SỞ GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO AN GIANG
TRƯỜNG THPT NGUYỄN TRUNG TRỰC
Tổ chức giờ dạy bài “Phân
tích văn học” ở chương trình
làm văn lớp 12
Người thực hiện: NGUYỄN TRÍ THANH
Tổ Văn Trường THPT Nguyễn Trung
Trực
Trang 1
A. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Trong chương trình làm văn nghị luận ở bậc trung học nói chung
thì kiểu bài “Phân tích văn học” có một vai trò đặt biệt quan trọng,
kiểu bài này chiếm một dung lượng thời gian rất lớn ở các lớp học và
được bố trí xuyên suốt từ lớp 8 đến lớp 12. Nếu khảo sát đề thi tốt
nghiệp môn văn ở 2 cấp THCS và THPT thì kiểu bài “Phân tích văn
học” là kiểu bài trọng tâm hầu như năm nào đề ra cũng thuộc kiểu
này.
Trong suốt chương trình từ lớp 8 đến lớp 12 kiểu bài này được
phân bố liên tục và rải đều ở các lớp:
+ Lớp 8: Kiểu bài này học dưới dạng: “Phân tích nhân vật” được
thực hiện trong 10 tiết gồm:4 tiết lý thuyết
4 tiết bài viết (làm bài viết)
2 tiết trả bài viết
+ Lớp 9: Kiểu bài này được học dưới dạng: “Phân tích tác phẩm”
được thực hiện trong 10 tiết gồm:4 tiết lý thuyết
4 tiết thực hành (làm bài viết)
2 tiết trả bài viết
+ Lớp 10: Kiểu bài này được học dưới dạng: “Phân tích một đoạn
thơ, một bài thơ ngắn” được thực hiện trong 9 tiết:3 tiết lý thuyết
4 tiết thực hành (làm bài
viết)
2 tiết trả bài
(Tuy nhiên ở chương trình lớp 10: trong 9 tiết này trọn phần nghị
luận văn học bao gồm cả: giải thích, phân tích, bình luận và phân tích
một vấn đề văn học).
+ Lớp 11: Kiểu bài này được học dưới dạng: “Phân tích nhân vật
trong tác phẩm tự sự” và “Phân tích tâm trạng trong thơ trữ tình”.
Được thực hiện trong vòng 10 tiết bao gồm: 4 tiết lý thuyết
4 tiết thực hành (làm bài viết)
2 tiết trả bài
(Chưa kể 5 tiết nữa về kiểu bài “Bình giảng văn học”)
+ Lớp 12: Kiểu bài bài này được thực hiện bằng 3 tiết lý thuyết
gồm: 2 tiết phân tích tác phẩm văn học và 1 tiết phân tích vấn đề văn
học (chưa kể các bài thực hành làm văn, trả bài và kiểu bài “Bình
giảng văn học”).
Tuy được học lý thuyết rất nhiều và làm nhiều bài viết thực hành
nhưng nhìn chung đa số học sinh (kể cả học sinh lớp 12) còn lúng
túng khi đứng trước một đề bài yêu cầu phân tích văn học. Vì thế khi
Trang 2
phân tích một tác phẩm văn học tự sự bài viết của các em chủ yếu là
trần thuật lại câu chuyện hoặc kể lại cuộc đời của nhân vật. Còn khi
phân tích một tác phẩm trữ tình chủ yếu các em diễn giải một nội dung
của đọan thơ hay bài thơ một cách chung chung. Khi phân tích một
vấn đề văn học dẫn chứng của các em còn rất nghèo nàn thiếu tính tiêu
biểu, khả năng so sánh, đối chiếu, tổng hợp của các em còn yếu.
Từ những yêu cầu và thực trạng trên, đã nhiều năm nay tôi
thường trăn trở một ý niệm: Làm sao giúp các em làm tốt một bài văn
“phân tích văn học” . Hơn nữa năm nay theo chỉ đạo của Sở Giáo Dục
các cụm hội đồng bộ môn văn đều tiến hành tổ chức tiết dạy sinh hoạt
chuyên đề: “Phân tích văn học” ở chương trình làm văn 12. Từ đó, tôi
mạnh dạn thử đưa ra một mô hình tổ chức giờ dạy: “Phân tích văn
học” với mong muốn trao đổi thêm về chuyên môn với đồng nghiệp
nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng giảng dạy phân môn làm văn.
Trang 3
B. BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT:
I/ Những biện pháp thực hiện:
1/ Khâu chuẩn bị cho giờ dạy:
a. Đối với học sinh:
- Xem lại sách giáo khoa làm văn 10: phần nghị luận văn học để
nắm vững lại phương pháp: “Phân tích một đoạn thơ, một bài thơ
ngắn”
- Xem lại sách giáo khoa làm văn 11: để nắm vững lại phương
pháp: “Phân tích nhân vật trong tác phẩm tự sự và phân tích tâm trạng
trong thơ trữ tình”.
- Từ đó nắm vững lại khái niệm phân tích văn học nói chung.
- Chuẩn bị trước ở nhà hai đề văn giáoviên cho trước:
Đề 1: Hãy phân tích bài thơ “Chiều tối” của Hồ Chí Minh
Đề 2: Khi bàn về văn học cách mạng 1945-1975, có ý kiến cho
rằng: “Văn học cách mạng sau năm 1945 không chỉ giàu tính chiến
đấu mà còn giàu tính nhân đạo”
Qua một tác phẩm văn học đã được học ở chương trình lớp 12,
Anh (Chị) hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
b. Đối với giáo viên:
- Đọc kĩ bài học ở sách giáo khoa, xem lại các phần liên quan ở
chương trình từ lớp 8 đến lớp 11 và nghiên cứu những tài liệu giảng
dạy có liên quan.
- Chuẩn bị một số đồ dùng dạy học, sử dụng moat số bảng phụ
trình bày sẵn các vấn đề sau đây:
+ Một số phương pháp phân tích văn học.
+ Kết cấu của bài văn nghị luận phân tích tác phẩm nói chung
+ Phương pháp phân tích thơ (trữ tình)
+ Phương pháp phân tích truyện (tự sự)
2/ Tiến hành giờ dạy: (3 tiết)
Thời
gian
10 phút
Phương pháp
Nội dung
GV: Hãy nhắc lại khái niệm
về kiểu bài phân tích tác
phẩm văn học nói chung?
GV: Hãy nêu các kiểu bài
I/ Phân tích tác phẩm văn
học:
1. Một số phương pháp phân
tích tác phẩm văn học
Trang 4
7 phút
20 phút
phân tích văn học đã được
học ở lớp 10 và lớp 11.
HS: Các kiểu bài phân tích
văn học đã được học ở lớp
10 và lớp 11 là:
+ Lớp 10: phân tích moat
đoạn thơ, bài thơ ngắn.
+ Lớp 11: phân tích nhân
vật, tâm trạng.
GV: Ở chương trình làm văn
12 vẫn tiếp tục các kiểu bài
làm văn này song mức độ
tổng hợp hơn, cao hơn.
GV: Hãy nêu những yêu cầu
chung đối với kiểu bài phân
tích văn học.
GV: Tuy nhiên mỗi thể loại
văn học có một đặc trưng
riêng vì vậy phân tích tác
phẩm văn học cũng phải có
những phương pháp riêng.
GV: Sử dụng bảng phụ đã
trình bày sẵn bốn phương
pháp cơ bản để thuyết giảng.
GV: Có những phương pháp
nào khi phân tích tác phẩm
Ví dụ: Dùng nhân vật “Đào”
để chứng minh làm nổi bật
số phận và tính cách của cô
qua 2 giai đoạn: trước và sau
khi lên nông trường Điện
Biên
Ví dụ: - Phân tích nhân vật
Huấn Cao cần làm nổi bật
mối quan hệ tương phản với
môi trường.
- Phân tích nhân vật
Tnú can làm nổ bật mối quan
Trang 5
a/ Ôn lại khái niệm:
- Phân tích văn học là kiểu
bài nghị luận văn học đem
lại một hiện tượng văn học
(tác phẩm, vấn đề) phân chia
thành các bộ phận, các phần
nhỏ và chỉ ra ý nghĩa, giá trị
của các phần, các bộ phận
đó rồ đem kết quả tổng hợp
lại trong một đánh giá
chung.
b/ Một số yêu cầu chung của
bài phân tích tác phẩm văn
học:
- Phân tích phải dựa trên
những cứ liệu khách quan,
xác thực, toàn diện
- Cần có sự tưởng tượng,
liên tưởng phán đoán chủ
quan dựa trên những cơ sở
nhất định.
- Phải làm nổi bật giá trị nội
dung và giá trị nghệ thuật
của tác phẩm.
c/ Một số phương pháp phân
tích văn học
- Phân tích đối tượng theo
quá trình phát triển can làm
nổi bật:
+ Nhân vật trãi qua những
giai đoạn nào.
+ Đối chiếu những thay đổi
chỉ ra những chi tiết thể hiện
sự thay đổi trong tính cách,
số phận, cuộc đời của nhân
vật.
+ Chỉ ra ý nghĩa của sự thay
đổi đó.
- Phân tích đối tượng theo
mối quan hệ của nó với môi
hệ tương đồng với môi
trường.
Ví dụ: Khi phân tích những
câu thơ trong bài thơ “Tây
Tiến”
“Dốc lên khúc khuỷu …
ngửi trời” chú ý cách ngắt
nhịp, dùng từ láy, biện pháp
nhân hoá…
trường, hoàn cảnh xung
quanh.
Cần xem xét, phân tích làm
nổi bật mối quan hệ giữa
nhân vật và hoàn cảnh:
tương đồng hay tương phản.
- Phân tích đối tượng theo
cấu trúc của chính nó.
Phân tích kết cấu nội tại của
tác phẩm.
+ Đối với thơ: phân tích các
dấu hiệu nghệ thuật để làm
nổi bật giá trị nội dung, có
chú ý đến mối tương quan
giữa bài thơ với luật thơ,
Ví dụ: Khi phân tích nhân cách ngắt nhịp cụ thể và
vật Tràng cần làm rõ sự đối cách ngắt nhịp qui phạm.
lập giữa:
+ Đối với truyện: khi phân
tích nhân vật chú ý mối
Ngoại hình
Tính cách, bản
tương quan giữa nội tâm và
xấu xí, thô
chất yêu thương
kệch, hoang người khao khát ngoại tình
dã
40 phút
hạnh phúc
Ví dụ: - Khi phân tích bài
thơ “Tây tiến” có thể đố
chiếu với “Đồng chí” (Chính
Hữu) “Nhớ” (Hồng Nguyên)
- Khi phân tích nhân
vật Hộ (Đời thừa) đối chiếu
liên hệ với Điền (Trăng
sáng), Thứ (Sống mòn)
GV: Để làm một bài văn
nghị luận thông thường ta
phải trải qua các khâu nào?
GV: Muốn xác định được
yêu cầu của đề ra ta phải đặt
ra những câu hỏi gì?
GV: Khi phân tích giá trị
nhân đạo trong truyện ngắn
“Vợ nhặt” của Kim Lân, thì
Trang 6
- Phân tích đối tượng theo
mối quan hệ tương đồng hay
tương phản với các đối
tượng cùng loại.
2. Cách làm bài phân tích
tác phẩm văn học:
a/ Định hướng và lập ý:
* Cụ thể hóa chủ đề phân
tích của đề bài:
- Đề bài yêu cầu phân tích
chúng ta cần giải thích rõ:
+ Thế nào là nhân đạo?
+ Chủ nghĩa nhân đạo đó bao
gồm những khía cạnh nào?
Ví dụ: Phân tích tấn bi kịch
tinh thần của người trí thức
trong “Đời thừa”
Cần làm rõ hai khía cạnh:
- Bi kịch của người chồng,
người cha
- Bi kịch của nhà văn
Ví dụ: Hãy phân tích bài thơ
“Chiều tối” của Hồ Chí Minh
cần làm nổi bật hai bức tranh
thiên nhiên và sinh hoạt ở
làng xóm miền núi qua đó
thấy được lòng yêu thiên
nhiên, yêu con người, yêu
cuộc sống của Bác.
GV: Em hãy nêu một ví dụ
để minh họa?
GV: Khi phân tích tác phẩm
có phải chúng ta phân tích tất
cả các chi tiết được tác giả
thể hiện trong tác phẩm
không?
GV: Thông thường có mấy
cách phân tích chi tiết? Đó là
những cách nào?
Ví dụ: Các chi tiết miêu tả
Trang 7
cái gì?
+ Một tác phẩm trọn vẹn?
+ Một nhân vật?
+ Một cảnh gì?
- Phân tích cái đó nhằm mục
đích gì?
+ Làm rõ phong cách nghệ
thuật của tác giả
+ Làm rõ tinh thần nhân đạo
trong tác phẩm
+ Làm nổi bật hình tượng
nhân vật nào?
* Phân tích sơ bộ tác phẩm
theo các định hướng:
- Đối với những đề bài có
định hướng: đối chiếu các
định hướng với tác phẩm và
vạch ra các ý cần phân tích
để làm rõ định hướng.
- Đối với những đề bài
không hạn định chủ đề phân
tích cụ thể: thì phân tích
theo các ý chính để làm nổi
bật chủ đề của tác phẩm.
b/ Chọn chi tiết để phân
tích:
- Phân tích tác phẩm tức là
ta đi vào phân tích các chi
tiết như: lai lịch, ngoại hành,
lời nói, hành động, suy nghĩ,
đồ vật, cảnh vật…
- Chỉ chọn phân tích các chi
tiết tiêu biểu phù hợp với
yêu cầu của đề bài.
c/ Phân tích chi tiết:
* Khai thác chức năng biểu
hiện của các chi tiết trong
không khí, cảnh vật trong
“Vợ nhặt” đề toát lên: sự đói
khổ tăm tối, chết chóc bi
thảm.
Ví dụ 1: Bi kịch tinh thần
của Hộ (Đời thừa) là gì?
Nguyên nhân gây ra những
bi kịch đó?
Ví dụ 2: Phân tích sự cảm
nhận của Nguyễn Khoa
Điềm về hình tượng quê
hương đất nước ta có thể so
sánh với sự cảm nhận của
Nguyễn Đình Thi.
30 phút
GV: Tại sao khi phân tích
chi tiết ta phải tổng hợp,
đánh giá?
GV: Yêu cầu của khâu tổng
kết, đánh giá?
GV: Hãy nêu các dạng bài
phân tích các vấn đề văn học
mà ta thường gặp?
GV: Hãy nêu vài ví dụ về đề
bài phân tích các vấn đề văn
học?
Trang 8
văn bản các chi tiết trong tác
phẩm bị quy định bởi các
phạm vi ý nghĩa và biểu
hiện cho ý nghĩa ấy.
* Dùng biện pháp đối chiếu,
so sánh, suy luận từ bên
ngoài để phát hiện giá trị:
- Nêu lên những câu hỏi để
tìm câu trả lời trong tác
phẩm.
- Tìm cái tương đồng cùng
loại để so sánh, nhằm chỉ ra
sự khác biệt độc đáo.
- Sử dụng các biện pháp
phân tích ngôn ngữ học
(nhịp điệu, vần, từ láy, từ
Hán Việt…)
d/ Tổng kết, nhận định, đánh
giá:
- Khái quát các ý đã phân
tích.
- Đánh giá về giá trị nhận
thức, giá trị tư tưởng và giá
trị nghệ thuật của tác phẩm.
- Mở rộng và nâng cao vấn
đề đã được phân tích.
3. Cách làm bài phân tích
các vấn đề văn học.
a/ Phạm vi, yêu cầu:
* Phạm vi:
- Đặc điểm của một giai
đoạn văn học.
- Phong cách nhà văn
- Vấn đề lí luận văn học.
- Một hình tượng bao quát
* Yêu cầu:
GV: Trong những đề bài
phân tích văn học thường có
những khái niệm vậy điều
đầu tiên ta phải làm gì?
15 phút
- Phải chọn lọc được những
tác phẩm, những khía cạnh,
những vấn đề tiêu biểu.
- Kết hợp phân tích, so sánh
tổng hợp các dẫn chứng
được đưa ra.
b/ Định hướng và lập ý:
- Giải thích những khái niệm
mà đề bài nêu ra.
- Chia tách vấn đề (luận đề)
ra thành những khía cạnh
(luận điểm).
c/ Chọn dẫn chứng:
- Phải chọn được các dẫn
chứng tiêu biểu vừa chú ý
đến “diện” vừa chú ý đến
“điểm”.
- Các dẫn chứng phải được
tập hợp thành nhóm để làm
nổi bật từng yêu cầu mà đề
bài đặt ra.
GV: So với dạng bài phân
tích tác phẩm văn học thì
dạng bài phân tích vấn đề
văn học cónhững đặc điểm
gì?
- Phạm vi rộng, tính tổng
hợp cao.
- Kết hợp nhiều thao tác như:
giải thích, phân tích, chứng
minh.
GV: Sau khi đã chọn được
dẫn chứng thì người làm văn
phải thực hiện nhiệm vụ gì? d/ Phân tích vấn đề qua chi
tiết
- Các dẫn chứng đưa ra cần
được phân tích.
GV: Đối với kiểu bài phân - Chỉ tập trung phân tích
tích vấn đề văn học thì khâu những khía cạnh của tác
tổng hợp, đánh giá có cần phẩm phục vụ cho yêu cầu
thiết không?
của đề ra.
- Rất cần thiết, đóng một vai e/ Tổng hợp, nhận định,
trò rất quan trọng trong bài đánh giá
làm.
- Nêu lên mặt mạnh, mặt
GV: Yêu cầu của khâu tổng yếu,những đóng góp và hạn
hợp đánh giá đối với kiểu bài chế của hiện tượng văn học
phân tích vấn đề văn học?
được nghị luận.
- Dạng bài phân tích tác - Nêu lên tác dụng của vấn
phẩm khá quen thuộc và đế đối với tiến trình lịch sử
tương đối dễ, vì vậy trong văn học.
Trang 9
phần thực hành chỉ cần giải
quyết một đề bài phân tích
vấn đề văn học.
- GV cho từng nhóm HS
trình bày từng phần đề mà đã
cho các em chuẩn bị ở nhà.
4. Bài tập thực hành:
Đề: Khi bàn vầ văn học cách
mạng 1945-1975, có ý kiến
cho rằng:
“Văn học cách mạng sau
năm 1945 không chỉ giàu
tính chiến đấu mà còn giàu
tính nhân đạo”
Qua những tác phẩm: “Vợ
nhặt”, “Vợ chồng A Phủ”,
“Mùa Lạc” Anh (Chị) hãy
làm sáng tỏ ý kiến trên.
II. Kết quả:
Qua việc áp dụng giờ dạy bài “Phân tích văn học” ở chương
trình làm văn lớp 12 theo cách thức tổ chức này; Chúng tôi thấy có kết
quả bước đầu như sau:
+ Học sinh làm việc tích cực hơn: làm tốt các yêu cầu của giáo
viện cho về nhà, đọc kĩ sách giáo khoa tích cực xây dựng bài.
+ Học sinh nắm chắc phương pháp làm bài, vận dụng tốt những
kiến thức lý thuyết để làm tương đối tốt bài thực hành.
+ Phần lớn học sinh khắc phục được nhược điểm trước đây mà
các em từng mắc phải như: phân tích hời hợt, sa vào trần thuật tác
phẩm hay kể lại cuộc đời số phận nhân vật (đối với truyện) và diễn ý
chung chung đối với thơ
III. Bài học kinh nghiệm:
Để giúp học sinh làm tốt kiểu bài văn nghị luận văn học, đáp
ứng được mục tiêu giáo dục, chúng tôi chú trọng đến những vấn đề
sau đây:
- Việc chấm bài và trả bài tập làm văn cho học sinh cần phải thật
tỉ mỉ, chu đáo, cẩn trọng. Giáo viên phải sửa các lỗi và có lời phê thật
cụ thể. Cần chú ý biểu dương những em có cố gắng, có bài làm hay,
có những ý hay, đoạn hay.
- Không nêu ra những đề bài tập làm văn có yêu cầu quá cao đối
với học sinh vì nó sẽ gây cho các em sự sợ hãi và buông xuôi.
- Giáo viên cần có những cải tiến, đầu tư nhiều hơn nữa cho
công tác soạn giảng nhất là các tiết lý thuyết về kiểu bài làm văn.
C. KẾT LUẬN:
Từ tình hình thực tế hiện nay đó là việc phần lớn học sinh rất
chán học văn, sợ phải làm một bài tập làm văn. Bên cạnh đó các tài
Trang 10
liệu tham khảo những bài văn hay tràn lan, mà trong phân phối
chương trình lại có rất nhiều bài viết học sinh thực hiện ở nhà cho nên
tình trạng chép bài mẫu rất phổ biến. Là người giáo viên dạy văn
chúng tôi rất băn khoăn, trăn trở làm sao để học sinh ham thích học
văn, hứng thú khi làm một bài viết. Từ điều tâm niệm đó mà chúng tôi
nêu lên vấn đề này xin được trao đổi với đồng nghiệp.
Tri Tôn, ngày 15 tháng 4 năm 2003
Người viết
Nguyễn Trí Thanh
Trang 11
- Xem thêm -