, trách nhiệm của Nhà nước đối với nhân dân, nhất là các đối tượng yếu thế trong xã hội. Về cơ cấu tổ chức trợ giúp pháp lý Hầu hết các nước đều có hệ thống TGPL bao gồm: TGPL của nhà nước và các tổ chức TGPL phi chính phủ (TGPL xã hội). Hệ thống TGPL của Nhà nước được tổ chức từ Trung ương đến địa phương, có nhiệm vụ thực hiện miễn phí cho những đối tượng nhất định mà chủ yếu là người nghèo. Hoạt động của hệ thống này do Nhà nước cấp kinh phí và chịu trách nhiệm báo cáo về hoạt động của mình. Ở Trung Quốc hệ thống TGPL của Nhà nước được tổ chức tương ứng với hệ thống tòa án (cấp trung ương, cấp đặc khu, cấp tỉnh và cấp huyện). Ở một số nước tồn tại song song với hệ thống TGPL của nhà nước là các tổ chức TGPL phi Chính phủ và TGPL của luật sư tư. Ví dụ ở Canada gồm tổ chức TGPL cộng đồng, hội TGPL sinh viên, tổ chức TGPL thổ dân...[35, tr.17]. Về người thực hiện trợ giúp pháp lý Nhìn chung ở các nước, hoạt động TGPL chủ yếu được thực hiện bởi đội ngũ luật sư chuyên nghiệp. Ngoài ra, một số nhóm người khác như sinh viên, cán bộ pháp luật nhà nước, người có kiến thức pháp luật được thu hút khuyến khích làm TGPL. Như ở Hàn Quốc, có ba nhóm người được thực hiện TGPL: (i) Luật sư do tổ chức TGPL tuyển dụng-Cục trợ giúp pháp lý tuyển dụng luật sư để thực hiện vụ việc TGPL; (ii) Ủy viên TGPL, Cục trợ giúp pháp lý chỉ định luật sư làm ủy viên TGPL để thực hiện các vụ việc đại diện, bào chữa, khi các luật sư đều bận hoặc 13 không có luật sư; (iii) Luật sư công là người được Bộ trưởng Bộ Tư pháp chỉ định thực hiện TGPL nhưng không phải luật sư mà chỉ là người có am hiểu về luật. Về phạm vi và hình thức trợ giúp pháp lý Hầu hết các quốc gia đều xác định tư vấn pháp luật thuộc phạm vi TGPL. Một số quốc gia, phạm vi TGPL còn bao gồm đại diện, bào chữa, cung cấp thông tin tài liệu pháp luật, trung gian hòa giải, trợ giúp trong hoạt động điều tra, vào trại giam, TGPL lưu động (Philippine, Úc…). Tuy nhiên, mỗi nước đều quy định một số điều kiện để được TGPL. Theo pháp luật của Đức và Úc, vụ việc phải thỏa mãn ba điều kiện: tình hình tài chính của đối tượng xin trợ giúp có khó khăn, có cơ sở cho rằng có khả năng thắng kiện, yêu cầu trợ giúp pháp lý phải hợp lý và hợp pháp. Ở Việt Nam các hình thức hoạt động TGPL như: tổ chức các đợt TGPL lưu động về cơ sở để tuyên truyền, tư vấn pháp luật; tổ chức sinh hoạt câu lạc bộ TGPL để giải quyết những vướng mắc pháp luật, cung cấp thông tin pháp lý nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật và ý thức pháp luật; TGPL được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực pháp luật trừ lĩnh vực kinh doanh thương mại (đa số các nước không TGPL trong vụ việc kinh doanh thương mại bởi đối tượng tham gia kinh doanh thương mại là những người giàu có, đủ khả năng chi trả chi phí cho dịch vụ pháp lý có thu phí, trong khi đó bản chất của hoạt động TGPL mang tính nhân đạo, dành cho một số đối tượng đặc biệt, có hoàn cảnh khó khăn) [35, tr.17- 21]. 1.1.3. Vai trò của trợ giúp pháp lý Gần 20 năm hình thành (từ năm 1997-2016) và phát triển công tác TGPL có một vị trí, vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN đồng thời TGPL là một bộ phận bảo đảm thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước, thể hiện bản chất Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân và là bản chất của chế độ ta. Nhà nước không chỉ là công cụ bạo lực, bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền, mà nó còn là tổ chức đại diện cho toàn thể dân cư trong lãnh thổ quốc gia. Vì vậy, bản chất của Nhà nước thể hiện qua tính giai cấp và tính xã hội. Khi đã là dân cư trong lãnh thổ quốc gia, mọi người dân đều phải có trách nhiệm trong việc duy trì sự tồn tại của Nhà nước thông qua việc thực hiện các nghĩa 14 vụ nhất định. Tuy nhiên, không chỉ người dân có nghĩa vụ đối với Nhà nước, mà Nhà nước cũng phải có trách nhiệm duy trì trật tự xã hội, bảo đảm an ninh và bảo vệ các lợi ích chính đáng của người dân. Để thực hiện nghĩa vụ đó, Nhà nước dùng pháp luật và những công cụ cần thiết khác, trong đó có những cơ chế bảo đảm thực thi các quyền đó giúp người dân hiểu biết pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ khi những quyền lợi ích đó bị xâm hại và vi phạm, nói cách khác, nhà nước phải có trách nhiệm giữ gìn, duy trì và bảo đảm sự công bằng cho người dân, nhất là những người nghèo và một số đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt. - TGPL là một bộ phận quan trọng cấu thành chính sách xã hội, gắn tăng trưởng kinh tế với bảo đảm công bằng xã hội; chính sách xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa và chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước ta là xóa đói giảm nghèo, thực hiện dân chủ và công bằng xã hội. Hiện nay, mục tiêu xóa đói giảm nghèo đã được coi là một trong những quyết sách quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế xã hội của đất nước. TGPL cho người nghèo và đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi là nội dung quan trọng của chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo quốc gia. - TGPL thuộc chế định tư pháp bảo trợ gắn với bảo đảm quyền con người, quyền công dân nhằm thực thi dân chủ, tăng cường pháp chế, bảo đảm công bằng xã hội để mọi người công dân không phân biệt giàu nghèo đều bình đẳng trước pháp luật, được tiếp cận với dịch vụ pháp luật như nhau trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường. - TGPL là một trong những hình thức đưa chủ trương, chính sách xóa đói giảm nghèo, đển ơn đáp nghĩa và bảo đảm công bằng xã hội của Đảng và Nhà nước đi vào cuộc sống, nhằm tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, góp phần hoàn thiện bộ máy nhà nước, hoàn thiện pháp luật và nâng cao trách nhiệm công vụ, góp phần thiết thực bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. - TGPL góp phần nâng cao ý thức pháp luật và trình độ dân trí để cho nhân dân tự mình biết cách ứng xử phù hợp với quy định của pháp luật, góp phần lành mạnh hóa quan hệ xã hội và xây dựng nếp sống văn minh “sống và làm việc theo 15 pháp luật”; thực sự là địa chỉ đáng tin cậy để người nghèo và các đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt tìm đến mỗi khi có vướng mắc về pháp luật. - TGPL là một bộ phận của công tác dân vận, góp phần củng cố lòng tin của người dân vào Đảng và Nhà nước cũng như chính sách, pháp luật, thực sự là cầu nối giũa nhân dân với Đảng và Nhà nước với nhân dân, góp phần ổn định chính trị, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội và thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, nâng cao trách nhiệm trong thực thi công vụ và hoàn thiện hệ thống pháp luật. 1.2. Các quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý 1.2.1. Các quy định pháp luật về tổ chức trợ giúp pháp lý Từ khi thành lập tổ chức TGPL vào năm 1997 đến nay, Nhà nước ta đã ban hành hệ thống pháp luật về TGPL khá đầy đủ và đồng bộ, đảm bào cho TGPL đạt hiệu quả. Cụ thể như sau: Để thành lập tổ chức TGPL ở Việt Nam, ngày 06/09/1997, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 734/TTg về việc thành lập hệ thống tổ chức TGPL cho người nghèo, đối tượng chính sách. Theo đó, ở Trung ương thành lập Cục TGPL thuộc Bộ Tư pháp, ở địa phương thành lập Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước thuộc Sở Tư pháp. Nhằm tăng cương quản lý nhà nước về công tác TGPL, ngày 01/3/2000, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 05/2000/CT-TTg về việc tăng cường công tác TGPL, theo đó chỉ đạo Bộ Tư pháp là đầu mối phối hợp với các bộ, ngành, cơ quan, tổ chức hữu quan có trách nhiệm thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước về công tác TGPL; tập trung chỉ đạo các cơ quan tư pháp địa phương và tổ chức TGPL đẩy mạnh các hoạt động nghiệp vụ TGPL, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân tiếp cận dịch vụ pháp lý miễn phí của nhà nước. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế về TGPL, ngày 29/6/2006, Quốc hội đã thông qua Luật TGPL để nâng tầm thể chế từ Quyết định của Thủ tướng Chính phủ thành luật. Luật TGPL ra đời đã mở rộng đối tượng được TGPL, quy định cơ cấu tổ chức, chức năng nhiệm vụ của Trung tâm và các chi nhánh TGPL, người thực hiện TGPL, cơ chế quản lý nhà nước và cơ chế phối hợp thực hiện TGPL, từ đó tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động TGPL đạt hiệu quả. Cùng với luật TGPL, ngày 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan