z
LUẬN VĂN:
Tổ chức kế toán thành phẩm và
tiêu thụ tại doanh nghiệp
Lời mở đầu
Trong điều kiện nền kinh tế của nước ta chuyển từ bao cấp sang nền kinh tế
hoạt động theo cơ chế thị trường. Thị trường tiêu thụ luôn là một vấn đề sống còn
của mọi doanh nghiệp thị trường có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với các doanh nghiệp
sản xuất nói riêng và đối với nền kinh tế quốc dân nói chung. Mọi hoạt động của
doanh nghiệp đều gắn với thị trường.
Trong cơ chế thị trường hiện nay buộc các doanh nghiệp phải tìm cho mình
hướng đi đúng đắn và phải luôn vươn lên sản xuất các sản phẩm có chất lượng cao
để cạnh tranh trên thị trường. Hoạt động sản xuất là hoạt động cơ bản nhất vì doanh
nghiệp sản xuất sản phẩm gì, sản xuất với khối lượng nhiều hay ít đều phải căn cứ
vào nhu cầu của thị trường. Người mua có chấp nhận hay không giá cả có phù hợp
với người tiêu dùng hay không, đòi hỏi các doanh nghiệp phải sản xuất, sản phẩm
phù hợp với nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng, sản phẩm cung cấp phải đảm bảo
chất lượng chủng loại phong phú, mẫu mã kiểu dáng hấp dẫn, giá cả hợp lý. Ngoài
ra việc sản xuất sản phẩm phải phù hợp với quan điểm kinh tế, phải hạch toán kinh
doanh theo đúng luật định lấy thu nhập bù đủ chi phí đã bỏ ra đảm bảo thu được
doanh lợi ngày càng cao để tiếp tục tồn tại và phát triển. Chính vì vậy ngoài phần
vốn do Nhà nước cấp phát khi thiếu vốn các doanh nghiệp phải vay một phần vốn
của Ngân hàng và luôn bổ sung một phần vốn trên cơ sở kinh doanh có hiệu quả
được Nhà nước cho phép trích lại một tỷ lệ nhất định để bổ sung quĩ đầu tư phát
triển nhằm tái tạo lại tài sản cố định hoặc mở rộng chiều sâu cho sản xuất,... một
phần huy động vốn của cán bộ công nhân viên hoặc liên doanh, liên kết nhằm bổ
sung đủ vốn cố định, vốn lưu động tạo sức mạnh cạnh tranh trên thị trường.
Trong cơ chế thị trường mọi doanh nghiệp đều phải tự mình tìm kiếm thị
trường nơi tiêu thụ sản pham, hàng hoá. Chính qua những thử thách đó mà doanh
nghiệp đã nhận thức một cách đúng đắn về tiêu thụ sản phẩm. Có tiêu thụ được
nhiều sản phẩm, hàng hoá thì doanh nghiệp mới tồn tại và phát triển. Tiêu thụ là
một khâu quan trọng trong quá trình luân chuyển vốn. Dựa vào chỉ tiêu này mác các
doanh nghiệp có thể được đánh giá là làm ăn có hiệu quả hay không. Hàng hoá mà
doanh nghiệp sản xuất ra được tiêu thụ nhanh cũng chứng tỏ được vị trí của mình
trên thị trường đang cạnh tranh khốc liệt.
Trong các doanh nghiệp sản xuất việc tổ chức quản lý tiêu thụ sản phẩm luôn được coi
trọng. Thông qua việc tổ chức bán hàng, việc tổ chức kế toán thành phẩm và tiêu thụ tại
doanh nghiệp được đặt ở vị trí xứng đáng trong toàn bộ công tác kế toán.
I-/
ý nghĩa và sự cần thiết của kế toán thành phẩm và bán hàng trong doanh
nghiệp sản xuất:
Theo qui luật tái sản xuất, quá trình sản xuất trong doanh nghiệp sản xuất bao gồm:
- Sản xuất - phân phối - trao đổi - tiêu dùng, các giai đoạn này diễn ra một cách
tuần tự. Kết thúc quá trình sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp được đem ra tiêu thụ:
Tức là đã thực hiện giá trị và giá trị sử dụng. Trong cơ chế thị trường hiện nay sự sống
còn của doanh nghiệp chính là sản phẩm sản xuất ra có bán được hay không, sản phẩm
muốn tiêu thụ được nhiều hay ít phụ thuộc vào tình hình sản xuất có đảm bảo chất
lượng, mẫu mã, giá cả có thích hợp với nhu cầu của người tiêu dùng thường xuyên
trong xã hội hay không. Xuất phát từ mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu thụ sản phẩm,
trong đó sản xuất là tiền đề quyết định tiêu thụ. Sản phẩm sản xuất ra với khối lượng
lớn, chất lượng cao, giá thành hạ thì mới tạo điều kiện cho quá trình bán hàng được dễ
dàng. Ngược lại thông qua việc bán hàng thì sản phẩm mới được thực hiện giá trị và giá
trị sử dụng. Sản phẩm đưa ra tiêu thụ được một khối lượng lớn chứng tở doanh nghiệp
sản xuất ra sản phẩm phù hợp với yêu cầu của người tiêu dùng và đã được xã hội chấp
nhận cả về số lượng cũng như chất lượng.
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh tiêu thụ sản phẩm gắn với quá
trình bán hàng. Việc này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với bản thân doanh
nghiệp và đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Khâu bán hàng là khâu tiêu thụ cuối
cùng của doanh nghiệp, nó đảm bảo ổn định nền tài chính để cho doanh nghiệp tồn
tại và tiếp tục phát triển. Nó còn giữ vững trong việc luân chuyển bảo toàn phát triển
vốn kinh doanh. Doanh nghiệp muốn tiếp tục sản xuất thì phải có vốn mua nguyên
vật liệu, trả lương cho người lao động, tích luỹ cho ngân sách Nhà nước, đảm bảo
tính cân đối trong nền kinh tế, giữa tiền - hàng, giữa cung và cầu, giữa sản xuất và
tiêu dùng. Bán hàng là thực hiện quan hệ trao đổi, thông qua mua bán thực hiện giá
trị và giá trị sử dụng hàng hoá. Doanh nghiệp giao sản phẩm hàng hoá cho người
mua hàng và được người mua hàng trả tiền theo giá cả qui định hoặc giá thoả thuận
giữa người mua và người bán.
Trong các doanh nghiệp sản xuất kế toán được coi là công cụ có hiệu lực về
quản lý kinh tế, quản lý doanh nghiệp, kế toán thành phẩm và bán hàng là một trong
những phần hành kế toán chủ yếu của Bộ máy kế toán doanh nghiệp. Mặt khác hiệu
quả của khâu sản xuất và khâu tiêu thụ sản phẩm không tách rời nhau mà nó gắn
liền với hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ở một thời kỳ nhất định, do
vậy công tác kế toán thành phẩm và bán hàng phải là: thông qua việc đo lường, tính
toán, ghi chép phản ánh một cách thường xuyên, tổng hợp các nghiệp vụ kinh tế
phát sinh về tiêu thụ, bán hàng trong quá trình sản xuất kinh doanh luôn đòi hỏi các
doanh nghiệp áp dụng nhiều biện pháp khác nhau để tổ chức quản lý các mặt. Trong
đó tổ chức kế toán thành phẩm một cách khoa học, hợp lý đúng với chế độ tài chính
của Nhà nước là yêu cầu cần thiết và hết sức quan trọng. Kế toán thành phẩm là
công cụ trong việc tính toán, kiểm tra, phản ánh một cách chính xác tình hình nhập,
xuất tồn kho thành phẩm, tình hình thực hiện kế hoạch bán hàng và xác định doanh
thu, kết quả bán hàng ở tại một thời điểm nhất định.
1-/
Thành phẩm và yêu cầu quản lý:
Trong doanh nghiệp sản xuất thành phẩm là những sản phẩm đã được chế biến
hoàn thành ở giai đoạn cuối cùng qui trình công nghệ trong phạm vi doanh nghiệp
đã được kỹ thuật kiểm tra xác nhận phù hợp với tiêu chuẩn chất lượng qui định. Do
vậy sản phẩm chỉ được gọi là thành phẩm khi nó có đầy đủ các yêu cầu sau:
- Đã được chế tạo xong ở bước công nghệ cuối cùng của qui trình sản xuất và
đã được kiểm tra kỹ thuật xác định phù hợp với tiêu chuẩn chất lượng qui định, đảm
bảo đúng mục đích sử dụng.
- Giữa sản phẩm và thành phẩm xét trên một phương diện nào đó có phạm vi
giới hạn khác nhau, sản phẩm có phạm vi rộng hơn thành phẩm vì khi nói đến quá
trình sản xuất chế tạo ra nó còn nói đến thành phẩm là nói đến quá trình sản xuất
gắn với quá trình công nghệ nhất định trong phạm vi một doanh nghiệp cho nên sản
phẩm bao gồm cả thành phẩm và nửa thành phẩm. Trong doanh nghiệp sản xuất thì
nửa thành phẩm còn phải tiếp tục chế biến cho đến khi hoàn chỉnh. Nhưng trong
toàn bộ nền kinh tế quốc dân thì nửa thành phẩm của doanh nghiệp có thể bán ra
ngoài cho các doanh nghiệp khác sử dụng điều đó có nghĩa là thành phẩm và nửa
thành phẩm chỉ là những khái niệm được xem xét trong phạm vi từng doanh nghiệp
cụ thể tạo thành. Do vậy việc xác định đúng đắn thành phẩm trong các doanh nghiệp
là vấn đề cần thiết và có ý nghĩa quan trọng nó phản ánh toàn bộ hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp về qui mô trình độ tổ chức sản xuất và tổ chức quản lý
sản xuất.
Thành phẩm trong doanh nghiệp sản xuất biểu hiện trên hai mặt số lượng và chất lượng.
+ Số lượng của thành phẩm được xác định bằng các đơn vị đo lường như: kg,
lít, m, bộ, cái, viên, chiếc,...
+ Chất lượng của thành phẩm được xác định bằng tỷ lệ tốt, xấu hoặc phẩm cấp,...
Chính vì vậy mà người ta nhận thấy thành phẩm có ý nghĩa quan trọng đối với nền
kinh tế quốc dân nói chung và bản thân doanh nghiệp nói riêng. Do đó trong công tác quản
lý thành phẩm cần đảm bảo chặt chẽ cả về số lượng, chất lượng theo từng loại, từng thứ,
thành phẩm là kết quả sáng tạo lao động của cán bộ công nhân viên chức trong mỗi doanh
nghiệp, thành phẩm cần phải quản lý chặt chẽ từ khâu nhập, xuất, tồn kho đến khi bán ra thị
trường luôn phải giữ được chữ tín trong kinh doanh.
2-/
Tiêu thụ và yêu cầu quản lý:
Các doanh nghiệp dù là doanh nghiệp sản xuất hay doanh nghiệp thương mại, dịch
vụ muốn tồn tại và phát triển được thì điều quan trọng là phải tiêu thụ được sản phẩm,
hàng hoá có nghĩa là phải bán ra thị trường được nhiều sản phẩm, hàng hoá.
Tiêu thụ là quá trình thực hiện quan hệ trao đổi thông qua các phương tiện thanh
toán để thực hiện giá trị của sản phẩm, hàng hoá dịch vụ. Trong quá trình đó doanh
nghiệp chuyển giao sản phẩm hàng hoá, dịch vụ cho khách hàng, còn khách hàng phải
trả cho doanh nghiệp khoản tiền tương ứng với giá bán của sản phẩm hàng hoá, dịch vụ
theo giá qui định hoặc giá thoả thuận. Tiêu thụ chủ yếu là bán thành phẩm cho bên
ngoài. Quá trình tiêu thụ là quá trình vận động của vốn thành phẩm sang vốn bằng tiền
và hình thành kết quả sản xuất kinh doanh. Quá trình tiêu thụ được hoàn tất khi thành
phẩm đã giao cho người mua và doanh nghiệp đã thu được tiền bán hàng.
Tổng số tiền tiêu thụ được gọi là tổng doanh thu hay còn gọi là thu nhập hoạt
động sản xuất kinh doanh. Trong doanh nghiệp sản xuất ngoài thu nhập hoạt động
sản xuất kinh doanh còn có thu nhập về hoạt động tài chính, thu nhập về hoạt động
bất thường.
Doanh thu của doanh nghiệp Nhà nước gồm doanh thu từ hoạt động kinh
doanh và doanh thu từ các hoạt động khác, doanh thu từ hoạt động kinh doanh là
toàn bộ tiền bán sản phẩm hàng hoá cung cấp dịch vụ được khách hàng chấp nhận
thanh toán (không phân biệt đã thu tiền hay chưa thu tiền).
- Doanh thu tiêu thụ thuần là doanh thu tiêu thụ sau khi đã trừ thuế tiêu thụ và
các khoản, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại (nếu có chứng từ hợp lệ).
Qua phân tích trên ta thấy công tác tiêu thụ đặc biệt phải quan tâm đến các
khâu quản lý kể từ khi ký hợp đồng bán, sản phẩm cần phải quan tâm đến số lượng
sản phẩm bán, giá thành sản phẩm, phương thức thanh toán,... để doanh nghiệp thu
được kết quả chính xác. Nhiệm vụ của kế toán thành phẩm phải thực sự là công cụ
quản lý về nhập, xuất, tồn thành phẩm phản ánh với giám đốc doanh nghiệp tình
hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ, doanh thu bán hàng, các khoản giảm trừ tính chính
xác, đầy đủ số thuế tiêu thụ (thuế doanh thu, tiêu thụ đặc biệt, VAT) phải nộp để
xác định kết quả tiêu thụ theo đúng luật định.
II-/ Tổ chức kế toán thành phẩm và tiêu thụ trong doanh nghiệp sản xuất:
A-/ Kế toán thành phẩm:
1-/
Yêu cầu của kế toán thành phẩm:
Thành phẩm trong doanh nghiệp sản xuất gồm nhiều loại nhiều thứ hàng phẩm
cấp cho nên chúng có yêu cầu quản lý không giống nhau. Vì vậy kế toán thành
phẩm phải tổ chức một cách khoa học, hợp lý.
- Phải tổ chức kế toán thành phẩm theo từng loại, từng thứ, từng đơn vị sản
xuất. Theo dõi chính xác được số lượng, chất lượng của thành phẩm để có điều kiện
xác định kết quả thực tế, hạch toán kinh tế từng loại sản phẩm trong từng tổ sản xuất
của doanh nghiệp.
- Phải phân công kế toán có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có năng lực vào
khâu tính giá thành nhập kho thành phẩm vì thành phẩm nhập kho được đánh giá
theo giá thực tế và giá hạch toán.
+ Thành phẩm đánh giá theo giá thực tế: là thành phẩm nhập từ sản xuất giá
thực tế chính là giá thực tế bao gồm các chi phí như: nguyên vật liệu trực tiếp, nhân
công trực tiếp, chi phí sản xuất chung.
+ Thành phẩm nhập từ thuê ngoài gia công chế biến, giá thực tế được đánh giá
gồm: Giá thực tế nguyên liệu đưa đi gia công + Tiền thuê gia công chế biến + Chi
phí vận chuyển bốc dỡ có liên quan đến quá trình gia công.
+ Thành phẩm nhập kho từ thu mua.
Giá thực tế mua ngoài = Giá mua + Chi phí thu mua
- Phải có sự phân công kế toán với thủ kho thành phẩm, với nhân viên hạch
toán phân xưởng để đảm bảo hạch toán chính xác, đối chiếu thường xuyên giúp cho
việc quản lý, giám sát thành phẩm một cách chặt chẽ.
- Ngoài giá thành thực tế của thành phẩm do yêu cầu của công tác nhập, xuất
kho thành phẩm hàng ngày nên thành phẩm được đánh giá theo giá hạch toán do
phòng kế toán quy định và sử dụng trong một thời gian nhất định (có thể là 1 năm)
thông thường các doanh nghiệp lấy giá thành kế hoạch hoặc giá bán thành phẩm kế
hoạch làm giá hạch toán hoặc do doanh nghiệp có chủng loại thành phẩm nhiều có
thể doanh nghiệp đã xây dựng được giá hạch toán cho từng loại thành phẩm tại sổ
chi tiết ghi theo giá hạch toán, tại sổ tổng hợp kế toán phải chuyển từ giá hạch toán
sang giá thực tế bằng cách xác định hệ số giữa giá thực tế và giá hạch toán.
Trong các doanh nghiệp sản xuất sở dĩ phải dùng giá hạch toán vì thành phẩm
trong kho thường xuyên biến động trong từng ngày cho nên không thể xác định
được giá thành thực tế của thành phẩm vì vậy phải sử dụng giá hạch toán để tổng
hợp tình hình nhập, xuất, tồn kho thành phẩm trong tháng nhằm giảm bớt khối
lượng ghi chép vào cuối tháng. Giá hạch toán của thành phẩm được sử dụng để tiến
hành tại phần kế toán chi tiết, đến cuối tháng, quý kế toán phải điều chỉnh về giá
thực tế như công thức đã trình bày ở phần trên.
2-/
Chứng từ sử dụng trong kế toán nhập, xuất kho thành phẩm:
Trong tháng khi phát sinh các nghiệp vụ kinh tế về nhập, xuất kho thành phẩm.
Kế toán thành phẩm phải tiến hành lập các chứng từ nhập, xuất kho thành phẩm một
cách đầy đủ, kịp thời, chính xác đúng với quy định ghi trong chế độ chứng từ và sổ
kế toán do Bộ tài chính ban hành theo quyết định số 1141 ngày 01/11/1995. Các
chứng từ ban đầu gồm:
+ Phiếu nhập kho (Mẫu số 01-VT).
+ Hoá đơn kiêm phiếu xuất kho (Mẫu số 02 BH).
Việc luân chuyển chứng từ nhập, xuất kho thành phẩm phát sinh qua thủ kho
chuyển đến phòng kế toán phải theo một trình tự khoa học, hợp lý, đảm bảo thời
gian nhanh nhất để phòng kế toán hoạch toán phân loại chứng từ theo từng loại,
từng đối tượng,...
3-/
Kế toán chi tiết thành phẩm:
Tổ chức kế toán chi tiết thành phẩm ở phòng kế toán có mối quan hệ chặt chẽ với
hạch toán chi tiết thành phẩm ở kho. Vì vậy kế toán doanh nghiệp phải lựa chọn phương
pháp hạch toán chi tiết phù hợp với yêu cầu quản lý. Phù hợp với trình độ của đội ngũ
kế toán của doanh nghiệp tuỳ theo chủng loại thành phẩm của doanh nghiệp nhiều hay ít
mà áp dụng một trong ba phương pháp phổ biến hiện nay như sau:
a. Phương pháp ghi thẻ song song:
Sơ đồ hạch toán chi tiết thành phẩm theo
phương pháp ghi thẻ song song
Thẻ kho
Chứng
từ nhập
(1
(1
(4
(2
)
Sổ chi tiết
TP
Chứng
từ xuất
(2
)
Ghi hàng
ngày
Ghi cuối
tháng
Đối chiếu
điểm
Bảng kê
tổng hợp NX tồn kho
Với cách ghi chép và kiểm tra đối chiếu như trên phương pháp này có ưu
nhược điểm sau:
* Ưu điểm: - Ghi chép đơn giản, dễ dàng, dễ kiểm tra đối chiếu.
*Nhược điểm: - Việc ghi chép giữa thủ kho và kế toán còn trùng lặp về chỉ tiêu
số lượng, quan hệ đối chiếu giữa thủ kho và kế toán dồn dập về cuối tháng nên ảnh
hưởng đến tính kịp thời của công tác kế toán.
Phương pháp này chỉ áp dụng đối với các doanh nghiệp có chủng loại thành
phẩm ít, trình độ kế toán còn hạn chế.
b. Phương pháp đối chiếu luân chuyển:
nội dung hạch toán chi tiết thành phẩm
được khái quát theo sơ đồ sau
Số (thẻ)
kho
Chứng
từ nhập
(2
(2
)
Bảng
kê nhập
Chứng
từ xuất
(4
Sổ đối
chiếu
luân chuyển
(3
)
(2
(2
)
Bảng
kê xuất
Phương pháp sổ đối chiếu luân chuyển có ưu nhược điểm sau:
* Ưu điểm: Khối lượng ghi chép của kế toán được giảm bớt do chỉ ghi một lần
vào cuối tháng.
* Nhược điểm: Việc ghi sổ vẫn còn trùng lắp, việc kiểm tra đối chiếu giữa thủ
kho và phòng kế toán chỉ tiến hành vào cuối tháng nên hạn chế tác dụng kiểm tra
trong công tác quản lý.
Phương pháp này có áp dụng với các doanh nghiệp có khối lượng nghiệp vụ
nhập, xuất không nhiều.
c. Phương pháp số dư: khác với 2 phương pháp trên:
sơ đồ hạch toán chi tiết thành phẩm
theo phương pháp sổ số dư
(1
Thẻ kho
Chứng
từ nhập
(1
Chứng
từ xuất
(2
Bảng kê
luỹ kế
nhập
(3
)
Sổ số dư
(5
Bảng kê
luỹ kế
xuất
Bảng tổng
hợp
nhập, xuất,
Ghi hàng
ngày
Ghi cuối
tháng
Quan hệ đối
chiếu
Phương pháp sổ số dư có những ưu điểm sau:
* Ưu điểm: Giảm bớt khối lượng ghi sổ kế toán, công việc được tiến hành đều
trong tháng.
* Nhược điểm: Phương pháp này do kế toán chỉ theo dõi về chỉ tiêu giá trị nếu
có nhầm lẫn giữa kế toán và thủ kho sẽ khó phát hiện sai sót. Kế toán muốn nhận
biết một thứ thành phẩm nào đó phải xuống kho xem xét.
Phương pháp sổ số dư áp dụng trong doanh nghiệp có khối lượng các nghiệp
vụ kinh tế về nhập, xuất diễn ra thường xuyên có nhiều loại thành phẩm dùng giá
hạch toán để hạch toán hàng ngày tình hình nhập, xuất, tồn kho yêu cầu về trình độ
quản lý, trình độ cán bộ kế toán của doanh nghiệp tương đối cao.
4-/
Kế toán tổng hợp thành phẩm:
(3
)
Kế toán tổng hợp thành phẩm phản ánh tình hình nhập, xuất, tồn kho thành
phẩm theo giá thành sản xuất thực tế. Do tác động của nhiều nhân tố đến quá trình
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp làm cho giá thành thực tế của thành phẩm ở
các thời điểm có thể khác nhau.
a. Giá thực tế của thành phẩm xuất kho:
Việc xác định chính xác giá thành thực tế của thành phẩm xuất kho là rất cần thiết.
Trong thực tế có nhiều cách xác định giá thành thực tế của thành phẩm xuất kho. Tuỳ theo
đặc điểm của mỗi doanh nghiệp mà áp dụng các phương pháp thích hợp.
+ Phương pháp bình quân hàng nhập trong kỳ và tồn đầu kỳ.
Đơn giá bình quân
Giá thực tế của TP
Giá thực tế của TP
+
của một đơn vị
tồn đầu kỳ
nhập trong kỳ
=
thành phẩm
Số lượng thành phẩm
Số lượng thành phẩm
+
tồn đầu kỳ
nhập trong kỳ
Giá thực tế
Giá thực tế của thành phẩm xuất trong kỳ được tính theo công thức:
Giá trị thực tế
Giá trị thực tế
của thành phẩm = bình quân một đơn vị
xuất kho
thành phẩm
Số lượng
x thành phẩm
xuất kho
Theo phương pháp này trong tháng giá thực tế của thành phẩm xuất kho chưa
được ghi sổ mà cuối tháng khi kế toán tính toán theo công thức xong mới tiến hành
ghi sổ.
b. Phương pháp hệ số giá:
Trong trường hợp kế toán thành phẩm tính theo giá hoạch toán (giá kế hoạch
hoặc một giá ổn định trong kỳ kế toán) thì cuối kỳ kế toán tính giá thực tế của từng
loại thành phẩm đã xuất kho trong kỳ, trên cơ sở hệ số giữa giá thực tế và giá hạch
toán của thành phẩm theo công thức sau:
Giá thực tế
Giá hạch toán
Hệ
của thành phẩm = của thành phẩm x
số giá
xuất kho
xuất kho
Trong đó:
Giá thực tế của TP
Giá thực tế của TP
+
Hệ
tồn đầu kỳ
nhập trong kỳ
=
số giá
Giá hạch toán TP
Giá hạch toán của TP
+
tồn đầu kỳ
nhập trong kỳ
Hệ số giá được tính cho từng loại, từng thứ thành phẩm.
5-/
Một số tài khoản sử dụng chủ yếu:
Kế toán tổng hợp thành phẩm sử dụng một số tài khoản chủ yếu sau:
a. TK 155 - Thành phẩm.
Tài khoản này phản ánh giá trị hiện có và tình hình biến động của các loại
thành phẩm của doanh nghiệp, tài khoản này được mở chi tiết cho từng loại, từng
thứ thành phẩm.
b. TK 157 - Hàng gửi bán:
Tài khoản này dùng để phản ánh giá trị hàng hoá, thành phẩm đã gửi hoặc
chuyển đến cho khách hàng, hàng hoá, thành phẩm nhờ bán đại lý, ký gửi, giá trị lao
vụ, dịch vụ và đã hoàn thành bàn giao cho người đặt hàng nhưng chưa được chấp
nhận thanh toán.
Hàng hoá, thành phẩm phản ánh trên tài khoản này vẫn thuộc quyền sở hữu
của đơn vị, kế toán phải mở sổ chi tiết từng loại hàng hoá, thành phẩm từng lẫn gửi
hàng, từ khi gửi đi đến khi chấp nhận thanh toán.
Tài khoản này có thể mở các tài khoản cấp II để hạch toán từng loại hàng hoá,
thành phẩm gửi đi bán.
Ngoài ra kế toán tổng hợp thành phẩm còn sử dụng một số tài khoản có liên quan.
- TK 632 - Giá vốn hàng bán.
- TK 154 - Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang.
- TK 631 - Giá thành sản xuất nếu doanh nghiệp áp dụng phương pháp kế toán
hàng tồn kho theo phương pháp kiểm kê định kỳ.
6-/
Trình tự kế toán:
Khi nhận được các chứng từ về nhập, xuất kho thành phẩm, kế toán phải tiến hành
tổng hợp và phân loại theo từng loại thành phẩm để ghi vào sổ chi tiết thành phẩm theo
giá hạch toán. Cuối tháng tính ra giá thực tế để ghi vào sổ kế toán tổng hợp.
a. Sơ đồ hạch toán tổng quát thành phẩm theo phương pháp KKTX:
TK 154
TK 155
TK
157,632
Sản xuất (hoặc thuê
TP xuất bán, trao đổi,
ngoài
biếu tặng
TK
157,632
TK 1381
Sản phẩm bán bị
Thiếu khi kiểm kê
trả lại
chưa rõ nguyên nhân
TK
642,3381
TK
128,222
Thành phẩm phát hiện
Góp vốn liên doanh bằng
thừa khi
thành phẩm
Trường hợp thành phẩm phát hiện thừa khi kiểm kê, kho có quyết định xử lý
thừa ghi Nợ TK 3381, ghi Có các tài khoản liên quan.
Trường hợp thành phẩm phát hiện thiếu khi kiểm kê, khi có quyết định xử lý
ghi Nợ TK có liên quan, ghi Có TK 1381.
b. Sơ đồ hạch toán tổng quát thành phẩm theo phương pháp KKĐK:
TK
155,157
TK 632
TK
155,157
Kết chuyển trị giá TP
Kết chuyển trị giá tồn
tồn
kho cuối kỳ thành phẩm
TK 631
TK 911
Giá thành sản phẩm sản
Giá trị thành phẩm
xuất
đã tiêu thụ
7-/
Sổ sách kế toán:
+ Bảng kê số 8: Dùng để tổng hợp tình hình nhập xuất tồn kho thành phẩm
hoặc hàng hoá theo giá thực tế và giá hạch toán. Cơ sở để lập bảng kê số 8 là các
chứng từ, hoá đơn nhập, xuất và các chứng từ khác có liên quan.
+ Bảng kê số 9: Dùng để tính giá thực tế thành phẩm hàng hoá. Trong hình thức kế
toán chứng từ ghi sổ các nghiệp vụ hạch toán tăng, giảm thành phẩm từ chứng từ gốc lập các
chứng từ ghi sổ. Căn cứ vào chứng từ ghi sổ ghi vào sổ đăng ký chứng từ ghi sổ và sổ cái.
Đồng thời kế toán phải mở sổ chi tiết theo dõi từng loại thành phẩm.
B-/ Kế toán tiêu thụ:
1-/
Yêu cầu của kế toán tiêu thụ:
Tiêu thụ thành phẩm là giai đoạn tiếp theo của quá trình sản xuất. Để thực
hiện giá trị sản phẩm, hàng hoá lao vụ, dịch vụ doanh nghiệp phải chuyển giao hàng
hoá sản phẩm, hoặc cung cấp lao vụ, dịch vụ cho khách hàng, được khách hàng trả
tiền hoặc chấp nhận thanh toán, quá trình này được coi là quá trình tiêu thụ các
nghiệp vụ cần được hạch toán ở giai đoạn này là xuất thành phẩm để bán và thanh
toán với người mua, tính chính xác các khoản doanh thu bán hàng, trừ các khoảng
chiết khấu bán hàng, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại, các khoản thuế doanh
thu và tiêu thụ đặc biệt để xác định doanh thu thuần và cuối cùng xác định lãi - lỗ về
tiêu thụ sản phẩm.
Phản ánh kịp thời chính xác tình hình xuất bán thành phẩm; tính chính xác các
khoản bị giảm trừ và thanh toán với ngân sách các khoản thuế phải nộp. Tính toán
chính xác các chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thụ sản phẩm. Xác định kết quả
của hoạt động tiêu thụ sản phẩm.
2-/
Chứng từ sử dụng trong kế toán tiêu thụ thành phẩm:
Trong khi phát sinh các nghiệp vụ kinh tế về tiêu thụ thành phẩm. Kế toán
thành phẩm phải tiến hành lập các chứng từ về tiêu thụ một cách đầy đủ, kịp thời,
chính xác đúng với quy định ghi trong chế độ chứng từ và sổ kế toán do Bộ tài
chính ban hành theo quyết định số 1141 ngày 01/11/1995.
Hoá đơn là chứng từ của đơn vị bán xác nhận số lượng, chất lượng, đơn giá và
số tiền bán sản phẩm, hàng hoá cho người mua, hoá đơn là căn cứ ghi sổ doanh thu
và các sổ kế toán liên quan, là chứng từ cho người mua vận chuyển hàng trên
đường, thanh toán tiền mua hàng và ghi sổ kế toán.
Các chứng từ ban đầu gồm:
- Hoá đơn bán hàng có thuế GTGT:
+ Mẫu số 01 GTKT - 3LL
: Tính thuế theo phương pháp khấu trừ bán
với số lượng lớn.
+ Mẫu số 01 GTKT - 2LL
: Tính thuế theo phương pháp khấu trừ bán
với số lượng nhỏ.
+ Mẫu số 02 GTTT - 3LL
: Tính thuế theo phương pháp trực tiếp bán
với số lượng lớn.
+ Mẫu số 02 GTTT - 2LL
: Tính thuế theo phương pháp trực tiếp bán
với số lượng nhỏ.
Các cơ sở kinh doanh hàng hoá, dịch vụ không thuộc đối tượng chịu thuế giá
trị gia tăng mà chịu thuế tiêu thụ đặc biệt khi bán hàng hoá, dịch vụ sử dụng các loại
hoá đơn ban hành theo Quyết định 1141 ngày 01/11/1995 của Bộ Tài chính.
Giá bán hàng hoá, dịch vụ ghi trên hoá đơn là giá thực tế.
Hoá đơn do người bán lập thành 3 liên trong trường hợp bán buôn số lượng
lớn (đặt giấy than viết một lần): liên 1 lưu, liên 2 giao cho người mua làm chứng từ
đi đường và ghi sổ kế toán đơn vị mua, liên 3 dùng cho người bán làm chứng từ thu
tiền hoặc cuối ngày mang cùng tiền mặt, séc nộp cho kế toán để làm thủ tục nhập
quỹ và ghi sổ kế toán có liên quan (nếu đã thu tiền).
3-/
Sử dụng hệ thống sổ:
Hoá đơn bán hàng là căn cứ để người bán ghi sổ doanh thu và các sổ kế toán
có liên quan.
Việc áp dụng các hình thức sổ kế toán phải phù hợp với yêu cầu và trình độ
của đội ngũ kế toán của doanh nghiệp mà áp dụng một trong bốn hình thức tổ chức
sổ kế toán.
Trình tự ghi sổ kế toán theo hình thức nhật ký chung
Chứng từ gốc
(hoá đơn bán
hàng)
Sổ Nhật ký đặc
biệt
(Nhật ký bán hàng
Sổ Nhật
ký
chung
Sổ chi tiết
thanh toán Sổ
chi tiết tiêu
Sổ cái
Bảng tổng
hợp chi
tiết
Bảng cân
đối
số phát
Báo cáo
tài chính
Ghi hàng
ngày
Ghi cuối tháng hoặc
định kỳ
Quan hệ đối
chiếu
* Ưu điểm:
- Thuận lợi đối chiếu, kiểm tra chi tiết theo từng chứng từ gốc.
- Tiện cho việc sử dụng máy tính.
* Nhược điểm: Ghi một số nghiệp vụ trùng lắp cuối tháng phải loại bỏ số
liệu trùng rồi mới ghi vào sổ cái.
- Xem thêm -