Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tổ chức một số hoạt động trong giờ ngữ văn nhằm hướng tới phát triển năng lực họ...

Tài liệu Tổ chức một số hoạt động trong giờ ngữ văn nhằm hướng tới phát triển năng lực học sinh

.PDF
24
2909
152

Mô tả:

Phòng GD – ĐT Quận Tân Bình Trường THCS Tân Bình Tổ Ngữ Văn CHUYÊN ĐỀ TỔ CHỨC MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG TRONG GIỜ HỌC NGỮ VĂN NHẰM HƯỚNG TỚI PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CHO HỌC SINH. A. ĐẶT VẤN ĐỀ. Trong khoảng một thập niên trở lại đây, việc thay sách giáo khoa và đổi mới phương pháp dạy – học Ngữ văn đã tiến hành rộng khắp trong cả nước. Vai trò và mối quan hệ giữa người dạy và người học đã khác trước. Sự chủ động, tích cực của học sinh trong giờ học được đề cao. Các phương tiện dạy – học phong phú hơn. Đội ngũ thầy, cô giáo trực tiếp đứng lớp được bồi dưỡng thường xuyên về chuyên môn, về đổi mới phương pháp dạy học và đổi mới kiểm tra, đánh giá. Chính vì vậy, chất lượng dạy và học Ngữ văn trong nhà trường THCS có nhiều chuyển biến đáng kể. Tuy nhiên, kết quả dạy – học Ngữ văn ở trường THCS đã thực sự bắt kịp với sự phát triển của thời đại, bắt kịp với yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa hay chưa thì thật sự còn có nhiều điều đáng bàn. Đứng trước bối cảnh hiện nay, chúng tôi thực hiện chuyên đề “ Tổ chức một số hoạt động trong giờ Ngữ văn nhằm hướng tới phát triển năng lực học sinh”. Qua đây chúng tôi mong muốn được cùng trao đổi và được cùng học tập từ các thầy cô nhằm nâng cao chất lượng bộ môn và trau dồi về chuyên môn. B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ. I. Thực trạng việc dạy và học Ngữ văn hiện nay Kể từ vài năm trở lại đây, vấn đề đổi mới nội dung, phương pháp dạy Ngữ văn thực sự là giải pháp có tính chiến lược để nâng cao chất lượng dạy và học môn Văn trong trường phổ thông. Giáo viên mặc dù có ý thức đổi mới phương pháp dạy học văn nhưng việc thực hiện chỉ mới mang tính hình thức, thử nghiệm chứ chưa đem lại hiệu quả như mong muốn. Tình trạng đổi mới nội dung, phương 1 pháp dạy học ở môn Ngữ Văn còn rơi vào vòng luẩn quẩn, ít có chuyển biến mạnh và hiệu quả cao. Trên nhiều phương tiện thông tin đại chúng cũng như qua trao đổi, phản ảnh của nhiều nhà giáo trực tiếp dạy học bộ môn, trong quá trình kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh chúng ta nhận thấy một thực trạng đáng buồn về chất lượng dạy học Ngữ văn. Khảo sát nhiều bài kiểm tra của nhiều học sinh cho thấy các em viết sai chính tả là lỗi phổ biến nhất. Những lỗi chính tả thường gặp là tên riêng không viết hoa, rất nhiều bài văn từ đầu đến cuối không có dấu chấm câu, hoặc có chăng cũng là dùng dấu câu tùy tiện không theo quy luật nào, không phù hợp với cách diễn đạt. Nhiều từ đơn giản các em vẫn viết không đúng. Cùng với lỗi chính tả là lỗi dùng từ, đặt câu. Đoạn văn thì viết câu què, câu cụt, câu sai cấu trúc ngữ pháp, sai lô-gich diễn đạt. Nhiều câu văn của học sinh khi đọc lên người đọc không hiểu nổi là học sinh muốn viết gì. Điều đó cho thấy học sinh hết sức lơ mơ về kiến thức bộ môn. Có một thực tế hiện nay là rất ít học sinh biết rung động trước những tác phẩm văn chương hay. Do vậy, khi làm bài học sinh còn suy luận chủ quan, dung tục hóa văn chương. Vẫn còn một bộ phận không nhỏ học sinh làm bài sai kiến thức cơ bản. Tình trạng “Bức râu ông nọ cắm cằm bà kia” không phải là không phổ biến. Học sinh nhầm chi tiết của tác phẩm này với tác phẩm khác, sai tên tác giả, tác phẩm, lẫn lộn nhà văn này với nhà văn khác. Những tồn tại trên là do: SÁCH GIÁO KHOA - Chương trình: ngữ liệu được lựa chọn đưa vào sách giáo khoa còn vượt quá ngưỡng tiếp nhận của học sinh. - Sách giáo khoa: biên soạn theo hướng nặng về cung cấp kiến thức chưa chú trọng đến việc phát huy năng lực cho học sinh. - Một số nội dung kiến thức không phù hợp vẫn chiếm thời lượng khá lớn. GIÁO VIÊN - Việc đổi mới phương pháp dạy – học chưa đồng bộ, nhiều giáo viên chưa tích cực trong việc đổi mới phương pháp: vẫn tồn tại phương pháp dạy học một chiều: thầy giảng trò chép ( lối dạy nhồi nhét kiến thức để thi cử). - Nhiều phát hiện, tìm tòi mới mẻ HỌC SINH - Thói thụ động trong học tập là nguyên nhân cơ bản dẫn đến chất lượng dạy – học Ngữ văn chưa đạt với yêu cầu. - Các em không quan tâm đến các hoạt động để tự tìm đến tri thức mà quen nghe, quen chép, ghi nhớ và tái hiện lại một cách máy 2 - - - - của học sinh được trình bày mà không đúng với những gì giáo viên đã đọc được, đã nghiên cứu thì không được ghi nhận, thậm chí là bác bỏ ý kiến đó làm cho người học nhụt chí trong việc phát biểu cảm nhận về tác phẩm văn học. Giáo viên chưa được trang bị kĩ, đồng bộ những quan điểm và lý luận về phương pháp dạy – học văn mới trong thời đại ngày nay. Sự thiếu thốn về phương tiện, thiết bị dạy – học bộ môn. Số lượng công việc của người giáo viên Ngữ văn ở trường THCS còn quá nhiều, vì vậy ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình tự học, tự nghiên cứu để phục vụ cho giờ dạy. Người giáo viên ngữ văn THCS phải cán đán một số lượng công việc rất lớn về chuyên môn: Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn. Ngoài ra, người giáo viên Ngữ văn phải dành không ít thời gian vào việc chấm, chữa bài cho học sinh, làm hồ sơ sổ sách theo quy định.  HỆ QUẢ: dẫn tới tiết học kém hấp dẫn, nặng về cung cấp kiến thức, dễ sa vào lối đọc chép. móc, rập khuôn những gì mà giáo viên đã giảng - Vì chưa có hào hứng, chưa quen bộc lộ những suy nghĩ, tình cảm của cá nhân trước tập thể cho nên khi phải nói và viết, học sinh cảm thấy rất khó khăn. - Nhiều học sinh chưa nhận thức được tầm quan trọng của bộ môn Ngữ văn và việc học lệch vì mục đích thi cử. Số đông học sinh và cả định hướng của phụ huynh là tập trung vào các môn học tự nhiên để sau này thi cử thuận lợi còn học môn Ngữ văn chỉ là đủ điểm lên lớp. -  HỆ QUẢ: dẫn đến lối học ghi nhớ máy móc, nhàm chán, không yêu thích bộ môn. II. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN 1. Mục đích việc tổ chức các hoạt động dạy học ngữ văn nhằm hướng tới việc phát huy năng lực học sinh. Tổ chức các hoạt động giáo dục trong giờ học có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách và phát huy năng lực cho học sinh. Nếu chức năng của dạy học là cung cấp những tri thức mang tính khoa học, hình thành các kỹ năng, kỹ 3 xảo tương ứng từ đó phát triển thế giới quan, nhân sinh quan cho học sinh thì giáo dục còn có chức năng giúp hình thành thái độ, niềm tin, năng lực thông qua các hoạt động giáo dục. a.Về nhận thức: - Hoạt động giáo dục giúp học sinh nắm chắc các tri thức đã học, củng cố, bổ sung, nâng cao hiểu biết, có khả năng vận dụng các tri thức đã học để giải quyết các vấn đề thực tiễn. - Giúp phát triển tư duy, phẩm chất trí tuệ. b.Về kỹ năng: - Hoạt động giáo dục giúp học sinh hình thành và phát huy các năng lực: + Năng lực tự học: Học tập một cách tự giác, chủ động. + Năng lực giải quyết vấn đề: Phân tích, phát hiện và nêu được tình huống có vấn đề trong học tập, từ đó đưa ra giải pháp giải quyết vấn đề phù hợp. + Năng lực sáng tạo: Phát hiện yếu tố mới, tự do trong suy nghĩ, chủ động nêu ý kiến. + Năng lực tự quản lý: Tự đánh giá, điều chỉnh hoạt động cũng như cảm xúc của mình trong học tập và cuộc sống hàng ngày. + Năng lực giao tiếp: Biết lắng nghe và biết diễn đạt ý tưởng một cách tự tin. + Năng lực hợp tác: Biết vai trò, nhiệm vụ của mình trong nhóm, hoàn thành phần nhiệm vụ được giao. + Năng lực sử dụng CNTT và truyền thông: Sử dụng ICT thành thạo để thực hiện các nhiệm vụ cụ thể trong học tập. + Năng lực sử dụng ngôn ngữ: Phát âm đúng nhịp điệu và ngữ điệu. Vận dụng từ vựng trong mọi ngữ cảnh. + Năng lực tính toán: Hiểu được mối quan hệ toán học giữa các yếu tố trong các tình huống học tập và trong đời sống. - Hoạt động giáo dục còn giúp học sinh tự điều chỉnh, hành vi, thái độ phù hợp. c. Về thái độ: - Hoạt động giáo dục giúp học sinh bồi dưỡng hứng thú, tích cực học tập, phát huy năng lực và tính sáng tạo của học sinh. - Với việc đổi mới phương pháp dạy học như hiện nay, vai trò của người giáo viên không còn là người truyền thụ kiến thức mà là người tổ chức, kiểm tra, định hướng hoạt động của học sinh cả ở trong lớp và ngoài lớp học. - Dạy học nhằm phát triển năng lực cho học sinh đòi hỏi phải tổ chức các hoạt động dạy học tích cực, tự lực và sáng tạo cho học sinh, đặc biệt quan tâm đến hoạt động thực hành và ứng dụng kiến thức vào giải quyết vấn đề thực tiễn. - Người học không phải đặt trước những kiến thức có sẵn trong sách giáo khoa hay trong bài giảng của thầy mà được đặt vào những tình huống của đời sống 4 thực tế, từ đó có nhu cầu hứng thú giải quyết vấn đề. Người học trực tiếp quan sát, thảo luận, đặt giả thiết, vấn đề để tìm ra kiến thức, chân lí. - Các hoạt động phải hướng đến rèn luyện phương pháp và hình thức tổ chức dạy học có thể giúp học sinh: Học tập với niềm say mê, hứng thú, khát khao. Lĩnh hội tri thức trong các cuộc học tập tích cực, chủ động, sáng tạo, theo phương pháp khoa học. Học trong sự tương tác, trong việc hình thành các quan hệ hợp tác, thân thiện, cùng nhau giải quyết các vấn đề học tập. - Tuy nhiên, việc lựa chọn tổ chức các hoạt động dạy học cần phải chú ý: * Sự tương thích với nội dung học tập: Mỗi nội dung dạy học đều liên hệ mật thiết với những hoạt động nhất định. Hoạt động được gọi là tương thích với nội dung nếu nó được tiến hành trong quá trình hình thành hoặc vận dụng nội dung đó. Ví dụ 1: Đối với phân môn Tiếng Việt. Áp dụng trong bài “ Điệp ngữ”. Trong phần hình thành kiến thức: Điệp ngữ là gì? Mục đích: giúp học sinh phát hiện ra lỗi lặp từ ngữ và nhận dạng được biện pháp nghệ thuật điệp ngữ. Hoạt động: Chúng ta có thể áp dụng phép so sánh. Bước 1: giáo viên đưa ngữ liệu. “ …. Cháu chiến đấu hôm nay Vì lòng yêu Tổ quốc Vì xóm làng thân thuộc Bà ơi, cũng vì bà Vì tiếng gà cục tác Ổ trứng hồng tuổi thơ.”  Điệp ngữ. “ Phía sau nhà em có một mảnh vườn. Mảnh vườn ở phía sau nhà em, em trồng rất nhiều loại hoa. Em trồng hoa cúc. Em trồng hoa thược dược. Em trồng hoa đồng tiền. Em trồng hoa hồng. Em trồng cả hoa lay ơn nữa. Ngày Phụ nữ quốc tế, em hái hoa sau vườn nhà em tặng mẹ em. Em hái hoa tặng chị em…”  Lỗi lặp từ. Bước 2: học sinh phát hiện, đưa ra ý kiến. Bước 3: giáo viên nhận xét, chốt ý. Ví dụ 2: Đối với phân môn Văn. Áp dụng trong văn bản: “Cây tre Việt Nam” của Thép Mới (lớp 6). Mục đích: học sinh nhận biết được vẻ đẹp bình dị cũng như phẩm chất quý báu của cây tre. 5 Hoạt động: tổ chức hoạt động thuyết trình. Bước 1: các tổ cử đại diện lên thuyết trình phần chuẩn bị trước ở nhà. Bước 2: giáo viên nhận xét. Bước 3: giáo viên chốt. Học sinh quan sát hình ảnh thực tế: cây tre trong đời sống thường nhật và cây tre trong chiến đấu. Ví dụ 3: Đối với phân môn Tập làm văn. Áp dụng trong tiết: Tìm hiểu chung về văn nghị luận. Mục đích: giúp học sinh nhận biết về thể loại văn nghị luận. Hoạt động: tổ chức hoạt động thảo luận nhóm. Học sinh thảo luận về một vấn đề đã cho. Tên vấn đề thảo luận: “ Vì sao môi trường ngày càng bị ô nhiễm?”. Bước 1: Giáo viên chia nhóm, phổ biến thời gian. Bước 2: Đại diện các nhóm lên trình bày. Bước 3: Giáo viên nhận xét phần trình bày của các nhóm. Bước 4: Giáo viên chốt. * Sự hứng thú, thói quen của học sinh, kinh nghiệm sư phạm của giáo viên. - Hứng thú được biểu hiện ở sự tập trung cao độ, ở sự say mê, hấp dẫn bởi nội dung hoạt động, ở bề rộng và chiều sâu của hứng thú. - Hứng thú làm nảy sinh khát vọng hành động, làm tăng hiệu quả của hoạt động nhận thức, tăng sức làm việc. - Cùng với tự giác, hứng thú làm nên tính tích cực nhận thức, giúp học sinh học tập đạt kết quả cao, có khả năng khơi dậy mạch nguồn của sự sáng tạo. - Để tạo hứng thú cho học sinh trong học tập chúng ta có thể áp dụng các hoạt động sau: + Tạo hứng thú học tập bằng cách làm cho học sinh nhận thức được mục tiêu, lợi ích của bài học. Hứng thú học tập trước hết được tạo ra bằng cách làm cho HS ý thức được lợi ích của việc học để tạo động cơ học tập. Mục tiêu này có thể được trình bày một cách tường minh ngay trong tài liệu học tập hoặc có thể trình bày thông qua các tình huống dạy học cụ thể. + Tạo hứng thú học tập bằng cách tác động vào nội dung dạy học Nội dung dạy học được chia ra rất nhiều cấp độ. Ví dụ trong môn Tiếng Việt, trước hết đó là các phân môn, các mạch kiến thức - kĩ năng, cụ thể hóa đến nhóm, kiểu, dạng bài tập và cho đến tận từng bài tập cụ thể. Từ bình diện nội dung dạy học, trên một bài tập, ta có thể tác động vào phần lệnh hoặc phần ngữ liệu. 6 Ngữ liệu tiếng Việt trở nên hấp dẫn khi thể hiện tính năng sản sinh của ngôn ngữ. Ví dụ, tiếng “học”, từ “tay”... hoàn toàn trở thành ngữ liệu hấp dẫn trong các bài tập: Tìm các từ có chung tiếng “học”, tìm thành ngữ, tục ngữ cùng chứa từ “tay”... Vì tiếng “học” có mặt trong rất nhiều từ ngữ: học bạ, học bổng, học cụ, học đòi, học đường, học gạo, học giả, học hành, học hỏi, học kì, học lỏm, học phí, học sinh, học tập... từ tay xuất hiện trong thành ngữ, tục ngữ. +Tạo hứng thú học tập bằng việc xây dựng môi trường thân thiện giữa thầy và trò, trò và trò Bên cạnh việc tác động vào nội dung và phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, việc thiết lập được mối quan hệ hợp tác tích cực tốt đẹp giữa thầy và trò, giữa các trò cũng sẽ tạo hứng thú cho học sinh. Hình thức tổ chức dạy học hấp dẫn cùng với một bầu không khí thân ái hữu nghị trong giờ học sẽ tạo ra sự hứng thú cho cả thầy và trò. Ngoài những hoạt động trên, từ kinh nghiệm giảng dạy việc giúp học sinh có hứng thú trong các môn học còn có một số nguyên nhân khác như: + Giáo viên và học sinh tạo không khí học tập vui vẻ. + Học sinh có niềm đam mê với môn học. + Học sinh biết học để tìm tòi những điều mới mẻ, tư duy logic, sáng tạo hơn. + Học sinh thấy được tầm quan trọng của việc học… + Giáo viên ưu tiên lựa chọn áp dụng các hoạt động nghe nhìn, sử dụng truyền thông đa phương tiện trong tiết dạy. * Thay đổi hình thức tổ chức dạy học. - Hình thức tổ chức dạy học là hình thức vận động của nội dung dạy học cụ thể trong không gian, địa điểm và những điều kiện xác định nhằm thực hiện nhiệm vụ và mục tiêu dạy học. -Trong tiết dạy giáo viên cần tổ chức nhiều hình thức dạy học khác nhau, xen kẽ, lồng ghép trong bài dạy một cách linh hoạt tránh rập khuôn để gây hứng thú cho học sinh. Có thể khi giới thiệu bài mới giáo viên tổ chức trò chơi, khi hình thành kiến thức giáo viên có thể lồng cho thực hành, củng cố từng phần. * Phải phù hợp với điều kiện dạy học. - Khi tổ chức các hoạt động dạy học giáo viên cần phải áp dụng phù hợp với điều kiện vật chất của trường như: không gian lớp học, sĩ số học sinh của từng lớp, trình độ học sinh; thiết bị dạy học như: các thiết bị nghe, nhìn, máy chiếu, bảng phụ, phiếu học tập, bảng tương tác…. 7 -Ngoài ra, giáo viên tổ chức các hoạt động dạy học phải khai thác cao nhất các tính năng của các thiết bị dạy học tại cơ sở nhằm đạt được các mục tiêu dạy học và thể hiện rõ tư tưởng sư phạm. 2. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN. 2.1.Những định hướng chung. Đối với môn Ngữ Văn, khi vận dụng các PPDH, cách tổ chức dạy học đặc biệt chú trọng các phương pháp dạy học, hướng dẫn học sinh biết kiến tạo tri thức và nền tảng văn hoá cho bản thân từ những cảm nhận, suy nghĩ và những trải nghiệm của cá nhân trong cuộc sống. Tăng cường tính giao tiếp, khả năng hợp tác của học sinh trong giờ học Ngữ Văn qua các hoạt động thực hành, luyện tập trao đổi,... 2.2 Những định hướng cụ thể. 2.2.1. Đối với phân môn văn – Đọc hiểu văn bản. a. Hoạt động khởi động: Đây là công việc tạo tâm thế “nhập cuộc” cho học sinh. Nói đến “tâm thế” là nói đến khái niệm “chú ý”- một khái niệm của khoa tâm lí học. Chú ý là sự tập trung của ý thức vào một đối tượng, sự vật,... nào đó, để định hướng hoạt động, đảm bảo điều kiện thần kinh – tâm lí cần thiết cho hoạt động tiến hành có hiệu quả. Nhờ sự tập trung chú ý mà trong một thời điểm, giữa sự chi phối của nhiều hướng và nhiều vấn đề tác động, có thể tách được một phạm vi chú ý xác định thành đối tượng để chủ thể hướng vào đó mà tiến hành hoạt động chiếm lĩnh đối tượng ấy. Mục đích: Kích thích sự tò mò, khơi dậy hứng thú của học sinh về chủ đề sẽ học. Học sinh cảm thấy vấn đề gần gũi với các em. Không khí lớp học vui, chờ đợi, thích thú. Hoạt động này sẽ giúp cho học sinh phát huy năng lực hợp tác, sáng tạo, giải quyết vấn đề, sử dụng ngôn ngữ, ... Cách thực hiện: Giáo viên có thể dẫn dắt từ bài cũ sang bài mới, có thể đặt câu hỏi, kể chuyện, đặt một tình huống, khai thác kênh nhạc, kênh phim, kênh hình, tổ chức trò chơi hoặc sử dụng 1 số hình thức khác để giới thiệu bài mới. Ví dụ: Để giới thiệu bài “Chiếc lược ngà” (lớp 9). Ta có thể cho HS xem bức tranh sau và cho biết nhân vật trong tranh nói gì, từ đó giới thiệu về tình cha con rồi dẫn đến văn bản cần học. Với hoạt động này, ta có thể giúp HS phát triển kĩ năng sáng tạo, năng lực sử dụng ngôn ngữ. 8 Hiệu quả: - Xác lập trật tự cho giờ học, để lại những ấn tượng sâu sắc, học sinh hứng thú tham gia. b. Hoạt động hình thành kiến thức. Đây là hoạt động trọng tâm trong tiết dạy, chiếm nhiều thời gian nhất trong một tiết học. Ở hoạt động này, GV giữ vai trò, chức năng tổ chức, hướng dẫn, định hướng chứ không phải truyền thụ áp đặt một chiều. HS được đặt vào vị trí trung tâm của quá trình tiếp nhận, đóng vai trò chủ thể cảm thụ, nhận thức thẩm mĩ để tự nhận thức, tự giáo dục và phát triển theo mục đích định hướng giáo dục của GV.Trong đó, hệ thống câu hỏi phù hợp đương nhiên là xương sống của một thiết kế giáo án. Có nhiều dạng câu hỏi để học sinh sử dụng: - Loại câu hỏi gợi mở. - Loại câu hỏi tái hiện. - Loại câu hỏi nêu vấn đề. - Loại câu hỏi cảm thụ. - Loại câu hỏi phân tích. … Tất cả các loại câu hỏi trên giúp học sinh phải chú ý vào bài và tăng cường tư duy hơn. Tuy nhiên, để tránh sự nhàm chán, mệt mỏi, tập trung kém của học sinh, người giáo viên nên tổ chức nhiều hoạt động để dẫn dắt học sinh chiếm lĩnh kiến thức. Có thể là những hoạt động sau: - Hoạt động thảo luận nhóm. - Hoạt động học theo góc. - Hoạt động đóng vai, tranh luận, giải quyết tình huống,… - Hoạt động thông qua hình thức trò chơi. Dưới đây là một vài hoạt động mà chúng tôi đã chọn để áp dụng: * Tổ chức đọc – hiểu văn bản: Mục đích: 9 - Cung cấp cho học sinh cách đọc, cách tiếp cận khám phá những vấn đề nội dung nghệ thuật của văn bản từ đó hình thành cho học sinh năng lực tự đọc một cách tích cực, chủ động, có sắc thái cá nhân. Các dạng đọc: Đọc to, đọc nhỏ, đọc thầm, đọc từng phần, đọc cả bài, đọc trước khi tìm hiểu bài để có ấn tượng chung, đọc trong quá trình phân tích (đọc định hướng), đọc sau phân tích, đọc nghệ thuật. - Các cách đọc: đọc đúng, đọc hiểu, đọc diễn cảm, đọc sáng tạo,… - Tuỳ vào thể loại, kiểu văn bản, phương thức biểu đạt, giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh theo mục đích đọc như sau:  Đọc để nhận diện văn bản, thơ: thể thơ, gieo vần, nhịp, giọng điệu, kết cấu, chủ thể trữ tình, thời gian, không gian... Đọc để hiểu từ, hiểu câu và tìm ra ý đồ nghệ thuật, chiều sâu tư tưởng tác phẩm.  Đọc theo vai nhân vật để hiểu tác giả, tác phẩm một cách sâu sắc. Cách thực hiện: - Giáo viên hướng dẫn cách đọc: văn bản cần phải đọc như thế nào là phù hợp? Vì sao phải đọc với giọng ấy? Em hãy đọc thể hiện? - Cho học sinh nhận xét: nhận xét cách thể hiện của bạn? Em hãy chứng minh vì sao được hoặc chưa được? Em hãy đọc theo ý của em! Ví dụ 1: Bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương, các em cần đọc với giọng thành kính trang nghiêm phù hợp với không khí thiêng liêng ở lăng; giọng tha thiết, sâu lắng phù hợp với cảm xúc tiếc thương, biết ơn, giọng nhanh phù hợp với nguyện ước sống đẹp và tiếp bước truyền thống dân tộc Ví dụ 2: Bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy, các em cần đọc với nhịp 2/3; 3/2; 1/2/2. Ba khổ đầu giọng kể chuyện, khổ 4 giọng ngạc nhiên, thề thốt; khổ 5/6 giọng suy tư. Ví dụ 3: Đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” trích Tắt đèn của Ngô Tất Tố học sinh có thể đóng vai nhân vật chị Dậu, Cai lệ, người nhà Lí trưởng, anh Dậu. Mỗi nhân vật đóng vai đọc với giọng khác nhau. Chẳng hạn với vai chị Dậu lúc đầu đọc với giọng van xin, sợ hãi, thiết tha, … về sau đọc với giọng mạnh mẽ, cứng cỏi, dứt khoát, …. Còn Cai lệ đọc với giọng ngang tàng, hống hách, kẻ cả,… Ưu điểm: - Bước đầu học sinh cảm nhận được nội dung, cảm xúc của tác phẩm. - Học sinh hiểu được dụng ý của tác giả và tâm trạng của nhân vật. Khuyết điểm: - Một số em mới dừng lại ở mức độ đọc thô. Một số em đọc chưa chuẩn từ khó, ngắt nghỉ tuỳ tiện, đọc lắp, thiếu diễn cảm và chưa biết đọc với cách phân vai. *Tổ chức: Tìm hiểu văn bản Mục đích: 10 - Giúp học sinh khám phá các giá trị của văn bản, có khả năng tự tìm kiếm nguồn thông tin đa dạng của cuộc sống để đáp ứng năng lực, sở thích cá nhân. Vận dụng trong cuộc sống những hiểu biết từ văn bản đã học vào việc suy luận, bàn luận, trình bày những giải pháp để giải quyết một vấn đề cụ thể. Qua đó giúp học sinh phát huy được năng lực tạo lập văn bản, đặc biệt là năng lực viết sáng tạo. - Qua đó, giáo viên có thể tổ chức các hình thức hoạt động sau: *Hoạt động thảo luận nhóm: Đây là dạng hoạt động mà trong đó các thành viên đều giải quyết vấn đề cùng quan tâm nhằm đạt tới một hiểu biết chung. Hoạt động nhóm là phương tiện học hỏi có tính dân chủ tạo thói quen bình đẳng, biết đón nhận quan điểm bất đồng, hình thành quan điểm cá nhân để đi đến giải quyết vấn đề. Cách thực hiện: Giáo viên thông qua mục tiêu hoạt động (hoạt động nhóm nhằm giải quyết vấn đề gì? ), hoạt động như thế nào, chia lớp thành mấy nhóm, mỗi nhóm bao nhiêu học sinh, mỗi học sinh phát huy tính chủ động tích cực của mình như thế nào? Bước 1: Giáo viên phát phiếu hoặc treo bảng phụ ghi câu hỏi (có khi nêu bằng miệng), ấn định thời gian thảo luận, các nhóm nhận nhiệm vụ, sau đó giao nhiệm vụ cụ thể cho nhóm trưởng, thư ký, các thành viên khác trong nhóm, các nhóm tập trung giải quyết vấn đề (tức là nêu ý kiến thảo luận). Trong khi học sinh thảo luận, giáo viên quan sát, theo dõi, nhắc nhở để nhóm làm việc đều tay, đúng tiến độ Bước 2: Thông báo kết quả: hết thời gian ấn định, các nhóm hoàn thành công việc, giáo viên cho từng nhóm báo cáo bằng miệng kết quả đã trình bày trong phiếu học tập hoặc cùng học sinh kiểm tra kết quả mỗi nhóm trên bảng mà nhóm các em đã trình bày. Các học sinh khác bổ sung, thống nhất ý kiến Bước 3: Giáo viên tóm tắt kết quả thảo luận của học sinh, sau đó cùng học sinh đi đến thống nhất và hướng dẫn cho các em ghi lại một vài ý kiến đúng, hay để các em làm tư liệu.  Lưu ý: Với hoạt động thảo luận nhóm, giáo viên cần nêu câu hỏi ngắn gọn, rõ ràng, vừa sức, khuyến khích học sinh suy nghĩ để có câu trả lời. - Cần đưa câu hỏi suy luận, tưởng tượng, sáng tạo nhằm phát triển tư duy hơn là những câu hỏi gợi mở. - Câu hỏi thảo luận nên là những câu hỏi sau: Suy nghĩ, đánh giá, cảm nhận về 1 chi tiết hoặc 1 nét nghệ thuật tiêu biểu trong văn bản. 11 Ví dụ 1: Suy nghĩ của em về chi tiết cuối truyện “Cuộc chia tay của những con búp bê” (Khánh Hoài) – Tôi (Thành) đứng như chôn chân dưới đất nhìn theo cái dáng bé nhỏ liêu xiêu của em gái tôi trèo lên xe? Thảo luận về ý nghĩa cuộc sống mà tác giả gợi ra hoặc thông điệp tác giả muốn gởi tới người đọc. Ví dụ 2: Trong bài “Tiếng gà trưa”, từ việc gợi lại những kỉ niệm đẹp của tuổi thơ và tình bà cháu, tác giả Xuân Quỳnh muốn gởi tới chúng ta thông điệp gì? Ví dụ 3: Sau khi học xong văn bản “ Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, em thấy người phụ nữ cần phải làm gì để bảo vệ hạnh phúc gia đình? Ưu điểm: Hạn chế được lối học thụ động của học sinh, tạo điều kiện cho học sinh hiểu sâu nội dung trọng tâm hoặc vấn đề khó của đơn vị bài học, tạo được động lực nhóm và phát huy năng lực của học sinh. Học sinh có tinh thần hợp tác, hỗ trợ, chia sẻ lẫn nhau. Khuyết điểm: - Lớp sẽ bị ồn - Nếu đơn vị bài dài, không định lượng được thời gian hợp lí sẽ không dạy hết bài. - Vẫn có hiện tượng học sinh ỷ vào nhóm trưởng hoặc các thành viên tích cực khác, do đó giáo viên cần có sự quan sát, tháo gỡ, gợi ý, định hướng cho các nhóm trong quá trình các em làm việc. *Hoạt động học theo góc: - Học theo góc là một kĩ thuật dạy học tích cực. Học theo góc là một hình thức tổ chức hoạt động học tập theo đó học sinh thực hiện các nhiệm vụ khác nhau tại các vị trí cụ thể trong không gian lớp học, đáp ứng nhiều phong cách học khác nhau. Học theo góc khiến học sinh tích cực hơn trong các hoạt động, mở rộng sự tham gia, nâng cao hứng thú và cảm giác thoải mái đồng thời nâng cao tính tương tác giữa giáo viên và học sinh, góp phần thúc đẩy sự học sâu và tính hiệu quả của quá trình dạy học - Sử dụng kĩ thuật học theo góc trong tổ chức dạy học, giáo viên tạo ra một môi trường hoạt động có tính khuyến khích hoạt động tự giác tích cực nơi mỗi học sinh. Học sinh có cơ hội độc lập (khám phá, thực hành, thử nghiệm,...). Học sinh được lựa chọn các hoạt động phù hợp. - Học sinh được hoạt động, trải nghiệm khác nhau tại các góc khác nhau. Học sinh có thể hợp tác học tập với các bạn khác. Giáo viên có nhiều thời gian hơn cho hoạt động hướng dẫn riêng cho từng học sinh, từng nhóm nhỏ tại các góc. Giáo viên có thể điều chỉnh các nội dung học tập cho phù hợp với trình độ và nhịp độ của học sinh. 12 Cách thực hiện: - Căn cứ vào nội dung bài học và điều kiện thực tế, giáo viên có thể lựa chọn một hay nhiều loại hình góc phù hợp: Tổ chức hoạt động theo góc cố định. Tổ chức hoạt động theo góc luân chuyển. Tổ chức hoạt động theo góc tự do. - Xác định nhiệm vụ ở mỗi góc và quy định thời gian tối đa. - Xác định những thiết bị, đồ dùng, phương tiện cần thiết cho học sinh hoạt động - Ở mỗi góc cần có: tên góc, phiếu học tập, đồ dùng, tài liệu học tập phù hợp với hoạt động của góc. Ví dụ: Khi dạy văn bản “Đấu tranh cho một thế giới hoà bình” (Mác – két), chúng tôi thiết kế thành 4 góc linh hoạt cho 2 giai đoạn học tập (2 vòng): Góc 1 Góc 2 GV Góc 3 Góc 4 Vòng 1: hình thành kiến thức mới. -Với vòng này, bốn góc học tập sẽ là bốn góc cố định cùng một mục tiêu nhưng khác nhau về nhiệm vụ. Cụ thể: Mục tiêu: thấy được chiến tranh hạt nhân là một hiểm họa đe dọa con người và sự sống trên trái đất. Vì vậy mọi người phải ngăn chặn nguy cơ ấy để đấu tranh cho một thế giới hòa bình. Nhiệm vụ: - Góc 1: tìm lí lẽ và dẫn chứng để trình bày nguy cơ của chiến tranh hạt nhân. -Góc 2: tìm lí lẽ và dẫn chứng để thấy cuộc chạy đua vũ trang là đi ngược lại lý trí của con người và tự nhiên. 13 -Góc 3: nhiệm vụ đấu tranh cho thế giới hòa bình. -Góc 4: nhận xét về lí lẽ và dẫn chứng được sử dụng trong văn bản cũng như lòng nhiệt tình của tác giả. Vòng 2: Củng cố kiến thức. Với vòng này 4 góc học tập sẽ là bốn góc luân chuyển. Góc 1: viết bài luận.  Mục tiêu: viết một bài văn ngắn trình bày suy nghĩ sau khi học xong văn bản.  Nhiệm vụ: thực hiện bài tập viết sáng tạo.  Thời gian: từ 7 - 10 phút. Góc 2: sáng tác thơ.  Mục tiêu: viết được một đoạn thơ, bài thơ về chủ đề đã học.  Nhiệm vụ: thực hiện bài tập.  Thời gian: 7 – 10 phút. Góc 3: vẽ tranh.  Mục tiêu: vẽ được một bức tranh theo chủ đề đã học.  Nhiệm vụ: thực hiện bài tập vẽ sáng tạo.  Thời gian: 7 – 10 phút. Góc 4: thảo luận.  Mục tiêu: thảo luận về chủ đề đã học.  Nhiệm vụ: thực hiện thảo luận nhóm.  Thời gian: 7 – 10 phút. - Cuối giờ, giáo viên cho hs báo cáo kết quả mỗi góc. Đại diện hs ở các góc trình bày kết quả học tập theo nhiệm vụ được giao, các hs khác bổ sung ý kiến. Trên cơ sở ấy giáo viên nhận xét, đánh giá, chốt lại vấn đề trọng tâm để học sinh nắm vững kiến thức. Ưu điểm: Người dạy có thể giao nhiều nhiệm vụ với các mức độ và năng lực khác nhau theo từng nội dung học tập. Mỗi cá nhân tự hoàn thành nhiệm vụ với sự tương tác của người dạy và thành viên trong nhóm. Dạy học theo góc có thể áp dụng ở hầu hết các dạng bài học và bài tập tích hợp kiến thức liên môn. Khuyết điểm: Hoạt động học theo góc còn mới nên việc tổ chức còn nhiều bỡ ngỡ, cần phải có không gian hoạt động phù hợp với sĩ số học sinh. c. Tổ chức hoạt động luyện tập, ứng dụng. Đây là một hoạt động thực hành, củng cố bài học qua việc làm bài tập. Ở hoạt động này, giáo viên giữ vai trò chủ đạo, còn học sinh là chủ thể của hoạt 14 động. Giáo viên chỉ là người hướng dẫn, còn học sinh chủ động vận dụng kiến thức của bài học vào thực hành. Từ đó, học sinh củng cố và khắc sâu được kiến thức mà giáo viên đã truyền đạt. Với hoạt động luyện tập- ứng dụng, chúng tôi thường tổ chức một số hình thức sau: -Vẽ sơ đồ tư duy. -Trò chơi: ô chữ, tiếp sức, đuổi hình bắt chữ, nhanh tay nhanh mắt,… -Vẽ tranh, sáng tác thơ,… … Mục đích: học sinh có thể áp dụng những kiến thức đã học vào việc giải quyết các bài tập, xử lí tình huống cụ thể, qua đó học sinh phát huy các năng lực tư duy, sáng tạo, giải quyết vấn đề trong thực tiễn. Dưới đây là một số hình thức hoạt động có thể áp dụng cho học sinh như sau: Hoạt động: vẽ sơ đồ tư duy - Sơ đồ tư duy (SĐTD) là phương pháp kết nối mang tính đồ họa có tác dụng lưu giữ, sắp xếp và xác lập ưu tiên với mỗi loại thông tin bằng cách sử dụng từ hay hình ảnh then chốt hoặc gợi nhớ, làm bật lên những kí ức cụ thể và phát sinh những ý tưởng mới. - SĐTD giúp học sinh học học tập chủ động, tích cực, hệ thống lại kiến thức đã học. - Việc sử dụng thành thạo SĐTD trong dạy học, sẽ giúp học sinh học được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. - Cách thực hiện: Bước 1 : Cho học sinh lập SĐTD theo nhóm hay cá nhân thông qua gợi ý của giáo viên. Bước 2: Học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện SĐTD về kiến thức của bài học đó. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh hoàn chỉnh SĐTD, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học. Bước 3: Học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên báo cáo, thuyết minh về SĐTD mà nhóm mình đã thiết lập. Bước 4: Củng cố kiến thức bằng một SĐTD mà giáo viên đã chuẩn bị sẵn hoặc một SĐTD mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho học sinh lên trình bày, thuyết minh về kiến thức đó.  Lưu ý: Đọc sơ đồ từ trong ra ngoài, tức là đi từ Ý Kiến Chính (nơi chứa Từ khóa và Hình ảnh then chốt) ra Điểm chính rồi đến Chi Tiết Phụ. Cách đọc sơ đồ theo cách Tư duy mở rộng, ý tưởng được tỏa rộng như mạch máu. Ví dụ : Trong văn bản “ Đức tính giản dị của Bác Hồ”. 15 Đức tính giản dị của Bác Hồ Giản dị trong đời sống hằng ngày. Bữa cơm Nơi ở Chỗ làm việc Giản dị trong lời nói, bài viết. Quan hệ với mọi người Dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm theo. Hoạt động: Trò chơi Trò chơi tiếp sức Tổ chức Trò chơi tiếp sức nhằm phát huy năng lực giải quyết vấn đề, năng lực hợp tác, sự nhanh nhẹn về thể chất cũng như tinh thần. Ta có thể vận dụng trò chơi này trong nhiều kiểu bài, chẳng hạn như với Hoạt động Ngữ văn: Thi làm thơ (bốn chữ, năm chữ, lục bát, bảy chữ, tám chữ) ở các khối lớp 6, 7, 8, 9. Hoặc các bài Tổng kết phần Văn ( Ngữ văn 6, 7, 8, 9). Cách thực hiện: GV chia lớp thành 4 đội. Từng HS trong đội đều được tham gia trò chơi. Cứ HS này xuống thì HS khác lên thay thế sao cho đội của mình hoàn thành bài tập một cách nhanh và chính xác nhất. Ví dụ : Các bài Tổng kết hoặc ôn tập, GV tổ chức thành 2, 3 hoặc 4 dãy bàn điền vào bảng thống kê (mỗi HS chỉ được lên một lần điền một mục theo thứ tự). Ưu điểm: Các hoạt động này giúp HS có khả năng tư duy, sáng tạo, hợp tác, phát huy năng lực của từng học sinh. 16 Khuyết điểm: HS phải chọn lọc thông tin, từ ngữ, sắp xếp bố cục để ghi thông tin cần thiết nhất và lôgic. 2.2.2. Đối với phân môn tiếng Việt và Tập làm văn. Với phân môn Tiếng Việt và Tập làm văn chúng tôi tổ chức nhiều hình thức hoạt động, ở đây xin được minh họa hoạt động xử lí tình huống, hoạt động tranh luận kết hợp với hoạt động nhóm. * Hoạt động xử lí tình huống. Tình huống là một hoàn cảnh thực tế trong đó chứa đựng những tình tiết hoặc những mâu thuẫn, đời hỏi người liên quan phải đưa ra quyết định lựa chọn phương án giải quyết tình huống trên cơ sở có sự cân nhắc.Tình huống trong giáo dục là những tình huống thực hoạc mô phỏng theo tình huống thực được cấu trúc lại nhằm mục đích giáo dục. - Với hoạt động xử lí tình huống học sinh được đặt mình vào trong các tình huống có vấn đề gắn với thực tiễn, đòi hỏi phải có những hành động cụ thể đưa ra để giải quyết ( hành động, nói hoặc lời nói đi kèm với cử chỉ, thao tác, việc làm…) Mục đích: - Giáo viên đọc kỹ bài phải dạy ( lý thuyết, thực hành, ôn tập, hệ thống…) đặt vị trí của bài đó vào tổng thể của chương trình để thấy mối liên hệ giữa các bài và tầm quan trọng của bài học mới hoặc bài ôn tập. - Khi soạn bài, giáo viên dựa vào hệ thống câu hỏi sách giáo khoa và bổ sung điều chỉnh để xây dựng một hệ thống câu hỏi nhằm hướng tới đạt kết quả tối ưu nhất cho việc phát huy những năng lực cần thiết ở học sinh sau quá trình tiếp thu tri thức mới. - Giáo viên cần dự kiến các tình huống có thể xảy ra khi dạy đơn vị bài đó và khi tạo ra tình huống có vấn đề cần hướng học sinh vào hoạt động nhận thức nhằm kích thích tư duy, năng lực của học sinh. Cách thực hiện: - GV nêu tình huống có vấn đề đã được cụ thể hóa bằng câu hỏi nêu vấn đề hoặc một bài tập mang nhiệm vụ nhận thức để học sinh giải quyết tình huống làm xuất hiện các câu văn thuộc kiểu câu cần tìm hiểu. Nhận xét các câu đó để tìm ra những tín hiệu mới. - Rút ra kết luận: vận dụng kiến thức mới để làm bài tập. Ví dụ: Khi học bài “Câu nghi vấn” lớp 8. Bước 1: nêu tình huống giới thiệu bài: GV viết hai câu. Các em chuẩn bị bài chưa? Cô giáo có gọi mình không nhỉ? - Hai câu trên đây đưa ra nhằm mục đích gì? Câu 1 dùng để hỏi học sinh về việc chuẩn bị bài. Câu 2 dùng để tự hỏi mình xem mình có bị gọi lên bảng không? 17 - Những câu kiểu như thế này người ta gọi là gì? Câu hỏi, câu nghi vấn.  Đây là câu hỏi, một kiểu câu chúng ta sử dụng nhiều trong cuộc sống khi nói chuyện. - Bước 2: nhận xét theo tình huống để rút ra ghi nhớ. Giáo viên cho học sinh đọc ngữ liệu, tìm dấu hiệu để nhận biết đó là câu nghi vấn ( từ, dấu) Vậy câu nghi vấn dùng để làm gì? Chốt ghi nhớ. Bước 3: Luyện tập, ứng dụng Có một số hình thức như tổ chức hoạt động nhóm, cá nhân. Có thể tổ chức trò chơi ô chữ để củng cố kiến thức cho học sinh. Ưu điểm: Kích thích học sinh tư duy, sáng tạo, năng động, nhanh nhạy trong giải quyết tình huống và kích thích hứng thú học tập, phát huy tính tích cực học tập của học sinh. Khuyết điểm: Giáo viên mất nhiểu thời gian chọn lọc tình huống, đầu tư vào yêu cầu của bài tập, xác định khung thời gian cho phép khi giải quyết tình huống và lựa chọn đơn vị kiến thức, đơn vị bài dạy phù hợp. * Hoạt động tranh luận kết hợp với hoạt động nhóm. Mục đích: - Phát huy năng lực trình bày ý kiến của mình trước một vấn đề nào đó. - Giúp các em mạnh dạn tự tin trước đám đông. - Phát huy năng lực sử dụng ngôn ngữ, năng lực giải quyết vấn đề và năng lực sáng tạo ở học sinh. - Thể hiện những hiểu biết của các em về các vấn đề trong thực tế cuộc sống. Cách thực hiện: - Chia học sinh ra thành các nhóm hoạt động. - Giáo viên đưa một nhiều đề tài cho các nhóm suy nghĩ và trình bày. - Các em tranh luận về vấn đề: đúng hay sai, phải hay trái, đồng tình hay không đồng tình,… để bảo vệ quan điểm của mình. - Sau khi học sinh trong nhóm thảo luận, một em đại diện của nhóm lên trình bày ý kiến sao cho thuyết phục mọi người. - Các nhóm khác đưa ra những câu hỏi, ý kiến có thể phản bác… - Giáo viên là trọng tài nhưng vẫn tôn trọng ý kiến mà các em bảo vệ. sau đó, dựa trên ý kiến của các em, giáo viên sẽ xem xét, phân tích và cho điểm. Ví dụ: ở lớp 9, dạy bài “Nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí” giáo viên có thể đưa một vấn đề: 18 Đề bài: Ngạn ngữ có câu: “Thời gian là vàng”, em hãy trình bày suy nghĩ của em về câu nói này. - Học sinh có thể đưa ra ý kiến đồng tình với câu ngạn ngữ trên, thời gian là vàng nghĩa là quý nhất vì thời gian là sự sống là thắng lợi trong chiến tranh, là tiền bạc, là tri thức,… - Học sinh cũng có không đồng tình với câu ngạn ngữ trên nghãi là thời gian không phải là quý nhất, có những thứ quý hơn như: tiền của, tình cảm, hạnh phúc, sức khỏe… Ưu điểm: - Từ những trải nghiệm trên thực tế giảng dạy trong những năm qua, giáo viên nhận ra rằng việc áp dụng hình thức dạy học theo kiểu tổ chức tranh luận tạo nên một sự hứng thú rất lớn cho học sinh. - Thông qua tranh luận, học sinh được thể hiện quan điểm của riêng mình, được trình bày những suy nghĩ thực của mình; đồng thời đưa ra lập luận để bảo vệ quan điểm ấy mà không chịu ràng buộc, phụ thuộc vào bất cứ một khuôn mẫu nào. Những giờ học được tổ chức theo kiểu tranh luận sẽ là những giờ học vô cùng tích cực, sôi nổi; phát huy được tính chủ động, sáng tạo trong tư duy học sinh. Đồng thời nó góp phần định hướng, rèn luyện cho học sinh những khả năng quan trọng: khả năng lập luận, khả năng tranh biện, khả năng bảo vệ chính kiến,.. Tổ chức được những giờ học như vậy, người thầy giáo sẽ thực hiện được điều đã trở thành trăn trở bấy lâu nay của các nhà giáo dục “Lấy học sinh làm trung tâm”. Khuyết điểm: - Rõ ràng “giờ học mở” hay nhưng cũng rất khó thực hiện, bởi thay đổi một thói quen, một nếp nghĩ đã ăn sâu trong tâm trí không phải việc đơn giản. Cần phải có thời gian và đặc biệt là phải có sự thay đởi đồng bộ trong tư duy giáo dục của tất cả những đối tượng tham gia vào hoạt động giáo dục trong nhà trường. - Để có thể tham gia bàn bạc, trao đổi hay trnah luận, phản biện trước những vấn đề đặt ra trong giờ học trên lớp, mỗi học sinh phải có một quá trình chuẩn bị chu đáo; phải tự học, tự tìm tòi nghiên cứu ở nhà. Không thể tham gia đối thoại, thảo luận tốt về một vấn đề nếu hiểu biết quá sơ sài về vấn đề ấy. - Việc tự học, tự nghiên cứu không dừng lại ở học sinh mà nó còn đặt ra với yêu cầu cao hơn rất nhiều đối với thầy giáo. Những giờ học đối thoại đặt người thầy trước nhiều tình huống sư phạm phức tạp. Khác với giờ học bình thường, trong những diễn đàn đối thoại như thế này, người thầy luôn phải đối diện với rất nhiều thắc mắc, nhiều câu hỏi từ học sinh. Thậm chí có những câu hỏi khó và lạ đến mức học sinh bị động. Cho nên để có thể tổ chức thành công giờ học, bản thân 19 mỗi người thầy phải có sự lao động trí óc nghiêm túc và công phu; phải không ngừng tự học, tự nghiên cứu; phải đọc nhiều và tìm hiểu nhiều để mở mang hiểu biết, nâng cao trình độ. 3. Giáo án minh họa thực hiện chuyên đề “ Tổ chức các hoạt động trong giờ Ngữ văn nhằm phát huy năng lực sáng tạo cho học sinh” Tiết 91: Tiếng Việt: NHÂN HÓA A. Mục tiêu cần đạt: 1. Kiến thức: - Nắm được khái niệm nhân hoá, các kiểu nhân hoá. - Nắm được tác dụng chính của nhân hoá. 2. Kĩ năng: - Nhận biết và bước đầu phân tích được giá trị của phép tu từ nhân hoá - Biết dùng các kiểu nhân hoá trong nói và viết. 3. Thái độ - Yêu thích, hứng thú học tập bộ môn. B. Đồ dùng dạy học: - Bảng phụ. - Bài soạn điện tử. - Tranh C. Tiến trình các hoạt động dạy - học: 1. Ổn định lớp. 2. Bài cũ: Xem tranh và đặt câu có sử dụng phép so sánh 3. Bài mới: Hoạt động 1: Hoạt động khởi động: Tạo tâm thế. * Thời gian: 2’ Cho học sinh xem clip “ Chim Vành Khuyên”. ?: Qua clip trên, em thấy có gì thú vị? Vào bài: Các phép tu từ có vai trò rất lớn trong trong giao tiếp. Một trong những biện pháp tu từ, đó là nhân hoá. Vậy hôm nay các em sẽ được tìm hiểu kĩ hơn về nhân hoá. Hoạt động 2: Hoạt động hình thành kiến thức. Hoạt động của thầy * Sử dụng phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực bằng các hoạt động theo nhóm, cá nhân. GV chia lớp thành 4 nhóm, ngồi 4 góc cố định. Hoạt động của trò Ghi bảng I. Tìm hiểu bài 1. Nhân hóa là gì? Ví dụ: sgk/ 56 - Trời: ông, mặc áo giáp ra trận. - Cây mía: múa gươm. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan