Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tổ chức hoạt động giáo dục thể chất cho học sinh thcs trong cộng đồng huyện an d...

Tài liệu Tổ chức hoạt động giáo dục thể chất cho học sinh thcs trong cộng đồng huyện an dương thành phố hải phòng

.PDF
112
169
56

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI NGUYỄN ĐỨC TRUNG TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC THỂ CHẤT CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ TRONG CỘNG ĐỒNG HUYỆN AN DƯƠNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC HÀ NỘI - 2017 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI NGUYỄN ĐỨC TRUNG TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC THỂ CHẤT CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ TRONG CỘNG ĐỒNG HUYỆN AN DƯƠNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG Chuyên ngành: Giáo dục và phát triển cộng đồng Mã số: Thí điểm LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC Người hướng dẫn khoa học: TS. VŨ THỊ NGỌC TÚ HÀ NỘI - 2017 LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn đến TS. Vũ Ngọc Tú người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và động viên em trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài luận văn tốt nghiệp này. Em xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới các thầy, cô trong Khoa Tâm lý – Giáo dục học, trường ĐHSP Hà Nội, các đồng chỉ cùng công tác tại đơn vị…., gia đình, bè bạn đã giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện cho em trong suốt quá trình nghiên cứu. Mặc dù đã dành nhiều thời gian, công sức và cố gắng rất nhiều, nhưng do khả năng của bản thân còn hạn chế, kinh nghiệm nghiên cứu khoa học chưa nhiều nên luận văn tốt nghiệp của em còn nhiều thiếu sót, kính mong các thầy, cô góp ý và chỉ bảo để em được tiến bộ và trưởng thành hơn về chuyên môn cũng như về công tác nghiên cứu khoa học. Hà Nội, ngày … tháng …. năm 2017 Tác giả luận văn Nguyễn Đức Trung 1 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT GDTC : Giáo dục thể chất HS : Học sinh NXB : Nhà xuất bản THCS : Trung học cơ sở 2 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sức khoẻ là vốn quý nhất của mỗi con người. Người có sức khoẻ thì có hàng trăm, hàng ngàn ước mơ, còn người không có sức khoẻ chỉ có một ước mơ duy nhất đó là: Có sức khoẻ. Một tâm hồn lành mạnh, một tư duy sáng suốt chỉ có thể có ở trong một cơ thể cường tráng, đầy sinh lực. Muốn có một sức khoẻ tốt để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, ngoài yếu tố tư chất bẩm sinh, vấn để rèn luyện để nâng cao sức khoẻ là yếu tố vô cùng quan trọng. Lí tưởng về phát triển con người toàn diện được Các Mác và Ăng-ghen xác định rõ nội dung cụ thể và gắn liền nó với thực tiễn đấu tranh cách mạng, nhằm xây dựng một xã hội mới theo nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản. Học thuyết về giáo dục toàn diện của Các Mác và Ăng-ghen được Lênin đi sâu và phát triển sáng tạo. Đặc biệt, V.I.Lênin quan tâm sâu sắc đến tương lai của thế hệ trẻ, đến cuộc sống của họ. Người nhấn mạnh: “Thanh niên đặc biệt cần sự yêu đời và sảng khoái, cần có thể thao lành mạnh, thể dục, bơi lội, tinh thần học tập phân tích, nghiên cứu và cố gắng phối hợp tất cả các hoạt động ấy với nhau” [13]. Ngay sau khi cách mạng Tháng tám thành công năm 1945, Đảng và Hồ Chủ Tịch đã rất quan tâm đến thể dục thể thao, coi đó là một mục tiêu quan trọng trong sự nghiệp giáo dục cộng sản chủ nghĩa cho thanh thiếu niên. Ngày 30/01/1946, Hồ Chủ tịch đã ký sắc lệnh thành lập Nhà Thể dục Trung ương thuộc Bộ Thanh niên; Nhà Thể dục có nhiệm vụ liên kết chặt chẽ với Bộ Y tế và Bộ Giáo dục để nghiên cứu phương pháp thể dục Việt Nam và thực hiện một chương trình thể dục riêng trong toàn quốc, hợp với hoàn cảnh và nền kinh tế xã hội lúc bấy giờ. Đó là một văn kiện lịch sử về thể dục thể thao rất quý giá. Ngay sau đó, ngày 27/3/1946 Hồ Chủ Tịch lại ra lời kêu gọi “Toàn dân tập thể dục”. Trong thư, lần đầu tiên Người chỉ cho nhân dân ta thấy rằng: “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng 3 cần có sức khoẻ mới thành công”. Và Người cũng chỉ rõ muốn có sức khoẻ thì: “nên tập luyện thể dục” và coi đó là “bổn phận của mỗi người dân yêu nước”. Tư tưởng của Bác đã, đang và vẫn luôn được cụ thể hoá trong các chỉ thị và nghị quyết của Đảng, chính phủ về nâng cao chất lượng giáo dục thể chất (GDTC) cho người dân Việt Nam mà đặc biệt là thế hệ trẻ - những chủ nhân tương lai của đất nước. Hiến pháp Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 tại điều 41 quy định: “Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp phát triển thể dục thể thao, quy định chế độ GDTC bắt buộc trong trường học, khuyến khích và giúp đỡ phát triển các hình thức tổ chức thể dục thể thao tự nguyện của nhân dân, tạo điều kiện cần thiết để không ngừng mở rộng các hoạt động thể dục thể thao quần chúng, chú trọng hoạt động thể thao chuyên nghiệp, bồi dưỡng các tài năng thể thao”. Chỉ thị 17-CT/TW ngày 23/10/2002 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá IX) nêu rõ: “Đẩy mạnh hoạt động thể dục thể thao ở trường học. Tiến tới bảo đảm mỗi trường học đều có giáo viên thể dục chuyên trách và lớp học thể dục đúng tiêu chuẩn, tạo điều kiện nâng cao chất lượng giáo dục thể chất; xem đây là một tiêu chí xét công nhận trường chuẩn quốc gia”. Luật Thể dục, Thể thao số 77/2006/QH11 được Quốc Hội Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI thông qua ngày 29/11/2006 quy định: “GDTC là môn học chính khoá thuộc chương trình giáo dục nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng vận động cơ bản cho người học thông qua các bài tập và trò chơi vận động, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện”. Học sinh Trung học cơ sở (THCS) là những học sinh có độ tuổi từ 1112 đến 14-15 tuổi. Ở giai đoạn này, chiều cao của các em tăng lên một cách đột ngột, hàng năm có thể tăng từ 5 – 6 cm; trọng lượng cơ thể hàng năm có thể tăng từ 2,4 – 6 kg; tăng vòng ngực…Đây là những yếu tố đặc biệt trong sự phát triển thể chất của các em ở lứa tuổi này. Nói cách khác, đây là giai đoạn vàng trong quá trình phát triển thể chất của mỗi cá nhân. 4 Giáo dục thể chất cho học sinh THCS là quá trình tác động hướng vào việc hoàn thiện tâm lí và thể lực cho học sinh, nhằm phát triển kĩ năng vận động cơ thể, tạo nên cuộc sống tâm lí và thể lực lành mạnh và hình thành lối sống cá nhân có văn hóa. Để có thể nâng cao chất lượng GDTC cho học sinh THCS cần có sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa nhà trường với cộng đồng. An Dương là một huyện còn gặp nhiều khó khăn của thành phố Hải Phòng, kinh tế chậm phát triển, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn… Trong những năm gần đây, dưới sự quan tâm Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố Hải Phòng nói chung, huyện An Dương nói riêng, hoạt động GDTC cho học sinh THCS trên địa bàn huyện ngày càng được đầu tư, phát triển, điều đó mang lại những tác động tích cực trong quá trình phát triển thể chất của học sinh. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động GDTC cho học sinh THCS trên địa bàn huyện còn tồn tại những hạn chế nhất định. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này, trong đó nguyên nhân cơ bản có liên quan đến những hạn chế trong việc tổ chức hoạt động GDTC cho học sinh THCS. Chính vì vậy, việc nghiên cứu bổ sung lí luận, đánh giá thực trạng và đề xuất các biện pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động GDTC cho học sinh THCS trong cộng đồng là vấn đề có ý nghĩa cấp thiết. Đặc biệt cho đến nay ở Việt Nam chưa có công trình nào nghiên cứu sâu về vấn đề này. Xuất phát từ những lí do nêu trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “Tổ chức hoạt động giáo dục thể chất cho học sinh Trung học cơ sở trong cộng đồng huyện An Dương, thành phố Hải Phòng” để tiến hành nghiên cứu. 2. Mục đích nghiên cứu Chúng tôi đi vào nghiên cứu cơ sở lí luận có liên quan đến đề tài, khảo sát thực trạng tổ chức hoạt động GDTC cho học sinh THCS trong cộng đồng. huyện An Dương, thành phố Hải Phòng, trên cơ sở đó đánh giá những ưu điểm, nhược điểm và đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu của hoạt động này tại địa bàn nghiên cứu. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 5 3.1. Khách thể nghiên cứu Công tác GDTC cho học sinh THCS trong cộng đồng. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Biện pháp tổ chức hoạt động GDTC cho học sinh THCS trong cộng đồng. huyện An Dương, thành phố Hải Phòng. 4. Giả thuyết khoa học Công táctổ chức hoạt động GDTC cho học sinh THCS trong cộng đồng huyện An Dương, thành phố Hải Phòng chưa thực sự đạt hiệu quả. Nếu nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện về thực trạng, trên cơ sở đó đề ra những biện pháp mang tính khoa học và hợp lý thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả và chất lượng công tác tổ chức hoạt động GDTC cho học sinh THCS trong cộng đồng. huyện An Dương, thành phố Hải Phòng.. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 5.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận về tổ chức hoạt động GDTC cho học sinh THCS trong cộng đồng. 5.2. Khảo sát thực trạng tổ chức hoạt động GDTC cho học sinh THCS trong cộng đồng. huyện An Dương, thành phố Hải Phòng. 5.3. Đề xuất biện pháp tổ chức hoạt động GDTC cho học sinh THCS trong cộng đồng. huyện An Dương, thành phố Hải Phòng. 6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu 6.1. Về nội dung nghiên cứu Đề tài đi sâu nghiên cứu lí luận, thực trạng và biện pháp tổ chức hoạt động GDTC cho học sinh THCS trong cộng đồng. huyện An Dương, thành phố Hải Phòng. 6.2. Về địa bàn nghiên cứu Huyện An Dương, thành phố Hải Phòng. 6.3. Về khách thể khảo sát - Tổng số khách thể khảo sát: 240 người - Cán bộ quản lý: 20 người 6 - Giáo viên: 20 người - Học sinh: 100 người - Phụ huyng học sinh: 100 người 6.4.Về thời gian nghiên cứu Từ tháng 8 năm 2016 đến tháng 3 năm 2017 7. Phương pháp nghiên cứu Để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài sử dụng phối hợp các phương pháp sau: 7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận - Phân tích, tổng hợp thông tin liên quan đến vấn đề nghiên cứu có trong các văn kiện, văn bản, tài liệu. - Hệ thống hóa các khái niệm để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài. - Mô hình hóa lí thuyết. 7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn 7.2.1.Phương pháp quan sát: Thu thập thông tin bằng việc quan sát hoạt động GDTC cho học sinh THCS trong cộng đồng. huyện An Dương, thành phố Hải Phòng 7.2.2. Phương pháp điều tra: Xây dựng và sử dụng phiếu trưng cầu ý kiến để thu thập ý kiến của các chuyên gia, cán bộ quản lí, giáo viên (GV), phụ huynh, HS về thực trạng tổ chức hoạt động GDTC cho học sinh THCS trong cộng đồng. huyện An Dương, thành phố Hải Phòng. 7.2.3. Phương pháp phỏng vấn: Trò chuyện, phỏng vấn sâu để thu thập những ý kiến đánh giá của các chuyên gia, cán bộ quản lí, GV, phụ huynh, HS về các vấn đề có liên quan đến tổ chức hoạt động GDTC cho học sinh THCS trong cộng đồng. huyện An Dương, thành phố Hải Phòng 7.2.4. Phương pháp nghiên cứu hồ sơ của các trường THCS trên địa bàn huyện An Dương, thành phố Hải Phòng. 7.2.5. Phương pháp xin ý kiến chuyên gia về các biện pháp tổ chức hoạt động GDTC cho học sinh THCS trong cộng đồng. huyện An Dương, thành phố 7 Hải Phòng. 7.2.6. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm. 7.2.7. Phương pháp khảo nghiệm. 7.3. Nhóm các phương pháp xử lý số liệu - Sử dụng thống kê toán học để xử lý các số liệu nghiên cứu. 8. Dự kiến cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung chính của luận văn được thể hiện ở 3 chương: Chương 1. Cơ sở lí luận vềtổ chức hoạt động GDTC cho học sinh THCS trong cộng đồng. Chương 2. Thực trạng tổ chức hoạt động GDTC cho học sinh THCS trong cộng đồng. huyện An Dương, thành phố Hải Phòng Chương 3. Biện pháp tổ chức hoạt động GDTC cho học sinh THCS trong cộng đồng. huyện An Dương, thành phố Hải Phòng 8 Chương 1 CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC THỂ CHẤT CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ TRONG CÔNG ĐỒNG 1.1. Sơ lược về lịch sử nghiên cứu vấn đề Vấn đề nâng cao chất lượng GDTC trong các trường học đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, nhà giáo dục chuyên môn ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong lĩnh vực nghiên cứu ứng dụng các môn thể thao trong chương trình nội khóa, ngoại khóa nhằm phát triển thể chất cho học sinh, có sự đóng góp đáng trân trọng của các tác giả: Nguyễn Duy Quyết (2012) [31], Mai Thị Thu Hà (2014) [10]... Các công trình nghiên cứu nêu trên của tác giả đã ứng dụng thử nghiệm thành công chương trình “điền kinh cho trẻ em” của Hiệp hội các Liên đoàn Điền kinh thế giới và chương trình ngoại khóa môn thể dục Aerobic trong việc phát triển năng lực thể chất cho học sinh tiểu học một số tỉnh khu vực phíaBắc. Ngoài ra khi xem xét đến lĩnh vực nghiên cứu sự phát triển thể chất của học sinh, các tác giả: Hoàng Công Dân (2005) [6] đã tiến hành đánh giá được các chỉ số hình thái, chức năng, tố chất thể lực của học sinh phổ thông dân tộc nội trú phát triển theo quy luật, đồng thời xây dựng được các biện pháp phù hợp với đặc điểm nhà trường phổ thông dân tộc nội trú về: môi trường, thời gian, không gian, đặc điểm tâm lý, nhận thức, tư duy, nhu cầu TDTT và điều kiện đảm bảo; đáp ứng mục đích, yêu cầu, nội dung đào tạo của nhà trường; hình thành ở học sinh các năng lực cần thiết trong học tập môn thể dục và đem lại kết quả dương tính cho sự phát triển thể chất của học sinh. Tác giả Bùi Quang Hải (2007) [15] đã tiến hành theo dõi sự phát triển thể chất của học sinh tiểu học (6 - 10 tuổi) bằng phương pháp theo dõi dọc, từ đó đưa ra các phương thức dự báo sự phát triển thể chất của học sinh trong những năm tiếp theo. 9 Tác giả Trần Đức Dũng (2010) [7] đã đánh giá được diễn biến quá trình phát triển thể chất cho học sinh bằng phương pháp theo dõi dọc trong suốt 12 năm (từ 6 đến 17 tuổi - học sinh lớp 1 đến học sinh lớp 12). Tác giả Nguyễn Ngọc Việt (2011) [40], bằng phương pháp theo dõi ngang, kết quả nghiên cứu của tác giả cũng đã đánh giá được đặc điểm diễn biến các chỉ số hình thái, tố chất thể lực của học sinh tiểu học từ lớp 1 đến lớp 5, đồng thời xây dựng được nội dung tập luyện TD,TT nội khóa, ngoại khóa nhằm phát triển tầm vóc, thể lực cho học sinh. Các tác giả Tạ Hồng Hải (2000) [14], Lương Thị Ánh Ngọc (2011) [27] nghiên cứu phát triển thể chất, các năng lực thành phần cơ thể cho học sinh phổ thông lứa tuổi 11 - 14, đã xây dựng được chương trình tập luyện thực nghiệm ngoại khóa phù hợp với học sinh trung học cơ sở lứa tuổi 11 - 14 và đánh giá là có tác dụng tích cực đến sự biến đổi về hình thái, chức năng, và thể lực của nam, nữ học sinhTHCS. Qua tổng quan nghiên cứu đề tài có thể rút ra một số nhận xét sau: GDTC cho học sinh THCS nói riêng và học sinh nói chung luôn nhận được sự quan tâm của các cấp, các ngành, các nhà trường và cộng đồng dân cư. Đó cũng là vấn đề được các nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu. Cho đến nay, số lượng các công trình nghiên cứu về GDTC cho học sinh nói chung và học sinh THCS nói riêng khá phong phú, song chủ yếu đề cập đến phương diện GDTC cho học sinh trong nhà trường, số lượng các công trình nghiên cứu về tổ chức hoạt động GDTC cho học sinh THCS trong cộng đồng còn ít được quan tâm nghiên cứu. Theo hiểu biết của nhà nghiên cứu, cho đến nay, chưa có công trình nào nghiên về “Tổ chức hoạt động GDTC cho học sinh THCS trong cộng đồng huyện An Dương, thành phố Hải Phòng”. 1.2. Một số khái niệm cơ bản 1.2.1. Tổ chức, hoạt động và tổ chức hoạt động * Quan niệm về hoạt động [31;37] 10 Có nhiều quan niệm khác nhau về hoạt động. - Về phương diện triết học, hoạt động là phương thức tồn tại của con người trong thế giới. - Về phương diện sinh học, hoạt động là sự tiêu hao năng lượng thần kinh và cơ bắp của con người tác động vào hiện thực khách quan nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình. - Về phương diện tâm lí, hoạt động là mối quan hệ tác động qua lại giữa con người và thế giới (khách thể) để tạo ra sản phẩm cả về phía thế giới cả về phía con người (chủ thể). * Đặc điểm của hoạt động [31;38] - Hoạt động bao giờ cũng là hoạt động có đối tượng: Đối tượng của hoạt động là cái mà con người tác động vào để thay đổi nó, biến nó thành sản phẩm hoặc tiếp nhận nó vào não tạo nên một cấu trúc tâm lí mới, năng lực mới. - Hoạt động bao giờ cũng có chủ thể: Hoạt động do chủ thể thực hiện, chủ thể của hoạt động có thể là một hay nhiều người. Chủ thể luôn thể hiện tính tích cực hoạt động. - Hoạt động bao giờ cũng có mục đích: Mục đích hoạt động là làm biến đổi thế giới và biến đổi bản thân chủ thể. Để đạt được mục đích, con người phải sử dụng các điều kiện và phương tiện cần thiết. - Hoạt động vận hành theo nguyên tắc gián tiếp: Khi hoạt động con người tác động đến khách thể gián tiếp qua h ình ảnh tâm lí trong đầu, gián tiếp qua việc sử dụng công cụ lao động, gián tiếp qua việc sử dụng ngôn ngữ. Chính hình ảnh tâm lí trong đầu, việc sử dụng công cụ lao động, việc sử dụng ngôn ngữ tạo nên tính gián tiếp của hoạt động. * Các dạng hoạt động [31;40] Có nhiều cách phân loại hoạt động. - Về phương diện cá thể: hoạt động vui chơi, học tập, lao động, giao tiếp với hoạt động xã hội. 11 - Về phương diện sản phẩm (vật chất hay tinh thần), có hai loại hoạt động, hoạt động thực tiễn -> tạo ra sản phẩm vật chất và hoạt động lí luận -> tạo ra sản phẩm tinh thần. Ngoài ra hoạt động còn có thể được phân thành bốn loại, bao gồm: hoạt động biến đổi: hoạt động nhận thức; hoạt động định hướng giá trị; hoạt động giao lưu. * Vai trò của hoạt động đối với sự phát triển tâm lí người [31;40] Hoạt động là nhân tố trực tiếp giải quyết sự hình thành và phát triển nhân cách thông qua hai quá trình đối tượng hóa và chủ thể hóa. Thông qua hoạt động con người lĩnh hội được kinh nghiệm lịch sử - xã hội để hình thành nhân cách. Mặt khác, cũng thông qua hoạt động con người xuất tâm “lực lượng bản chất” vào xã hội “tạo nên sự đại diện nhân cách của mình” ở người khác, trong xã hội. Tuy nhiên, không phải bất cứ hoạt động nào cũng có vai trò tích cực trong việc hình thành nhân cách cá nhân, mà hoạt động phải được tổ chức khoa học, phải dựa trên những kinh nghiệm, những tiền đề nhất định và phải được thúc đẩy bởi những hoạt động cao đẹp. Trong công tác giáo dục, cần chú ý thay đổi theo hướng làm phong phú nội dung, hình thức, cách thức tổ chức hoạt động sao cho thực sự lôi cuốn cá nhân tham gia tích cực, tự giác vào hoạt động đó. Hoạt động của con người luôn mang tính xã hội, tính cộng đồng, nghĩa là hoạt động luôn đi với giao tiếp; do đó, đương nhiên giao tiếp cũng là một nhân tố cơ bản trong sự hình thành và phát triển nhân cách. 1.2.2. Cộng đồng * Khái niệm Cộng đồng (community) được hiểu theo nghĩa chung nhất là: “một cơ thể sống/ cơ quan/ tổ chức nơi sinh sống và tương tác giữa cái này với các khác”. Trong khái niệm này, điều đáng chú ý, được nhấn mạnh: cộng đồng là “cơ thể sống”, có sự “tương tác” của các thành viên. Dấu hiệu/ đặc điểm để phân biệt cộng đồng này với cộng đồng khác có thể là bất cứ cái gì thuộc về 12 con người và xã hội loài người, màu da, đức tin, tôn giáo, lứa tuổi, ngôn ngữ, nhu cầu, sở thích nghề nghiệp… nhưng cũng có thể là vị trí địa lý của khu vực (địa vực), nơi sinh sống của nhóm người đó như làng xã, quận huyện, quốc gia, châu lục… Những dấu hiệu này chính là những ranh giới để phân chia cộng đồng. Tuy nhiên, các nhà khoa học, trong khái niệm này không chỉ cụ thể “cái này” với “cái khác” là cái gì, con gì. Đó có thể là các loại thực vật, cũng có thể là các loại động vật, cũng có thể là con người – cộng đồng người. Cộng đồng là hình thức chung sống trên cơ sở sự gần gũi của các thành viên về mặt cảm xúc, hướng tới sự gắn bó đặc biệt mật thiết (gia đình, tình bạn cộng đồng yêu thương) được chính họ tìm kiếm và vì thế được con người cảm thấy có tính cội nguồn. Và cộng đồng được xem là một trong những khái niệm nền tảng nhất của xã hội học, bởi vì nó mô tả những hình thức quan hệ và quan niệm về trật tự, không xuất phát từ các tính toán lợi ích có tính riêng lẻ và được thỏa thuận theo kiểu hợp đồng mà hướng tới một sự thống nhất về tinh thần - tâm linh bao quát hơn và vì thế thường cũng có ưu thế về giá trị. Cộng đồng người có tính đa dạng, tính phức tạp hơn nhiều so với các cộng đồng sinh vật khác. Trong đời sống xã hội, khái niệm cộng đồng có nhiều tuyến nghĩa khác nhau đồng thời cộng đồng cũng là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau: xã hội học, dân tộc học, y học… Khi nói tới cộng đồng người, người ta thường quy vào những “nhóm xã hội” có cùng một hay nhiều đặc điểm chung nào đó, nhấn mạnh đến đặc điểm chung của những thành viên trong cộng đồng. Nhà xã hội học người Mỹ J. Fichter trong tác phẩm “Những khái niệm cơ bản của Tâm lí học xã hội” [11] cho rằng cộng đồng bao gồm bốn yếu tố sau đây: - Sự tương quan mật thiết giữa các cá nhân (mặt đối mặt). - Sự liên hệ về mặt xúc cảm, tình cảm giữa các cá nhân trong quá trình thực hiện vai trò xã hội và các nhiệm vụ được giao. 13 - Sự dâng hiến về mặt tinh thần đối với những giá trị mà tập thể cho là cao cả. - Sự đoàn kết, hợp tác giữa cá nhân với người khác và với tập thể. Theo quan điểm Mác – Xít, cộng đồng là mối quan hệ qua lại giữa các cá nhân, được quyết định bởi sự cộng đồng hóa lợi ích giống nhau của các thành viên về các điều kiện tồn tại và hoạt động của những người hợp thành cộng đồng đó, bao gồm các hoạt động sản xuất vật chất và các hoạt động khác của họ, sự gần gũi các cá nhân về tư tưởng, tín ngưỡng, hệ giá trị chuẩn mực cũng như các quan niệm chủ quan của họ về các mục tiêu và phương tiện hoạt động. Quan niệm về cộng đồng theo quan điểm Mác – Xít là quan niệm rất rộng, có tính khái quát cao, mang đặc thù của kinh tế - chính trị. Dấu hiệu đặc trưng chung của nhóm người trong cộng đồng này chính là “điều kiện tồn tại và hoạt động”, là “lợi ích chung”, là “tư tưởng”, “tín ngưỡng”. “giá trị”chung…Thực chất đó là cộng đồng mang tính giai cấp, ý thức hệ. Theo từ điển xã hội học của Harper Collins, cộng đồng được hiểu là mọi phức hợp các quan hệ xã hội được tiến hành trong lĩnh vực kinh cụ thể, được xác định về mặt địa lý, hàng xóm hay những mối quan hệ mà không hoàn toàn về mặt cư trú, mà tồn tại ở một cấp độ trừu tượng hơn. Theo UNESCO: Cộng đồng là một tập hợp người có cùng chung một lợi ích, cùng làm việc vì một mục đích chung nào đó và cùng sinh sống trong một khu vực xác định. Những người chỉ sống gần nhau, không có sự tổ chức lại thì đơn thuần chỉ là sự tập trung của một nhóm các cá nhân và không thực hiện các chức năng như một thể thống nhất. Tóm lại, trong đời sống xã hội, cộng đồng là một danh từ chung chỉ tập hợp người nhất định nào đó với hai dấu hiệu quan trọng: 1/ họ cùng tương tác với nhau; 2/ họ cùng chia sẻ với nhau (có chung với nhau) một hoặc một vài đặc điểm vật chất hay tinh thần nào đó. * Phân loại cộng đồng 14 Tùy theo mục đích nghiên cứu mà người ta phân loại cộng đồng theo những dấu hiệu khác nhau. Trong một số tài liệu, người ta lại chia cộng đồng theo 2 nhóm như sau [22]: - Nhóm cộng đồng theo địa vực: thôn xóm, làng bản, khu dân cư, phường xã, quận huyện, thị xã, thành phố, khu vực, châu thổ cho đến cả quả địa cầu của chúng ta. Ở nước ta, ở quy mô tỉnh, thành phố thì chúng ta có 63 tỉnh, thành phố, theo quy mô xã phường thì chúng ta có trên chục ngàn xã, phường, ở quy mô thôn xóm, khu dân cư (nhỏ hơn xã phường) thì chúng ta có hàng trăm ngàn cộng đồng. - Nhóm cộng đồng theo nền văn hóa: nhóm này bao gồm: cộng đồng theo hệ tư tưởng, văn hóa, tiểu văn hóa, đa sắc tộc, dân tộc thiểu số… Nhóm này cũng có thể bao gồm cả cộng đồng theo nhu cầu và bản sắc như cộng đồng người khuyết tật, cộng đồng người cao tuổi. - Nhóm cộng đồng theo tổ chức: được phân loại từ các tổ chức không chính thức như tổ chức gia đình, dòng tộc, hội hè cho đến những tổ chức chính thức chặt chẽ hơn như các tổ chức đoàn thể, các tổ chức chính trị, tổ chức hành chính nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức hiệp hội nghề nghiệp, xã hội… từ phạm vi nhỏ ở một đơn vị hoặc trong phạm vi quốc gia cho đến phạm vi quốc tế. Cũng có thể phân loại cộng đồng theo đặc điểm khác biệt về kinh tế xã hội: - Cộng đồng khu vực đô thị. - Cộng đồng nông thôn. Trong bối cảnh Việt Nam, cộng đồng được hiểu là một chỉnh thể thống nhất bao gồm những người dân (dân cư) sinh sống trong đơn vị hành chính cơ sở: xã (địa bàn nông thôn), phường (địa bàn thành thị) hay đơn vị hành chính dưới xã, phường, đó là thôn/ làng, bản (địa bàn nông thôn/ nông thôn miền núi) và tổ dân cư/ khu dân cư (địa bàn thành thị) cùng với hệ thống các đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế, tổ chức nghề nghiệp… mà 15 những người dân đó là thành viên dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lí của Nhà nước. Như vậy, cộng đồng là một đơn vị hành chính, kinh tế - xã hội có tính độc lập tương đối so với các cộng đồng khác trong một quốc gia. Trong mỗi cộng đồng có các thành viên cộng đồng là các cá nhân hoặc gia đình đang sinh sống trên địa bàn, có những tổ chức hành chính nhà nước, tổ chức xã hội mà các thành viên cộng đồng tham gia sinh hoạt trên địa bàn dân cư, các tổ chức kinh tế, dịch vụ mà thành viên cộng đồng tham gia làm việc (cũng có thể thành viên không làm việc ở đó). Ở Việt Nam ngày nay, các tổ chức chính trị - xã hội đó có thể là các tổ chức trong khối Mặt trận tổ quốc xã phường: Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phường/ xã; Hội/ Chi hội Phụ nữ; Hội/ chi hội người cao tuổi; Hội/ chi hội Cựu chiến binh; Hội nông dân (đối với địa bàn nông thôn); tổ chức tôn giáo (nếu có)… Tổ chức chính quyền: Ủy ban nhân dân; Hội đồng nhân dân; một số tổ chức kinh tế địa phương: Hợp tác xã nông nghiệp; Hợp tác xã thủ công, Doanh nghiệp… Các đơn vị sự nghiệp trên địa bàn có Trạm Y tế xã/ phường; bệnh viện, trường học; tổ chức Đảng, chi bộ Đảng. 1.2.2. Giáo dục và giáo dục thể chất 1.2.1. Giáo dục Giáo dục theo từ tiếng Hán thì giáo nghĩa là dạy, là rèn luyện về đường tinh thần nhằm phát triển tri thức và huấn luyện tình cảm đạo đức, dục là nuôi, là săn sóc về mặt thể chất. Vậy giáo dục là một sự rèn luyện con người về cả ba phương diện trị tuệ, tình cảm và thể chất. Theo phương Tây thì education vốn xuất phát từ chữ educare của tiếng La tinh. Động từ educare là dắt dẫn, hướng dẫn để làm phát khởi ra những khả năng tiền tàng. Sự dắt dẫn này nhằm đưa con người từ không biết đến biết, từ xấu đến tốt, từ thấp kém đến cao thượng, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Theo tác giả Trần Thị Tuyết Oanh “Giáo dục là quá trình tác động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch, có nội dung và bằng phương pháp khoa 16 học của nhà giáo dục tới người được giáo dục trong các cơ quan giáo dục nhằm hình thành nhân cách cho họ” [30]. Theo tác giả Nguyễn Lân “Giáo dục là một quá trình có ý thức có mục đích, có kế hoạch nhằm truyền cho lớp mới những kinh nghiệm đấu tranh và sản xuất, những tri thức về tự nhiên, về xã hội, về tư duy, để họ có thể có đầy đủ khả năng tham gia vào đời sống và đời sống xã hội” [18]. Theo tác giả Nguyễn Sinh Huy “Giáo dục là sự hình thành có mục đích và có tổ chức những sức mạnh thể chất và tinh thần của con người, hình thành thế giới quan, bộ mặt đạo đức và thị hiếu thẩm mĩ cho con người; với nghĩa rộng nhất, khái niệm này bao hàm cả giáo dưỡng, dạy học và tất cả những yếu tố khác tạo nên những nét tính cách và phẩm hạnh của con người, đáp ứng yêu cầu của kinh tế xã hội” [17]. Dù xét trên các góc độ, phạm vi khác nhau, chúng ta có thể nhận thấy: Giáo dục là một quá trình toàn vẹn hình thành nhân cách, được tổ chức một cách có mục đích và kế hoạch, thông qua các hoạt động và quan hệ giữa người giáo dục và người được giáo dục, nhằm truyền đạt và chiếm lĩnh những kinh nghiệm xã hội loài người. Như vậy: Giáo dục luôn là một quá trình có mục đích, có kế hoạch, là quá trình tác động qua lại giữa nhà giáo dục và người được giáo dục. Thông qua quá trình tương tác giữa người giáo dục và người được giáo dục để hình thành nhân cách toàn vẹn (hình thành và phát triển các mặt đạo đức, trí tuệ, thẩm mĩ, thể chất, lao động) cho người được giáo dục. Giáo dục không bó hẹp ở phạm vi là người được giáo dục đang trong tuổi học (dưới 25 tuổi) và giáo dục không chỉ diễn ra trong nhà trường. Ngày nay, chúng ta hiểu giáo dục là cho tất cả mọi người, được thực hiện ở bất cứ không gian và thời gian nào thích hợp với từng loại đối tượng bằng các phương tiện khác nhau, kể cả các phương tiện truyền thông đại chúng (truyền hình, truyền thanh, video, trực tuyến qua inernet,…) với các hình thức đa dạng, phong phú. Ngoài ra quá trình giáo dục không ràng buộc về độ tuổi giữa người giáo dục với 17 người được giáo dục. 1.2.2. Giáo dục thể chất 2.2.2.1 Khái niệm Thể dục được hiểu theo nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Thể dục theo nghĩa rộng bao gồm giáo dục rèn luyện thân thể và giáo dục vệ sinh giữ gìn sức khỏe. Rèn luyện thân thể nghiêng về bồi dưỡng cơ thể, còn giáo dục vệ sinh giữ gìn sức khỏe lại nghiêng về bảo vệ sức khỏe. Thể dục theo nghĩa hẹp, chủ yếu chỉ rèn luyện thân thể hoặc giáo dục vận động thể dục thể thao. Giáo dục thể chất là sự tác động có mục đích, có nội dung, có phương pháp, có tổ chức của nhà giáo dục đến đối tượng giáo dục nhằm nâng cao sức khỏe, hình thành và phát triển các yếu tố thể chất cho họ. Việc giáo dục thể chất có thể tiến hành theo nội dung chương trình môn Thể dục ở nhà trường, cũng có thể tiến hành rèn luyện liên tục trong cuộc sống cá nhân. Vì vậy giáo dục thể chất không chỉ chú ý đến việc rèn luyện hay giáo dục giữ gìn sức khỏe mà phải chú ý đến giáo dục ý thức, thái độ rèn luyện để tạo nên một thói quen, một nếp sống văn minh của con người hiện tại. Việc rèn luyện thể chất, giữ gìn sức khỏe của mỗi người vừa là trách nhiệm vừa là nghĩa vụ, nó không chỉ vì lợi ích của cá nhân mà còn vì lợi ích cộng đồng và xã hội. 2.2.2.2. Ý nghĩa của giáo dục thể chất Sức khỏe là vốn quý giá nhất của mỗi con người. Người có sức khỏe có hàng trăm, hàng ngàn ước mơ, còn người không có sức khỏe thì chỉ có một ước mơ duy nhất là mình có sức khỏe. Một tâm hồn lành mạnh chỉ ở trong một cơ thể cường tráng. Muốn có một sức khỏe tốt để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, ngoài yếu tố tư chất bẩm sinh, vấn đề rèn luyện và giữ gìn sức khỏe là hết sức quan trọng. Giáo dục thể chất (thể dục) là bộ phận cấu thành quan trọng của nền giáo dục phát triển toàn diện. Thể dục là biện pháp quan trọng để nâng cao sức khỏe người dân, tăng cường thể chất nhân dân, làm phong phú đời sống 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan