Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Tổ chức lãnh thổ công nghiệp...

Tài liệu Tổ chức lãnh thổ công nghiệp

.PDF
106
373
88

Mô tả:

Chuyên đề: Kinh tế - xã hội đại cương PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí di chọn đề tài Lịch sử phát triển xã hội loài người là một quá trình lịch sử, diễn ra liên tục và có sự kế thừa, phát triển không ngừng. Lịch sử đó không chỉ được ghi nhận bằng các di tích lịch sử mà nó còn được in đậm trong các hình thái kinh tế và các hoạt động kinh tế - xã hội. Con người lần đầu tiên xuất hiện với sự lệ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên với cuộc sống bấp bênh đã dần phát triển và chế ngự được tự nhiên. Từ đó con người đã biết phát triển các ngành kinh tế phúc vụ cho nhu cầu bản than. Tính đến này con người đã trải qua thời kì văn minh nông nghiệp và chuyển sang thời kì văn minh công nghiệp cách đây gần 200 năm. Ngay sau khi ra đời, sản xuất công nghiệp đã phát triển không ngừng và hiện đang là ngành chiếm vị trí chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Trong sản xuất công nghiệp, ngoài những yếu tố đầu ra và đầu vào của sản xuất thì việc tổ chức lãnh thổ công nghiệp hợp lí cũng là một yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của ngành. Tính hợp lí trong tổ chức lãnh thổ sẽ giúp sản xuất công nghiệp đạt được hiệu quả cao cả về kinh tế, xã hội và môi trường thông qua việc khai thác và sử dụng hợp lí các nguồn lực tự nhiên và kinh tế xã hội. Tổ chức lãnh thổ công nghiệp không phải là một hiện tượng bất biến do chịu tác động của các yếu tố như tiến bộ về khoa học - công nghệ, thị trường… vốn là những yếu tố có tính chất “động”. Các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp luôn có sự biến đổi, phù hợp với sự phát triển của sản xuất. Sự biến đổi đó thể hiện qua sự phát triển về số lượng của các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp cũng như vai trò, đặc điểm của mỗi hình thức. Thực tiễn trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã chứng minh vai trò hết sức quan trọng của tổ chức lãnh thổ nói chung và tổ chức lãnh thổ công nghiệp nói riêng. Tuy nhiên, do không phải là một hiện tượng bất biến nên việc nghiên cứu tổ chức lãnh thổ công nghiệp cũng luôn cần đặt ra các yêu cầu, nhiệm vụ mới. Những kết quả nghiên cứu phản ánh đúng đắn thực trạng cũng như xu hướng phát triển của tổ chức lãnh thổ công nghiệp sẽ có giá trị rất cao cả về mặt lí luận và thực tiễn. 1 Thực hiện: Nhóm 4 lớp cao học K21 Đia lí Chuyên đề: Kinh tế - xã hội đại cương Việc nghiên cứu về tổ chức lãnh thổ công nghiệp đòi hỏi nhiều yêu cầu (về năng lực, thời gian, nguồn tư liệu…) vì thế trong phạm vi của đề tài, các tác giả chỉ xin đưa ra những lí luận cũng như ví dụ minh họa mang tính chất khái quát nhằm cung cấp cho đồng nghiệp những nội dung cần thiết phục vụ cho việc giảng dạy là chủ yếu. 2. Mục tiêu đề tài - Nêu và phân tích các quan điểm về tổ chức lãnh thổ công nghiệp, đồng thời nêu lên các đặc điểm cơ bản của tổ chức lãnh thổ công nghiệp. - Làm rõ và phân biệt các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp trên thế giới vầ Niệt Nam. - So sánh để thấy được sự giống và khác nhau về các hình thức tổ chức lãnh thổ trên thế giới và ở Việt Nam. 3. Nhiệm vụ đề tài - Nêu hệ thống cơ sở lý luận về các hình thức tổ chức lãnh thổ và tổ chức lảnh thổ công nghiệp. - Nêu lên được các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp trên thế giới và Việt Nam và những đặc điểm chính của các hình thức này. 4. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu 4. 1. Quan điểm nghiên cứu - Quan điểm hệ thống: cho phép nghiên cứu đối tượng một cách đầy đủ chính xác với việc kết hợp nghiên cứu mối quan hệ của đối tượng đó với các đối tượng khác trong một hệ thống nhằm tìm ra cái bản chất, cái cốt lõi của đối tượng nghiên cứu. - Quan điểm tổng hợp: giúp chúng ta đánh giá được đối tượng mà ta đã phân tích. Từ đó rút ra được những đặc điểm cơ bản của chúng, đông thời thấy được môi quan hệ giữa các đối tượng với nhau. - Quan điểm lịch sử: mỗi sự vật đều có quá trình phát sinh, vận động phát triển theo thời gian. Vì vậy trong nghiên cứu chúng ta phải biết được quá trình lịch sử vận động và phát triển của nó trong một thời gian cụ thể. Mỗi một hình thức tổ chức lãnh thổ đều có quá trình phát sinh và phát triển. Việc nắm bắt lịch sử phát triển của các hình thức này cho tá biết được từng giai đoạn và quá trình phát triển của các hình thức tổ chức lãnh thổ. - Quan điểm phát triển bền vứng theo quan điểm này việc phát triển các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp không chỉ khái thác tài nguyên thiên nhiên, phát triển kinh tế xã hội của vững lãnh thổ đó mà hơn hết còn phải đảm 2 Thực hiện: Nhóm 4 lớp cao học K21 Đia lí Chuyên đề: Kinh tế - xã hội đại cương bảo vấn đề môi trường. Tóm lại quan điểm này yêu cấu chúng ta cần kết hợp một cách hài hòa các vấn đê phát triển kinh tế, xã hội và môi trường. 4. 2. Phương pháp nghiên cứu Trong đề tài này chúng tôi đã sử dụng hệ thống các phương pháp cơ bản sau: - Phương pháp nghiên cứu lịch sử - Phương pháp nghiên cứu các công trình lý luận - Phương pháp phân tích tổng hợp - Phương pháp thực tế - Phương pháp bản đồ biểu đồ - Phương pháp toán học 5. Cấu trúc đề tài  Bài thảo luận nhóm gồm có ba phần - Phần mở đầu - Phần nội dung - Phần kết luận 3 Thực hiện: Nhóm 4 lớp cao học K21 Đia lí Chuyên đề: Kinh tế - xã hội đại cương PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA TỔ CHỨC LÃNH THỔ CÔNG NGHIỆP I. TỔ CHỨC LÃNH THỔ 1. Khái niệm Khái niệm tổ chức lãnh thổ bắt nguồn từ cơ sở lí thuyết kinh tế kinh điển của A.Smith và D.Ricardo, từ các công trình nghiên cứu của V. Thunen, W.Christaller… và một số tác phẩm khác. Sau đó được phát triển về mặt lí luận và ứng dụng vào thực tiễn từ những năm 50 tại các nước châu Âu. Ở Liên Xô, vào đầu những năm 60, thuật ngữ này đã được đề cập đến. Về sau, khái niệm tổ chức lãnh thổ được nhiều nước tiếp nhận và sử dụng, đặc biệt là vào Mĩ từ đầu những năm 70. Từ đó đến nay, khái niệm này được nhiều nhà khoa học trên thế giới nghiên cứu và sử dụng rộng rãi với tư cách là công cụ tư duy tổng hợp, công cụ tổ chức thực tiễn các hoạt động xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế lĩnh vực này cũng có rất nhiều những quan niệm khác nhau. Theo quan điểm của các nhà khoa học thuộc Liên Xô cũ trước đây thì tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội được thực hiện trên các lãnh thổ cụ thể ở những cấp độ khác nhau; phổ biến là trên các vùng kinh tế cơ bản và vùng kinh tế hành chính tỉnh. Họ coi tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội là sự sắp xếp, bố trí (phân bố) và phối hợp các đối tượng gây ảnh hưởng lẫn nhau, có liên hệ qua lại giữa các hệ thống sản xuất, hệ thống tự nhiên và hệ thống dân cư; nhằm sử dụng một cách hợp lí các tiềm năng tự nhiên, lao động, vị trí kinh tế - xã hội để đạt hiệu quả kinh tế cao vào nâng cao mức sống dân cư của lãnh thổ đó. (Xauxkin). Ở các nước phương Tây, các nhà khoa học lại tiếp cận vấn đề này theo hướng tổ chức không gian. Họ cho rằng tổ chức không gian ra đời từ cuối thế kỉ XIX và đã trở thành một khoa học kinh tế lãnh thổ. Tổ chức không gian được xem như là nghệ thuật sử dụng lãnh thổ một cách đúng đắn và có hiệu quả (J.Gaudermar, 1992). Nhiệm vụ chủ yếu của tổ chức không gian là tìm kiếm một tỉ lệ và quan hệ hợp lí về phát triển kinh tế - xã hội giữa các lãnh thổ nhỏ hay tiểu vùng trong một vùng hoặc giữa các vùng trong một quốc gia và trên mức độ nhất định có xét đến mối liên kết giữa các quốc gia với nhau; tạo ra một giá trị 4 Thực hiện: Nhóm 4 lớp cao học K21 Đia lí Chuyên đề: Kinh tế - xã hội đại cương mới nhờ có sự sắp xếp có trật tự và hài hoà giữa các đơn vị lãnh thổ khác nhau trong cùng một vùng đó. Tóm lại, nội dung tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội ở đây có thể hiểu là "sự tìm kiếm trong khung cảnh địa lí quốc gia, sự phân bố tốt nhất các hoạt động tuỳ thuộc vào các tài nguyên thiên nhiên". Tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội là nội dung cụ thể của một chính sách kinh tế phát triển theo lãnh thổ dài hạn nhằm cải thiện môi trường trong đó diễn ra các cuộc sống và hoạt động của con người. Tổ chức lãnh thổ kinh tế - xã hội ở góc độ địa lí học, được xem như là một hành động có chủ ý hướng tới sự công bằng về mặt không gian giữa trung tâm và ngoại vi, giữa các cực và các không gian ảnh hưởng, nhằm giải quyết ổn định công ăn việc làm, cân đối giữa quần cư nông thôn và quần cư thành thị, bảo vệ và phát triển bền vững môi trường. Như vậy, từ các nội dung đã phân tích ở trên chúng ta có thể hiểu "Tổ chức lãnh thổ là sự sắp xếp và phối hợp các đối tượng trong mối liên hệ đa ngành, lĩnh vực và đa ngành lãnh thổ trong một vùng cụ thể nhằm sử dụng một cách hợp lí các tiềm năng tự nhiên, lao động, vị trí địa lí kinh tế - xã hội và cơ sở vật chất kĩ thuật đã và sẽ tạo dựng để đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao và nâng cao mức sống dân cư của vùng đó". Bản chất của tổ chức lãnh thổ chính là tìm ra phương án hợp lý nhất về kiến thiết lãnh thổ làm sao cho trong quá trình phát triển của các ngành, lĩnh vực theo cùng hướng và liên hệ mật thiết với nhau tạo ra tính nhất quán cần thiết, mà đó là đòi hỏi của hoạt động kinh tế nhằm đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội cao và có được sự phát triển bền vững cho lãnh thổ và cho cả hệ thống lớn hơn. Do đó, những yêu cầu cơ bản đối với tổ chức lãnh thổ được đặt ra là: - Tổ chức lãnh thổ phải đặt trong trạng thái động: yêu cầu này cho rằng phải coi hệ thống kinh tế - xã hội là hệ thống vận động không ngừng; có những yếu tố không thể biết trước và dự báo được một cách chính xác nên dễ gây ra những rủi ro lớn. Hệ thống này vận động không ngừng vì nhu cầu con người không ngừng tăng lên và không có giới hạn, song khả năng đáp ứng nhu cầu đó thì có giới hạn, dẫn đến những cạnh tranh, giành giật và gây ra những mâu thuẫn, tiền đề nảy sinh sự không bền vững trong hệ thống. Vấn đề này cũng cho thấy tổ chức lãnh thổ phải làm thế nào để có được một cơ cấu hợp lý trên cơ sở giải quyết những cân đối giữa sản xuất và nhu cầu. 5 Thực hiện: Nhóm 4 lớp cao học K21 Đia lí Chuyên đề: Kinh tế - xã hội đại cương - Tổ chức lãnh thổ cần phải đạt mục tiêu phát triển trong thế vận động tiến bộ và bền vững: hệ thống lãnh thổ bao gồm nhiều phân hệ, các phân hệ và cấu trúc của từng phân hệ cũng như toàn hệ thống luôn có xu hướng chuyển động đa chiều. Do đó, một vấn đề quan trọng là tổ chức lãnh thổ thế nào đề hệ thống phát triển không ngừng và đạt được hiệu quả thì cần phải điều khiển tất cả các liên hệ theo một hướng nhất định. Các vấn đề nêu trên đặt ra cho tổ chức lãnh thổ phải xác định được mục tiêu phát triển và xác định được các giải pháp kiến thiết lãnh thổ tạo được phát triển hài hoà, nhịp nhàng cho toàn bộ hệ thống lãnh thổ. - Tổ chức lãnh thổ cần phải lựa chọn được các phương án kiến thiết hợp lý, dài hạn: theo yêu cầu này, tổ chức lãnh thổ phải được nghiên cứu theo nhiều phương án, mỗi phương án mang đậm nét một điểm nổi trội của nghệ thuật kiến thiết lãnh thổ. Trong các phương án phải có phương án chủ và phương án dự phòng. Ngay trong phương án chủ cũng phải dành những lãnh thổ dự trữ, phải có thứ tự ưu tiên về lãnh thổ, phải có những quy định rõ ràng về mức độ và phương thức sử dụng không gian. - Tổ chức lãnh thổ cần phải đảm bảo một trật tự ngắn hạn cũng như yêu cầu phát triển dài hạn: Các đối tượng tổ chức cần được đặt đúng vị trí của nó, làm cho các đối tượng hỗ trợ nhau cùng phát triển, không cản trở và không làm tổ hại đến nhau trong quá trình thịnh vượng. Khi thực hiện tổ chức lãnh thổ nói chung và tổ chức lãnh thổ cấp tỉnh nói riêng phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản sau: - Phải thoả mãn nhu cầu về khả năng tài nguyên và nhu cầu xã hội, đảm bảo lợi ích cho cộng đồng và đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao. - Đảm bảo tính phù hợp với trình độ nguồn nhân lực và trình độ khoa học công nghệ. - Phải kiến thiết được các khu nhân (các trung tâm đô thị, khu vực ngoại vi) để tạo nên sức hút kinh tế. 2. Một số lý thuyết liên quan đến tổ chức lãnh thổ Kinh tế lãnh thổ và những lý thuyết kinh tế quan trọng có liên quan đến nhau. Các nhà địa lý kinh tế - xã hội nghiên cứu kinh tế lãnh thổ, phát hiện những vấn đề có tính quy luật và đúc rút chúng thành những lý thuyết phát triển kinh tế và không gian kinh tế của sự phát triển. Dưới đây là một số lí thuyết phổ biến. 6 Thực hiện: Nhóm 4 lớp cao học K21 Đia lí Chuyên đề: Kinh tế - xã hội đại cương 2.1. Lý thuyết phát triển các vành đai nông nghiệp xung quanh thành phố trung tâm của V. Thunen (1883) Thành phố trung tâm có sức hấp dẫn đối với các hoạt động nông nghiệp xung quanh. Thunen xem địa tô chênh lệch như là một nhân tố chìa khoá dẫn đến sự phân định lãnh thổ đồng nhất của một quốc gia thành các vùng sử dụng đất đai khác nhau. Từ năm 1826, Thunen là người đầu tiên đưa ra các yếu tố không gian của các hiện tượng kinh tế xã hội. Ông lập ra mô hình toán học về không gian của hệ thống các vùng nông nghiệp đang hình thành dưới ảnh hưởng của thành phố. Theo lý thuyết này xung quanh một thành phố trung tâm có thể tồn tại và phát triển 5 vành đai sản xuất chuyên môn hoá nông nghiệp theo nghĩa rộng: vành 1 là vành thực phẩm; vành 2 là vành lương thực, thực phẩm; vành 3 là vành cây ăn quả; vành 4 là vành lương thực và chăn nuôi; vành 5 là vành lâm nghiệp (cây xanh). Tuỳ theo điều kiện cụ thể về điều kiện tự nhiên, tập quán sản xuất của cư dân và quy mô của thành phố trung tâm mà xác định số lượng vành đai, cũng như bán kính của mỗi vành đai nông nghiệp. 2.2. Lý thuyết định vị của A. Weber với vấn đề phân bố công nghiệp Lý thuyết định vị của A. Weber ra đời từ đầu thế kỉ XX đã giải thích sự tập trung công nghiệp vào một địa phương do 3 nguyên nhân: chi phí vận tải rẻ nhất được coi là nguyên nhân căn bản; chi phí về nhân công rẻ nhất và là nơi xí nghiệp tập trung để có thể sử dụng phế liệu làm nguyên liệu rẻ tiền. Trên cơ sở xác định nguyên tắc "cực tiểu hoá chi phí, cực đại hoá lợi nhuận" A.Weber đưa ra mô hình không gian về phân bố công nghiệp. Tư tưởng của G.Thunen và A.Weber đều coi thành phố, các cửa vào ra là những "nút" những trọng điểm của lãnh thổ. Sức lan toả của chúng có ảnh hưởng rất lớn xung quanh thành phố (nút) là các vành đai với các chức năng khác nhau, nhưng đều phục vụ cho một trung tâm. Lý thuyết này phù hợp với một nền kinh tế mà quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá chưa mạnh. Nó có ý nghĩa trong việc xác định vai trò của trung tâm, của điểm "trồi" ở những khu vực mà kinh tế còn chậm phát triển. 2.3. Lý thuyết phát triển các điểm trung tâm của W. Christaller - Mỹ (1933) Lý thuyết về điểm trung tâm của W.Christaller (Mỹ - 1933) được hoàn thiện trên những ý tưởng và mô hình của G.Thunen và A.Weber, cũng như 7 Thực hiện: Nhóm 4 lớp cao học K21 Đia lí Chuyên đề: Kinh tế - xã hội đại cương những luận điểm cơ bản của Newton về lực hấp dẫn. W.Christaller đã góp phần to lớn vào việc tìm kiếm quy luật của sự phát triển sản xuất và toàn bộ lĩnh vực phi sản xuất theo không gian. W.Christaller cho rằng, không có nông thôn nào lại không chịu sự của một cực hút, đó là thành phố. Sự biến đổi của chi phí cho các cơ sở hạ tầng phụ thuộc vào vấn đề đô thị hoá. Như vậy, chi phí cho cơ sở hạ tầng sẽ tăng theo những tỉ lệ lớn và ảnh hưởng đến chi phí đầu tư cho quy hoạch lãnh thổ. Thành phố là một trung tâm cho tất cả các điểm dân cư khác của vùng, đảm bảo cung cấp hàng hoá cho chúng. Các trung tâm tồn tại theo nhiều cấp, từ cao tới thấp. Các trung tâm cấp cao có khả năng lựa chọn hàng hoá và dịch vụ, còn các trung tâm cấp thấp ít có khả năng lựa chọn hơn. Ông quan niệm, thành phố như những cực hút, hạt nhân của sự phát triển. Thành phố là các đối tượng để đầu tư có trọng điểm trên cơ sở nghiên cứu mức độ thu hút và mức độ ảnh hưởng của chúng đến các vùng xung quanh thông qua bán kính vùng tiêu thụ các sản phẩm. Chỉ trong giới hạn bán kính vùng tiêu thụ, giới hạn thị trường được xác định; bên ngoài ngưỡng giới hạn, không có lợi trong việc phục vụ hàng hoá. Lý thuyết trung tâm của W.Christaller được nhà bác học người Đức A.Losch bổ sung và phát triển. Ông cho rằng, có một điểm trung tâm chung. Điểm trung tâm này là thành phố quan trọng nhất, là đầu mối của toàn bộ hệ thống các điểm dân cư. Vai trò buôn bán và phục vụ của nó khống chế toàn bộ các vùng phụ thuộc. Công lao của W.Christaller và A.Losch ở chỗ đã khám phá quy luật phân bố không gian từ tương quan giữa các điểm dân cư, phát hiện một trật tự được tính toán trong sự phân bố các thành phố và nông thôn. Điều đó được áp dụng khi quy hoạch các điểm dân cư trên các những lãnh thổ mới khai phá, hoặc nghiên cứu các hệ thống không gian, hay làm cơ sở để xác định các nút trọng điểm. Lý thuyết này chính là cơ sở để bố trí các điểm đô thị , các điểm "trồi" được đồng đều trên lãnh thổ thông qua lực hút từ trung tâm. 2.4. Lý thuyết cực tăng trưởng của Francoi Perroux - Pháp (1950) Francoi Perroux quan tâm đến đô thị theo khía cạnh khác, đó là trình độ phát triển của chúng. Ông quan niệm các đô thị là các “cực”. Hệ thống các cực tương tác với nhau, lan toả ảnh hưởng ra xung quanh. Vào năm 1950, nhà bác 8 Thực hiện: Nhóm 4 lớp cao học K21 Đia lí Chuyên đề: Kinh tế - xã hội đại cương học người Pháp tiến hành nghiên cứu hệ thống các đô thị trong một vùng lãnh thổ ở Pháp. Ông thấy rằng, trong hệ thống các đô thị (mà ông gọi là các cực) có những đô thị đã phát triển tới mức hoàn chỉnh và có những đô thị đang mở mang sự phát triển. Ông gọi những đô thị đã hoàn thiện sự phát triển là những cực phát triển, còn những đô thị đang trong quá trình mở mang sự phát triển là những cực tăng trưởng. Nói một cách cụ thể hơn, cực phát triển là những trung tâm đô thị đã hoàn thiện hoặc tương đối hoàn thiện về chức năng và sự phát triển, đã bước vào giai đoạn phát triển tương đối hoặc ổn định về quy mô và chức năng. Còn cực tăng trưởng là những đô thị mới hình thành và đang trong quá trình phát triển tiến tới hoàn thiện. Căn cứ vào những dấu hiệu ấy người ta bố trí hay không bố trí gần một cực nào đó một điểm đô thị mới. Đó là đóng góp quan trọng của Francoi Perroux. Trong thực tế, trong quá trình triển khai tổ chức lãnh thổ người ta rất hay sử dụng lý thuyết của W. Christaller và F. Perroux để nghiên cứu phát triển các đô thị mới, hoàn thiện những đô thị và phát triển những cụm (chùm) hoặc chuỗi đô thị đã có hoặc mới. Trong chuỗi hoặc chùm đô thị đó có những đô thị đã có, những đô thị đang trưởng thành và những đô thị sẽ phải phát triển mới hoặc mở rộng quy mô; từ đó làm cho tất cả các khu vực lãnh thổ không trống vắng đô thị và văn minh đô thị. Tác giả nhận thấy việc phát triển hệ thống đô thị luôn luôn là vấn đề quan trọng trong tổ chức lãnh thổ kinh tế ở cả cấp quốc gia, cấp vùng và cấp tỉnh cũng như cấp huyện. Tại nhiều quốc gia, người ta thường kết hợp lý thuyết điểm trung tâm của W. Christaller và lý thuyết cực của F. Perroux để tổ chức chùm và chuỗi (hoặc dải) đô thị. Chuỗi và chùm đô thị phát triển trên cơ sở những đô thị vừa mang ý nghĩa như những cực vừa mang ý nghĩa như những trung tâm tác động qua lại với nhau trong một mạng lưới chung. Trong chuỗi hoặc chùm đô thị có thể có trung tâm đô thị được xem như những cực đã phát triển và cũng có những đô thị trung tâm được xem như những cực đang tăng trưởng. 2.5. Lý thuyết cơ sở xuất khẩu Lý thuyết cơ sở xuất khẩu phát triển ở Hoa Kỳ từ trước năm 1950. Lúc đầu, nó chỉ tập trung nghiên cứu sự phát triển kinh tế của những trung tâm buôn bán lớn và về sau được nâng lên thành mô hình phổ biến cho các nước đang phát triển. 9 Thực hiện: Nhóm 4 lớp cao học K21 Đia lí Chuyên đề: Kinh tế - xã hội đại cương Theo thuyết này, chỉ có các hàng hoá sản xuất phục vụ cho thị trường bên ngoài (tức là hàng xuất khẩu) mới được coi là cơ sở để phát triển kinh tế cho một vùng. Các hoạt động kinh tế như vậy tác động đến nhịp độ tăng trưởng việc làm và thu nhập. Từ đó, nền kinh tế trong một vùng được chia thành các ngành cơ bản và các ngành không cơ bản. Tư tưởng chủ đạo của mô hình xuất khẩu là ở chỗ đối với các vùng kinh tế kém phát triển cần phải tìm ra khả năng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bằng việc hướng ngoại. Nhân tố quan trọng đối với cực tăng trưởng của vùng là những thúc đẩy xuất phát từ đòi hỏi bên ngoài. Lợi nhuận có được từ lĩnh vực xuất khẩu là điều kiện cần và đủ để khuyến khích nhu cầu gia tăng thị trường nội địa. Một số mô hình kinh tế hướng vào xuất khẩu đã được thực hiện thành công ở Đài Loan, Hàn Quốc, Xingapo… Một dạng khác khác của lý thuyết này là lý thuyết về sự phụ thuộc, mà sau này trở thành cơ sở lý luận cho chiến lược phát triển hướng vào xuất khẩu của nhiều quốc gia. Nó được hình thành từ cuộc tranh luận của các nhà kinh tế học ở Mỹ Latinh khoảng giữa những năm 50 của thế kỷ XX. Theo thuyết này, trong điều kiện thế giới có sự phục thuộc lẫn nhau thì các nước đang phát triển chỉ có thể phát triển được bằng cách dựa vào nguồn vốn và công nghệ tiên tiến của các nước phát triển. Thế mạnh của các nước đang phát triển là nguồn tài nguyên thiên nhiên đa dạng và phong phú, lực lượng lao động dồi dào và rẻ. Hạn chế chính là thiếu vốn và công nghệ hiện đại, năng lực quản lý kém, thị trường tiêu thụ nhỏ. Trong quá trình thực hiện mô hình hướng vào xuất khẩu, bên cạnh những thành công, thực tiễn chỉ ra rằng cái giá phải trả cũng không nhỏ. Đó là sự phụ thuộc chặt chẽ vào bên ngoài, nền kinh tế bị mất cấn đối nghiêm trọng về phương diện ngành và lãnh thổ, phân hoá giàu nghèo rõ rệt… II. TỔ CHỨC LÃNH THỔ CÔNG NGHIỆP 1. Khái niệm 1.1. Khái niệm về tổ chức lãnh thổ công nghiệp Dựa trên những cơ sở lý luận và quan niệm về tổ chức lãnh thổ kinh tế nói trên ta có thể tiếp cận với khái niệm về tổ chức lãnh thổ công nghiệp như sau: Tổ chức lãnh thổ công nghiệp là một trong những hình thức tổ chức của nền sản 10 Thực hiện: Nhóm 4 lớp cao học K21 Đia lí Chuyên đề: Kinh tế - xã hội đại cương xuất xã hội theo lãnh thổ. Trải qua quá trình lâu dài, được nghiên cứu dưới nhiều góc độ, thuật ngữ tổ chức lãnh thổ công nghiệp được sử dụng rộng rãi trong các tài liệu khoa học và thực tiễn. A.T. Khơrutsov (1979) đã cho rằng: Tổ chức lãnh thổ công nghiệp là hệ thống các mối liên kết không gian của các ngành và các kết hợp sản xuất lãnh thổ khác nhau trên cơ sở sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, vật chất, lao động cũng như tiết kiệm chi phí để khắc phục sự không phù hợp đã xuất hiện trong lịch sử về việc phân bố các nguồn nguyên nhiên liệu, năng lượng, nơi sản xuất và nơi tiêu thụ sản phẩm, góp phần đạt hiệu quả kinh tế cao. Hiện nay tổ chức lãnh thổ công nghiệp được nhìn nhận là hệ thống các mối liên kết không gian của các ngành và các kết hợp sản xuất lãnh thổ trên cơ sở sử dụng hợp lý nhất các nguồn tài nguyên thiên nhiên, vật chất, lao động nhằm đạt được hiệu quả cao nhất về các mặt kinh tế, xã hội, môi trường. Tổ chức lãnh thổ không phải là một hiện tượng bất biến. So với nông nghiệp tổ chức lãnh thổ công nghiệp có thể thay đổi trong một thời gian tương đối ngắn. Điều này hoàn toàn dễ hiểu, bởi vì trong thời đại ngày nay dưới tác động của sự tiến bộ khoa học và công nghệ, nhu cầu của người tiêu dùng và cả bản thân thị trường cũng thường xuyên thay đổi. Vì vậy muốn tồn tại và phát huy tác dụng, tổ chức lãnh thổ công nghiệp không thể xơ cứng và chậm biến đổi, mặc dù về mặt lý luận mỗi hình thái kinh tế - xã hội sẽ có các kiểu hình thái tổ chức lãnh thổ công nghiệp tương ứng. Ở nước ta, số lượng các công trình nghiên cứu về tổ chức lãnh thổ công nghiệp không nhiều. Tuy nhiên, tổ chức lãnh thổ công nghiệp có thể được coi là việc bố trí hợp lý các cơ sở sản xuất công nghiệp, các cơ sở phục vụ cho hoạt động công nghiệp, các điểm dân cư, cùng kết cấu hạ tầng trên phạm vi một lãnh thổ nhất định, nhằm sử dụng hợp lý các nguồn lực bên trong cũng như bên ngoài của lãnh thổ đó. Thực tiễn ở nước ta cũng chỉ ra rằng, quá trình hình thành và phát triển một số hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp (điểm, cụm, khu, trung tâm công nghiệp) gắn liền với quá trình đô thị hoá. Quá trình này, một mặt làm xuất hiện những đô thị mới và mặt khác, cải tạo hoặc nâng cấp các đô thị cũ. Giữa đô thị hoá và phát triển công nghiệp có mối quan hệ hữu cơ. Việc phát triển và phân bố công nghiệp 11 Thực hiện: Nhóm 4 lớp cao học K21 Đia lí Chuyên đề: Kinh tế - xã hội đại cương là cơ sở quan trọng nhất để hình thành và phát triển đô thị. Mặt khác, mạng lưới đô thị khi đã ra đời và nhất là có kết cấu hạ tầng ở mức độ nhất định sẽ trở thành nơi hấp dẫn, làm cơ sở phát triển các tổ chức lãnh thổ công nghiệp. 1.2. Một số đặc điểm của tổ chức lãnh thổ công nghiệp Trong tổ chức lãnh thổ công nghiệp, các ngành và lãnh thổ có mối quan hệ mật thiết với nhau. Một mặt nếu thiếu hiểu biết về những đặc điểm kinh tế - kĩ thuật và đặc điểm phân bố của từng ngành thì không thể xác định đúng đắn dù chỉ một kết hợp một không gian của các xí nghiệp ở bất kì hình thức nào. Mặt khác, đến lượt mình, một ngành (phân ngành) lại được xem xét dưới hai góc độ: xuyên qua lăng kính của tất cả các ngành công nghiệp (và cả nền kinh tế nói chung) và sự kết hợp của các ngành khác nhau trên cùng một lãnh thổ. Khi xác định đặc điểm của từng ngành công nghiệp, nổi lên một số vấn đề quan trọng dưới đây: - Vai trò của ngành trong nền kinh tế và trong sự phân công lao động theo lãnh thổ của vùng hoặc của cả nước. - Các mối liên hệ qua lại của nó với các ngành khác. - Các chức năng tạo vùng và ảnh hưởng của nó đến việc hình thành các không gian công nghiệp. - Các đặc điểm về chuyên môn hoá, cấu trúc và tổ chức sản xuất theo lãnh thổ. - Các điều kiện tự nhiên, kinh tế - kỹ thuật và hiệu quả của sản xuất. - Phân vùng sản xuất và việc phân chia các khu vực tiêu thụ sản phẩm. - Các xu hướng thay đổi về mặt lãnh thổ. Dĩ nhiên, khi nghiên cứu các ngành thuần tuý thì chưa thể coi là đầy đủ. Song nếu không vạch ra được đặc điểm của chúng thì rõ ràng nó có được những kết luận đúng đắn về các quy luật phát sinh và phát triển của các kết hợp sản xuất lãnh thổ. Như vậy, khi đề cập tới khái niệm tổ chức lãnh thổ công nghiệp tất yếu phải nghiên cứu mối quan hệ giữa các ngành với các kết hợp sản xuất lãnh thổ. Mỗi ngành công nghiệp đều có sự thống nhất nào đó về kỹ thuật sản xuất. Nó tập hợp các xí nghiệp tương đối giống nhau về sản phẩm sản xuất ra, về nguyên liệu sử dụng, kỹ thuật và quy trình công nghệ, các yếu tố phân bố và nhiều dấu hiệu khác. Song bản thân mỗi ngành lại có vô số các mối liên hệ sản xuất rất phức tạp. Các xí nghiệp thuộc một ngành có thể được phân bố tách rời nhau về 12 Thực hiện: Nhóm 4 lớp cao học K21 Đia lí Chuyên đề: Kinh tế - xã hội đại cương mặt không gian. Ngược lại, các xí nghiệp thuộc một số ngành khác lại có thể nằm trên cùng một lãnh thổ và trong quá trình tác động qua lại của chúng tạo nên các kết hợp sản xuất lãnh thổ. Đặc điểm về cấu trúc có ý nghĩa quan trọng đối với việc tổ chức lãnh thổ công nghiệp. Nó được thể hiện qua tính cân đối và mối liên hệ bên trong. Các kết hợp sản xuất lãnh thổ càng phức tạp bao nhiêu thì các mối quan hệ bên trong của chúng càng đa dạng bấy nhiêu. Chiều sâu của tổ chức lãnh thổ công nghiệp phụ thuộc vào sự phát triển sản xuất. Trình độ phát triển công nghiệp thể hiện ở quy mô và hiệu quả sản xuất cần đạt được trong một thời điểm nào đó. Vấn đề là ở chỗ khối lượng và hiệu quả của nó phụ thuộc nhiều vào độ lớn và thành phần của nguồn tài nguyên thiên nhiên, vật chất, lao động, trình độ và cả việc sử dụng chúng một cách hợp lý nhất. Về phía mình, trình độ phát triển sản xuất cũng ảnh hưởng lại tới cấu trúc và tổ chức lãnh thổ công nghiệp. Tiêu chuẩn tối ưu của tổ chức lãnh thổ công nghiệp là hiệu quả kinh tế, xã hội, và môi trường . 1.3. Yêu cầu của việc tổ chức lãnh thổ công nghiệp - Để đạt được mục tiêu đề ra tổ chức lãnh thổ công nghiệp phải thực hiện một số nhiệm vụ chính sau: + Sử dụng hợp lý, có hiệu quả nhất các nguồn lực của lãnh thổ (điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên, kinh tế, xã hội...). + Giải quyết các vấn đề xã hội có liên quan, đặc biệt là các vấn đề việc làm cho một bộ phận lao động của lãnh thổ. + Giảm thiểu sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các địa phương trong lãnh thổ nghiên cứu nói riêng và giữa các vùng trong phạm vi cả nước nói chung thông qua quá trình lựa chọn và phân bố công nghiệp. + Bảo vệ và tôn tạo tài nguyên, môi trường nhằm đảm bảo cho sự phát triển bền vững; kết hợp phát triển công nghiệp với an ninh, quốc phòng. + Dự báo để có chiến lược phát triển thích hợp. - Mục đích cao nhất của tổ chức lãnh thổ công nghiệp là góp phần thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Trong điều kiện nền kinh tế mở như hiện nay, thị trường là yếu tố sống còn. Vì vậy, cần phải mở 13 Thực hiện: Nhóm 4 lớp cao học K21 Đia lí Chuyên đề: Kinh tế - xã hội đại cương rộng và chiếm lĩnh được thị trường (trong nước và quốc tế) bằng cách nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành để sản phẩm sản xuất ra có đủ khả năng cạnh tranh được với hàng ngoại. - Công nghiệp hoá là yếu tố quan trọng hàng đầu đối với việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, quá trình này diễn ra không phải trong một thời gian ngắn. Do đó, cần phải có một chiến lược phát triển với những phân đoạn thích hợp. 2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tổ chức lãnh thổ công nghiệp 2.1. Nguồn lực bên trong 2.1.1. Vị trí địa lý Vị trí địa lý bao gồm vị trí tự nhiên, vị trí kinh tế, giao thông, chính trị. Vị trí địa lý tác động rất lớn đến việc lựa chọn địa điểm xây dựng xí nghiệp, cũng như phân bố các ngành công nghiệp và các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp. - Nhìn chung, vị trí địa lý có ảnh hưởng rõ rệt đến việc hình thành cơ cấu ngành công nghiệp và xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành trong điều kiện tăng cường mở rộng các mối quan hệ kinh tế quốc tế và hội nhập vào đời sống kinh tế khu vực và thế giới. Sự hình thành và phát triển các xí nghiệp các ngành công nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào vị trí địa lý. Có thể thấy rõ hầu hết các cơ sở công nghiệp ở các quốc gia trên thế giới đều được bố trí ở các khu vực có vị trí địa lí thuận lợi như gần các trục đường giao thông, sân bay, bến cảng, gần nguồn nước, khu vực tập trung đông dân cư. - Vị trí thuận lợi hay không thuận lợi tác động mạnh đến việc tổ chức lãnh thổ công nghiệp, bố trí không gian các khu vực tập trung công nghiệp. Vị trí càng thuận lợi thì mức độ tập trung công nghiệp càng cao, các hình thức tổ chức công nghiệp càng đa dạng và phức tạp. Ngược lại những khu vực có vị trí địa lí kém thuận lợi sẽ gây trở ngại cho việc xây dựng và phát triển công nghiệp cũng như việc kêu gọi vốn đầu tư. Ví dụ: thực tiễn đã chỉ ra rằng sự thành công của các khu công nghiệp và khu chế xuất trên thế giới trên thế giới thường gắn liền với sự thuận lợi về vị trí địa lí. Khu vực Đông Nam Á hiện nay được đánh giá là một trong những khu vực có vị trí địa lí thuận lợi: bao gồm cả vị trí tự nhiên, kinh tế, giao thông, chính trị. Là khu vực cầu nối giữa Châu Á và Châu Úc, giao thông đường biển và đường hàng không 14 Thực hiện: Nhóm 4 lớp cao học K21 Đia lí Chuyên đề: Kinh tế - xã hội đại cương rất thuận lợi giữa các quốc gia trong khu vực và các cường quốc kinh tế lớn như Trung Quốc, Nga, Nhật Bản, Ấn Độ… Đây là khu vực có chính trị ổn định môi trường đầu tư tốt. Hiện nay Đông Nam Á là khu vực kinh tế phát triển năng động nhất thế giới và thu hút được vốn đầu tư rất lớn. Việt Nam trong số hơn 100 địa điểm có thể xây dựng được các khu công nghiệp tập trung thì có khoảng 40 nơi thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước do có vị trí địa lí thuận lợi. Một trong các khu công nghiệp tương đối thành công hiện nay là khu công nghiệp Dung Quất – Quảng Ngãi là nhờ có một vị trí địa lí thuận lợi. Dung Quất nằm ở một vị trí địa lý thuận lợi cho giao thông đường bộ, hàng hải cũng như hàng không: nằm bên Quốc lộ 1A, Đường sắt Bắc Nam, Quốc lộ 24 nối với Tây Nguyên và các nước thuộc Tiểu Vùng sông Mê Kông (một trong 5 tuyến đường ngang của hệ thống đường xuyên Á chạy qua Việt Nam, có cảng nước sâu Dung Quất và có sân bay quốc tế Chu Lai, cách tuyến nội hải 30 km và cách tuyến hàng hải quốc tế 90km. Về mặt địa lý, Dung Quất có thể được xem là vị trí trung tâm điểm của Việt Nam và của Đông Nam Á. 2.1.2. Nguồn lực tự nhiên Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên được coi là tiền đề vật chất không thể thiếu được để phát triển và phân bố công nghiệp. Nó ảnh hưởng rõ rệt đến việc hình thành và xác định cơ cấu ngành công nghiệp. Số lượng, chất lượng, phân bố và sự kết hợp của chúng trên lãnh thổ có ảnh hưởng rõ rệt đến tình hình phát triển và phân bố của nhiều ngành công nghiệp. a. Khoáng sản: Khoáng sản là một trong những nguồn tài nguyên thiên nhiên có ý nghĩa hàng đầu đối với việc phát triển và phân bố công nghiệp. Khoáng sản được coi là “bánh mì” cho các ngành công nghiệp. Số lượng chủng loại, trữ lượng, chất lượng khoáng sản và sự kết hợp các loại khoáng sản trên lãnh thổ sẽ chi phối quy mô, cơ cấu và tổ chức các xí nghiệp công nghiệp. Ví dụ: Khoáng sản thế giới phân bố không đồng đều. Có những nước giàu tài nguyên khoáng sản như Hoa Kì, Trung Quốc, Canađa, Liên Bang Nga, Ấn Độ…Có những nước nổi tiếng với một loại khoáng sản như Chi Lê (đồng), khu vực Tây Á là nơi tập trung tới hơn một nửa trữ lượng dầu của thế giới, do vậy ở 15 Thực hiện: Nhóm 4 lớp cao học K21 Đia lí Chuyên đề: Kinh tế - xã hội đại cương đây đã rất phát triển ngành công nghiệp khai thác dầu có qui mô lớn, chẳng hạn ở Ảrập Xêut, Côoet, Iran, Irắc… Việt Nam được đánh giá là có nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú và đa dạng, tạo điều kiện thuận lợi hình thành và phát triển các ngành công nghiệp từ Bắc tới Nam: Khai thác than ở Quảng Ninh, khai thác và chế biến quặng sắt ở Thái Nguyên, Hà Tĩnh, Apatit ở Lào Cai, bôxit ở Tây Nguyên, đá vôi ở các tỉnh phía Bắc… b. Khí hậu và nguồn nước Nguồn nước có ý nghĩa rất lớn đối với các ngành công nghiệp. Mức độ thuận lợi hay khó khăn về nguồn cung cấp nước hoặc thoát nước là điều kiện quan trọng để định vị các xí nghiệp công nghiệp. Nhiều ngành công nghiệp được phân bố gần nguồn nước như: công nghiệp luyện kim, công nghiệp dệt, công nghiệp giấy, hóa chất và chế biến thực phẩm… Những vùng có mạng lưới sông ngòi dày đặc và chảy trên các dạng địa hình khác nhau tạo nên tiềm năng cho công nghiệp thủy điện. Ví dụ Trung Quốc đã tiến hành xây dựng đập Tam Điệp chặn sông Trường Giang (con sông lớn thứ 3 thế giới) và đến nay nó là đập thủy điện lớn nhất thế giới, với công suất phát điện 18.200MW, điện lượng 84,3 tỷ KWh/năm. Việt Nam có mạng lưới sông ngòi dày đặc, nguồn nước dồi dào, là cơ sở cho việc xây dựng các nhà máy thủy điện có công suất lớn phục vụ cho hoạt động sản xuất công nghiệp và đời sống con người như nhà máy thủy điện Hòa Bình có công suất 1,92 triệu KW trên sông Đà, thủy điện Trị An có công suất 400 MW trên sông Đồng Nai, thủy điện Tuyên Quang 342MW. Khí hậu cũng có ảnh hưởng nhất định đến sự phân bố công nghiệp. Đặc điểm khí hậu có tác động không nhỏ đến hoạt động của các ngành công nghiệp khai khoáng. Trong một số trường hợp nó chi phối cả việc lựa chọn kĩ thuật và công nghệ sản xuất. Ví dụ ở một số nước có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa làm cho máy móc dễ bị hư hỏng. Vì vậy đòi hỏi phải nhiệt đới hóa trang thiết bị sản xuất. c. Các nhân tố tự nhiên khác Các nhân tố tự nhiên khác có tác động đến sự phát triển và phân bố công nghiệp như đất đai, tài nguyên sinh vật… - Về mặt tự nhiên đất ít có giá trị đối với công nghiệp nhưng quỹ đất dành cho công nghiệp và địa chất công trình cũng ít nhiều ảnh hưởng đến quy mô hoạt động và vốn thiết kế cơ bản. 16 Thực hiện: Nhóm 4 lớp cao học K21 Đia lí Chuyên đề: Kinh tế - xã hội đại cương - Tài nguyên sinh vật cũng tác động tới sản xuất công nghiệp. Rừng và hoạt động lâm nghiệp là nơi cung cấp vật liệu xây dựng, nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến giấy, gỗ, tiểu thủ công nghiệp… 2.1.3. Nguồn lực kinh tế - xã hội a. Dân cư và nguồn lao động Dân cư và nguồn lao động có vai trò thúc đẩy sự phát triển tổ chức lãnh thổ công nghiệp, nếu không có nhân tố con người thì công nghiệp sẽ không phát triển được. Dân cư và nguồn lao động vừa là lực lượng sản xuất vừa là thị trường tiêu thụ. Dân cư và nguồn lao động là lực lượng sản xuất chủ yếu, là một trong những điều kiện quan trọng phát triển và phân bố công nghiệp. Những ngành cần nhiều lao động như dệt, may, chế tạo máy… thường phân bố ở nơi đông dân cư. Các ngành sản xuất hàng tiêu dùng đáp ứng nhu cầu hàng ngày của con người cũng thường phân bố ở những nơi có mật độ dân số cao và những điểm tập trung dân cư (như công nhiệp dệt, công nghiệp thực phẩm, đồ dùng gia đình, đồ chơi…) chất lượng của người lao động như trình độ học vấn, trình độ tay nghề và chuyên môn kĩ thuật cũng có ảnh hưởng rất lớn đến việc xây dựng và đáp ứng những thành tựu của khoa học và kỹ thuật đối với những xí nghiệp công nghiệp. Quy mô, cơ cấu và thu nhập của dân cư cũng ảnh hưởng lớn đến quy mô và cơ cấu của nhu cầu tiêu dùng. Nó cũng là cơ sở để phát triển các ngành công nghiệp. Khi tập quán và nhu cầu tiêu dùng thay đổi nó cũng ảnh hưởng đến sự chuyển hướng về quy mô và hướng chuyển hướng chuyên môn hóa các ngành va xí nghiệp công nghiệp, từ đó dẫn đến mở rộng hay thu hẹp không gian công nghiệp cũng như cơ cấu ngành của nó. b. Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật Hệ thống cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ công nghiệp có ý nghĩa nhất định đối với việc tổ chức lãnh thổ công nghiệp. Nó có thể là tiền đề thuận lợi hay cản trở sự phát triển công nghiệp nói chung và tổ chức lãnh thổ công nghiệp nói riêng. Hệ thống cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho hoạt động sản xuất công nghiệp bao gồm hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc, mạng lưới cung cấp điện, nước, các nhà máy, xí nghiệp, cơ sở công nghiệp… có vai trò ngày càng quan trọng trong tổ chức lãnh thổ công nghiệp. Sự tập trung cơ sở hạ tầng trên một lãnh thổ đã làm thay đổi vai trò của 17 Thực hiện: Nhóm 4 lớp cao học K21 Đia lí Chuyên đề: Kinh tế - xã hội đại cương nhiều nhân tố phân bố công nghiệp, đem lại nhiều yếu tố mới trong bức tranh tổ chức lãnh thổ công nghiệp. c. Những tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ Tiến bộ khoa học công nghệ không chỉ tạo ra những khả năng mới về sản xuất, đẩy nhanh tốc độ phát triển một số ngành làm tăng tỉ trọng của chúng trong tổng thể toàn bộ ngành công nghiệp, làm cho việc sử dụng, khai thác tài nguyên và phân bố các ngành công nghiệp trở nên hợp lí hơn, có hiệu quả và kéo theo những thay đổi về quy luật phân bố sản xuất. Đồng thời nảy sinh những nhu cầu mới xuất hiện những ngành công nghiệp mới mở ra những triển vọng phát triển mới cho ngành công nghiệp trong tương lai. d. Đường lối, chính sách phát triển Đường lối, chính sách phát triển có ảnh hưởng trực tiếp, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển công nghiệp đặc biệt là tổ chức lãnh thổ công nghiệp. Chính vì vậy trong quá trình tổ chức lãnh thổ công nghiệp cần thiết phải có một đường lối chính sách phát triển đúng đắn, tạo điều kiện cho công nghiệp phát triển mạnh. Phù hợp với xu thế mở cửa hội nhập chúng ta đã xây dựng những ngành công nghiệp mũi nhọn dựa vào lợi thế so sánh như công nghiệp năng lượng, công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản, công nghiệp nhẹ gia công xuất khẩu sử dụng nhiều lao động, công nghiệp cơ khí, điện tử, công nghệ thông tin, một số ngành sản xuất nhiên liệu cơ bản… Cơ cấu công nghiệp theo ngành và theo lãnh thổ đã có những chuyển biến rõ rệt theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa. 2.2. Nguồn lực bên ngoài 2.2.1. Thị trường Thị trường bao gồm thị trường trong nước và thị trường quốc tế đóng vai trò như chiếc đòn bẩy đối với sự phát triển, phân bố và cả sự thay đổi cơ cấu ngành công nghiệp. Nó có tác động mạnh mẽ đến việc lựa chọn vị trí xí nghiệp hướng chuyên môn hóa sản xuất. Sự phát triển công nghiệp ở bất kì quốc gia nào đều nhằm thỏa mãn nhu cầu trong nước và hội nhập vào thị trường quốc tế. Công nghiệp có thị trường tiêu thụ rất rộng lớn. Điều đó được thể hiện dưới hai khía cạnh. Công nghiệp một mặt, cung cấp tư liệu sản xuất, trang thiết bị cho tất cả các ngành kinh tế và mặt khác, đáp ứng nhu cầu về tiêu dùng cho mọi tầng lớp nhân dân. 18 Thực hiện: Nhóm 4 lớp cao học K21 Đia lí Chuyên đề: Kinh tế - xã hội đại cương Công nghiệp hiện đối mặt với thị trường đang ở trong quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế - xã hội. Sự phát triển về truyền thông đại chúng đã làm cho mọi thông tin cập nhật mau chóng được phổ cập tới toàn xã hội, trong đó có thông tin về tiêu thụ. Nó kích thích nhu cầu tiêu dùng của xã hội ngày càng đa dạng và phức tạp hơn đối với công nghiệp. 2.2.2. Các xu thế kinh tế quốc tế, các mối quan hệ hợp tác liên vùng, quốc tế Các xu thế kinh tế quốc tế, các mối quan hệ hợp tác liên vùng, quốc tế có tác dụng thúc đẩy quá trình tổ chức lãnh thổ công nghiệp diễn ra nhanh hay chậm. Ngày nay trong bối cảnh toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế thế giới cùng với những tiến bộ kỹ thuật phát triển như vũ bão, vấn đề hợp tác quốc tế là xu thế tất yếu, đem lại lợi ích cho các bên đối tác. Đối với các nước, các vùng chậm phát triển, để giảm khoảng cách về trình độ phát triển và tránh tụt hậu, không thể không quan tâm đến sự hợp tác quốc tế và liên vùng. Hợp tác quốc tế và liên vùng được thể hiện qua một số lĩnh vực chủ yếu sau đây: - Hỗ trợ vốn đầu tư từ các nước, các vùng phát triển cho các nước, các vùng đang phát triển và chậm phát triển. Quá trình hợp tác đầu tư làm xuất hiện ở các nước, các vùng đang phát triển và chậm phát triển một số ngành công nghiệp mới, các khu công nghiệp tập trung, các khu chế xuất và mở mang các ngành nghề truyền thống. Điều đó dẫn đến sự thay đổi tổ chức lãnh thổ công nghiệp theo hai chiều tích cực và tiêu cực. - Chuyển giao kỹ thuật và công nghệ cũng là một trong những xu hướng quan trọng của sự hợp tác quốc tế và liên vùng. Kỹ thuật, công nghệ hiện đại có ý nghĩa quyết định đến nhịp điệu phát triển kinh tế, nó ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô, phương hướng sản xuất và sau đó là việc phân bố sản xuất, các hình thức tổ chức lãnh thổ cũng như bộ mặt kinh tế - xã hội của cả vùng hay quốc gia. - Chuyển giao kinh nghiệm tổ chức quản lý đến các nước, các vùng đang phát triển và chậm phát triển đã trở thành yêu cầu cấp thiết. Kinh nghiệm quản trị giỏi không chỉ giúp từng xí nghiệp làm ăn phát đạt mà còn mở ra cơ hội cho họ hợp tác chặt chẽ với nhau, tạo ra sự liên kết bền vững trong một hệ thống sản xuất kinh doanh thống nhất. Chính sự liên kết đó là tiền đề để hình hành các không gian công nghiệp cũng như các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp. 19 Thực hiện: Nhóm 4 lớp cao học K21 Đia lí Chuyên đề: Kinh tế - xã hội đại cương - Sự hỗ trợ từ bên ngoài về năng lượng, nguyên vật liệu có tác động thúc đẩy nhanh hơn quá trình tổ chức lãnh thổ công nghiệp. Đối với các vùng thiếu năng lượng, nguyên vật liệu thì sự hỗ trợ từ bên ngoài là không thể thiếu được. Chính quá trình này đã ảnh hưởng, thậm chí quy định tổ chức lãnh thổ cụng nghiệp ở những vùng được hỗ trợ và mở ra một hướng phát triển hoàn toàn mới có hiệu quả thúc đẩy ngành công nghiệp nói riêng và ngành kinh tế toàn vùng nói chung. Tổ chức lãnh thổ công nghiệp chịu ảnh hưởng của cả nguồn lực bên trong và nguồn lực bên ngoài. Trong đó, yếu tố quyết định đến sự hình thành và tổ chức lãnh thổ công nghiệp phải kể đến là các nguồn lực bên trong, các nguồn lực bên ngoài có vai trò thúc đẩy nhanh hơn quá trình này. Tuy nhiên, trong một số trường hợp cụ thể, nguồn lực bên ngoài chi phối mạnh mẽ, thậm chí có thể có ý nghĩa quyết định đến tổ chức lãnh thổ công nghiệp. 3. Các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp Các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp trên thế giới rất đa dạng và phong phú; lịch sử nghiên cứu các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp đã có từ lâu, nhưng cho tới nay quan niệm về các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp giữa các nước vẫn rất khác nhau. Dưới đây là quan niệm về tổ chức lãnh thổ công nghiệp ở một số nước. 3.1. Các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp ở Liên Xô và Đông Âu Việc nghiên cứu các hình thức tổ chức công nghiệp ở Liên Xô và Đông Âu trước đây được tiến hành từ khá sớm và tương đối sâu sắc với sự tham gia của nhiều nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau đặc biệt là địa lý học. Mặc dù còn nhiều điểm chưa thống nhất và gây tranh cãi nhưng nhìn chung có thể tổng kết các hình thức tổ chức lãnh thổ công nghiệp chủ yếu ở đây từ thấp lên cao xét về trình độ bao gồm: 3.1.1. Điểm công nghiệp a. Khái niệm - Theo X. Xlavev (1977): Điểm công nghiệp là lãnh thổ trên đó có một điểm dân cư với một, hay một nhóm xí nghiệp công nghiệp (thị trấn, thị tứ). - Theo M. Ghenexki và K. Krưxter (1975): Điểm công nghiệp là các lãnh thổ (thị trấn, thị tứ, trung tâm cụm xã) trên đó có sự hoạt động của một xí nghiệp công nghiệp. 20 Thực hiện: Nhóm 4 lớp cao học K21 Đia lí
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan