Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tổ chức dạy học theo dự án phần văn học nước ngoài chương trình ngữ văn 11 trung...

Tài liệu Tổ chức dạy học theo dự án phần văn học nước ngoài chương trình ngữ văn 11 trung học phổ thông luận văn ths. giáo dục học

.PDF
128
203
64

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC ------------------------------------------ PHẠM THỊ THÚY CHINH TỔ CHỨC DẠY HỌC DỰ ÁN PHẦN VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 11 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN Chuyên ngành: LL&PP dạy học (bộ môn Ngữ Văn) Mã số: 601410 HÀ NỘI – 2010 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Nâng cao chất lƣợng dạy và học, đáp ứng mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực trong thực tế và tƣơng lai, cần thiết phải đổi mới giáo dục một cách toàn diện. Trong nghị quyết số 40/2000/QH10 ngày 19-12-2000 của Quốc hội khóa 10 đã khẳng định mục tiêu đổi mới chƣơng trình giáo dục phổ thông là: “Xây dựng nội dung chương trình, phương pháp giáo dục, sách giáo khoa phổ thông nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phù hợp điều kiện và truyền thống Việt Nam, tiếp cận trình độ giáo dục phổ thông ở nước trong khu vực và trên thế giới” [3, tr.1]. Xuất phát từ mục tiêu này, các nhà quản lí, các nhà giáo dục đã xác định một trong những trọng tâm hàng đầu của việc đổi mới lần này là đổi mới phƣơng pháp dạy học. Yêu cầu của phƣơng pháp giáo dục phổ thông hiện nay đƣợc ghi rõ trong điều 28.2 - Luật Giáo dục 2005: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh” [3, tr.28]. Nhƣ vậy, cốt lõi của việc đổi mới phƣơng pháp là nhằm tăng cƣờng tính tích cực, chủ động, hƣớng tới hoạt động tự học của học sinh, khắc phục thói quen học tập thụ động. Chủ trƣơng đổi mới phƣơng pháp dạy học theo hƣớng tích cực, lấy ngƣời học làm trung tâm mở ra cơ hội cho giáo dục nƣớc ta ứng dụng nhiều thành tựu của phƣơng pháp dạy học hiện đại trên thế giới, trong đó có những phƣơng pháp dạy học tích cực nhƣ: dạy học tình huống, dạy học qua đóng vai, dạy học theo dự án… Nằm trong xu thế chung của chƣơng trình đổi mới giáo dục phổ thông, việc đổi mới nội dung và phƣơng pháp dạy học môn Ngữ văn cũng là việc cần thiết và tất yếu. Trong những năm qua, tại các hội nghị thay sách giáo khoa 1 Ngữ văn hay đổi mới phƣơng pháp dạy học môn học này, các nhà giáo đã kiến nghị việc đổi mới nội dung phải song song với đổi mới phƣơng pháp dạy học. Trên thực tế, chất lƣợng dạy học môn học thời gian qua giảm sút mạnh, học sinh tỏ ra thờ ơ và ngại học môn học này. Hơn nữa, trong điều kiện phƣơng tiện dạy học hiện đại nhƣ hiện nay cùng với việc chƣơng trình Ngữ văn THPT hiện hành biên soạn lại theo hƣớng tích hợp kiến thức, tập trung phát triển năng lực tự học của học sinh, yêu cầu đổi mới phƣơng pháp dạy học môn học này càng trở nên cấp thiết. Việc đổi mới phƣơng pháp dạy và học Ngữ văn với những phƣơng pháp và hình thức tổ chức dạy học tích cực có sự trợ giúp của công nghệ thông tin và phƣơng tiện dạy học hiện đại đang là một hƣớng mới đƣợc đẩy mạnh áp dụng, trong đó có dạy học theo dự án. Dạy học theo dự án đã có từ lâu trong thực tiễn dạy học ở Việt Nam, nhƣng với sự trợ giúp của công nghệ thông tin và phƣơng tiện dạy học hiện đại nhƣ hiện nay, dạy học theo dự án đang trở nên có nhiều ƣu việt, thu hút sự chú ý quan tâm của giáo viên và học sinh. Dạy học theo dự án có đặc trƣng là tổ chức dạy học gắn với thực tiễn, học sinh phải tự học là chủ yếu, thầy cô chỉ là ngƣời tổ chức, ngƣời hƣớng dẫn học sinh thực hiện nhiệm vụ học tập. Dạy học theo dự án đã bắt đầu triển khai áp dụng ở một số trƣờng đại học, một số trƣờng THPT ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng, ở một số môn học nhƣ vật lý, sinh học, hóa học, tin học, địa lý và toán - là những môn học cung cấp kiến thức về tự nhiên, môi trƣờng, có khả năng khai thác và giải quyết nhiều vấn đề thực tiễn. Riêng đối với các môn khoa học xã hội mà tiêu biểu là Ngữ văn, việc tổ chức dạy học theo dự án còn rất ít đƣợc triển khai áp dụng. Qua thực tế, có thể thấy dạy học theo dự án đáp ứng đƣợc các yêu cầu về đổi mới phƣơng pháp dạy học, phát huy đƣợc vai trò tích cực chủ động của học sinh qua các hoạt động và nhiệm vụ học tập cụ thể. Nếu áp dụng cho môn Ngữ văn có thể nhìn thấy khả năng của dạy học theo dự án sẽ khắc phục đƣợc tình trạng đọc - chép, tạo động cơ và hứng thú học tập cho học sinh. Tuy nhiên, việc ứng dụng tổ chức dạy học theo dự án vào dạy học cụ thể cho các phần kiến thức, các bài học sẽ triển khai nhƣ thế nào? Có phù hợp và nâng 2 cao hiệu quả dạy học môn học hay không? Đó là những vấn đề cần đƣợc nghiên cứu và giải đáp. Mặt khác, tuy dạy học theo dự án đã bƣớc đầu đƣợc quan tâm nghiên cứu và áp dụng nhƣng nhƣ thế không phải là các vấn đề về mặt lí luận và thực tiễn triển khai đã đƣợc nắm bắt cụ thể và có hệ thống trong quá trình dạy học. Việc hiểu rõ vai trò của giáo viên và học sinh, các công việc cần thực hiện và cụ thể hóa thành quy trình dạy học, đánh giá trong dạy học dự án…vẫn còn là những điều mà giáo viên còn nhiều bỡ ngỡ, nhất là đối với các thầy cô giáo ở các trƣờng trung học phổ thông. Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu ―Tổ chức dạy học theo dự án phần văn học nước ngoài chương trình Ngữ văn 11 trung học phổ thông”, nhằm xây dựng một quy trình tổ chức dạy học dự án cho dạy học phần kiến thức này để trang bị cho giáo viên có thể vận dụng vào giảng dạy, góp phần vào đổi mới phƣơng pháp và nâng cao chất lƣợng dạy học Ngữ văn. 2. Lịch sử nghiên cứu Những ý tƣởng đầu tiên về dạy học dự án xuất hiện ở Mỹ từ những năm 30 của thế kỷ XX và sau đó đƣợc tiếp tục đƣợc nghiên cứu, tiếp cận với những quan điểm khác nhau. Hai nhà sƣ phạm Mỹ là John Dewey (18591952) và William H. Kilpatrick (1871-1965) là những ngƣời đặt nền móng cho phƣơng pháp dạy học dự án, dựa trên những cơ sở lý luận về tính tích cực của ngƣời học xuất phát từ sự quan tâm đối với chính môn học. John Dewey đƣợc coi là ngƣời đầu tiên khởi xƣớng phƣơng pháp dạy học dự án, dựa trên cơ sở lý luận là lý thuyết học sinh là trung tâm. Ông đề cập đến việc xây dựng các dự án trong dạy học theo cách tạo điều kiện cho học sinh tƣ duy các vấn đề và tìm cách giải quyết các vấn đề đó. Ông đánh giá tầm quan trọng của dạy học dự án là việc ngƣời học tự rút kinh nghiệm trong quá trình triển khai giải quyết vấn đề có liên quan đến thực tế, qua đó tiếp thu kiến thức và kỹ năng mới, trau dồi những hiểu biết đã có mà không phải kết quả cuối cùng của dự án. Với phƣơng pháp dạy học này, học sinh trở thành trung tâm của quá trình dạy học, thầy cô có vai trò ngƣời tổ chức và 3 hƣớng dẫn. Sau tiền đề nghiên cứu của John Dewey, trong suốt thời gian dài, dạy học theo dự án đã tạo nên sự vận động lớn trong nền giáo dục Mỹ. Các nhà giáo dục đã có rất nhiều báo cáo chỉ ra những lợi ích của việc học dựa trên kinh nghiệm, thực hành hƣớng vào ngƣời học. Tiếp sau John DeWey, tiếp cận vấn đề dƣới quan điểm của một nhà tâm lý học, nhà giáo dục William H.Kilpatric đã bổ sung vào hệ thống quan điểm của John Dewey về dạy học theo dự án ở góc độ phƣơng pháp thực hành dự án. Trong bài báo “Phương pháp dự án” (1925), ông đã chứng minh rằng học sinh có thể dễ dàng bị thu hút bởi những hoạt động có mục đích đòi hỏi khả năng tƣ duy và kỹ năng thực tế. Ông cũng đặc biệt nhấn mạnh dự án là một hoạt động có mục đích cụ thể và diễn ra trong môi trƣờng học tập dân chủ, khuyến khích sáng tạo của ngƣời học. Ở châu Âu, nhà giáo dục ngƣời Pháp Celestin Freinet (1869-1966) là ngƣời tiên phong trong việc nghiên cứu và thực hiện phƣơng pháp dạy học theo dự án. Freinet cho rằng học sinh nên học từ các buổi thảo luận và dã ngoại nhƣ một quá trình học tâp từ việc ―thử - sai‖. Lớp học khi đó không còn là một lớp học khép kín mà là môi trƣờng diễn ra các hoạt động phức hợp: nghiên cứu, điều tra, khảo sát ở những phạm vi, bối cảnh khác nhau. Những khẳng định này là tiền đề đƣa đến yêu cầu học sinh phải đóng các vai xã hội khác nhau để giải quyết các vấn đề có tính thực tế trong dạy học dự án. Tại Việt Nam, dạy học dự án bƣớc đầu đƣợc giới thiệu một cách tổng quan qua cuốn “Giáo dục học” (2002) của tác giả Phạm Viết Vƣợng. Với những vấn đề lý luận vững chắc và cụ thể, tác giả đã khẳng định ƣu thế của dạy học theo dự án nhƣ là một minh chứng cho việc cần có sự đổi mới, hƣớng tới các phƣơng pháp dạy học hiện đại cho tƣơng lai. Trong cuốn sách “Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục trung học phổ thông môn Ngữ Văn”, tác giả Nguyễn Hải Châu đã có phần giới thiệu và phân tích về dạy học theo dự án. Đây cũng là một dấu hiệu khẳng định quá trình hoàn thiện hóa hệ thống lý luận về phƣơng pháp dạy học tích cực này. 4 Bên cạnh các công trình trên thì thành tựu nổi bật nhất trong việc nghiên cứu ứng dụng dạy học theo dự án phải kể đến ―chƣơng trình dạy học cho tƣơng lai‖ trong chƣơng trình giáo dục của tập đoàn Intel tại Việt Nam với tập tài liệu “Teach to the Future” (dạy học cho tƣơng lai). Cuốn sách này kèm theo đĩa CD chƣơng trình đƣợc coi là cẩm nang hỗ trợ, hƣớng dẫn cho ngƣời dạy cách tiếp cận và tiến hành tổ chức dạy học theo dự án theo từng giai đoạn cụ thể từ lập kế hoạch, xây dựng hồ sơ bài dạy, đánh giá dự án, các mẫu sản phẩm dự án, cách sử dụng công nghệ thông tin và trang web học tập. Ngoài các công trình nghiên cứu trên về dạy học dự án, còn có các bài viết nghiên cứu trên các báo, tạp chí khoa học, giáo dục và các luận án xung quanh vấn đề dạy học dự án. Tiểu biểu nhƣ các bài viết và nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Văn Cƣờng và Nguyễn Thị Diệu Thảo (2004), Đỗ Hƣơng Trà (2007), Trần Thị Hoàng Yến (2010) đăng trên tạp chí giáo dục. Các bài viết của các tác giả trên chủ yếu đi sâu vào tiến trình thực hiện dạy học theo dự án thông qua việc ứng dụng trong một lĩnh vực hay một nội dung kiến thức cụ thể của các bộ môn khoa học tự nhiên.. Qua một số thống kê việc nghiên cứu và ứng dụng dạy học dự án, có thể thấy rằng dạy học theo dự án không phải là xa lạ trong lĩnh vực giáo dục ở nƣớc ta và trên thế giới. Tuy nhiên hầu hết các nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở những vấn đề về mặt lí thuyết của dạy học dự án, chƣa cung cấp một sự hỗ trợ thực sự đầy đủ để ngƣời dạy có thể dễ dàng triển khai áp dụng, nhất là trong lĩnh vực khoa học xã hội, khi mà việc triển khai dạy học theo dự án còn nhiều khó khăn. Việc hiểu rõ ràng và cụ thể về dạy học theo dự án, quy trình hóa việc tổ chức dạy học theo dự án, đánh giá trong dạy học dự án vẫn còn là những vấn đề còn cần đƣợc nghiên cứu thêm. 3. Mục đích nghiên cứu Mục đích của đề tài luận văn này là xây dựng và đề xuất quy trình tổ chức dạy học theo dự án trang bị cho giáo viên Ngữ văn vận dụng vào dạy học văn học nƣớc ngoài lớp 11, góp phần đổi mới và nâng cao hiệu quả dạy học môn học. 5 4. Đối tƣợng, khách thể nghiên cứu - Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy học Ngữ văn lớp 11 ở trƣờng THPT. - Đối tƣợng nghiên cứu: Khả năng vận dụng quy trình tổ chức dạy học theo dự án cho dạy học Ngữ văn: phần văn học nƣớc ngoài lớp 11 (chƣơng trình nâng cao). 5. Giả thuyết nghiên cứu Xây dựng và ứng dụng đƣợc quy trình tổ chức dạy học theo dự án phần văn học nƣớc ngoài lớp 11 sẽ phát huy đƣợc vai trò tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh, góp phần vào việc đổi mới phƣơng pháp dạy học, nâng cao hiệu quả dạy học Ngữ văn. 6. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu một số vấn đề lí luận, các quan điểm về dạy học dự án - Khảo sát, phân tích, đánh giá thực tế dạy học phần văn học nƣớc ngoài hiện nay, khả năng áp dụng dạy học theo dự án trong dạy học Ngữ văn và dạy học văn học nƣớc ngoài lớp 11. - Xây dựng quy trình tổ chức dạy học theo dự án cho phần văn học nƣớc ngoài lớp 11: + Xây dựng cơ sở lí luận của việc áp dụng dạy học theo dự án vào dạy học Ngữ văn nói chung và phần văn học nƣớc ngoài nói riêng. + Xây dựng đƣợc các bƣớc trong quy trình tổ chức dạy học theo dự án cho dạy học phần văn học nƣớc ngoài lớp 11. + Vận dụng quy trình trên vào soạn giáo án giảng dạy. - Tổ chức thực nghiệm sƣ phạm. 7. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nội dung: phần văn học nƣớc ngoài lớp 11, chƣơng trình nâng cao. - Phạm vi khảo sát: Một số trƣờng THPT ở Hà Nội, Thái Bình, Bắc Ninh, Hải Phòng. 8. Phƣơng pháp nghiên cứu - Nghiên cứu tài liệu: tham khảo tài liệu, sách, bài báo đề cập tới vấn đề nghiên cứu. 6 - Phƣơng pháp quan sát: quan sát dự giờ, quan sát phƣơng pháp giảng dạy các bài văn học nƣớc ngoài trong trƣờng THPT. - Phƣơng pháp điều tra phỏng vấn: phỏng vấn giáo viên và học sinh để thu thập ý kiến về việc sử dụng phƣơng pháp dạy học Ngữ văn hiện tại đang đƣợc sử dụng. - Phƣơng pháp thực nghiệm: xây dựng quy trình tổ chức dạy học theo dự án và vận dụng soạn giáo án, thực nghiệm giảng dạy để kiểm tra tính khả thi của phƣơng pháp dạy học cho phần kiến thức này. - Phƣơng pháp xử lí thông tin, phân tích kết quả: xử lý thông tin thu thập đƣợc và đƣa ra những đánh giá riêng. 9. Những đóng góp của luận văn - Hệ thống hóa đƣợc một số vấn đề lí luận của dạy học theo dự án và làm rõ đƣợc sự phù hợp của dạy học theo dự án khi áp dụng cho dạy học Ngữ văn ở trƣờng THPT (phần văn học nƣớc ngoài chƣơng trình Ngữ văn 11 nâng cao). - Xây dựng và đề xuất vận dụng quy trình dạy học theo dự án cho giáo viên THPT trong dạy học phần văn học nƣớc ngoài lớp 11 chƣơng trình nâng cao. 10. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận văn có kết cấu gồm có 3 chƣơng: Chƣơng 1: Những vấn đề lí luận về dạy học dự án Chƣơng 2: Khả năng vận dụng dạy học theo dự án trong dạy học văn học nƣớc ngoài lớp 11 chƣơng trình nâng cao. Chƣơng 3: Quy trình tổ chức dạy học theo dự án và thực nghiệm sƣ phạm 7 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ DẠY HỌC DỰ ÁN 1.1. Khái niệm dạy học dự án Thuật ngữ dự án, tiếng Anh là project, có nguồn gốc từ tiếng La tinh và ngày nay đƣợc hiểu theo nghĩa phổ thông là một đề án, một dự thảo hay một kế hoạch trong đó đề án, dự thảo hay kế hoạch này cần đƣợc thực hiện nhằm đạt mục đích đề ra. Khái niệm dự án đƣợc sử dụng phổ biến trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế - xã hội, trong sản xuất kinh doanh, trong nghiên cứu khoa học cũng nhƣ trong quản lý xã hội. Khái niệm dự án đã đi từ lĩnh vực kinh tế - xã hội vào lĩnh vực giáo dục đào tạo không chỉ với ý nghĩa là các dự án phát triển giáo dục mà còn đƣợc sử dụng nhƣ một phƣơng pháp hay hình thức dạy học. Khái niệm Project đƣợc sử dụng trong các trƣờng dạy kiến trúc xây dựng ở Ý từ cuối thế kỷ XVI. Từ đó tƣ tƣởng dạy học theo dự án lan sang Pháp cũng nhƣ một số nƣớc Châu Âu khác và Mỹ, trƣớc hết trong các trƣờng đại học và chuyên nghiệp. Đầu thế kỷ XX, các nhà sƣ phạm Mỹ đã xây dựng cơ sở lí luận cho phƣơng pháp dự án (the project method) và coi đó là phƣơng pháp dạy học quan trọng nhất để thực hiện quan điểm dạy học lấy học sinh làm trung tâm, nhằm khắc phục nhƣợc điểm của dạy học truyền thống coi thầy giáo là trung tâm. Phƣơng pháp dạy học dự án hƣớng học sinh đến việc tiếp thu kiến thức và kỹ năng thông qua giải quyết một bài tập tình huống đƣợc gọi là một dự án học tập. Dự án học tập này có thể là một vấn đề trong bài, một bài hoặc nhóm bài học, trong đó các nhiệm vụ học tập đƣợc gắn với những vấn đề thực tiễn quen thuộc hoặc ý nghĩa đối với ngƣời học. Ngƣời học sẽ lĩnh hội các kiến thức, kỹ năng liên quan đến việc thực hiện dự án học tập, xây dựng các nhiệm vụ thực, quan sát và giải quyết các vấn đề mang tính thực tiễn. Ngƣời dạy sẽ gợi ý, cung cấp các nguồn thông tin cần thiết cho ngƣời học hoặc tham gia một cách gián tiếp vào quá trình này thông qua việc định hƣớng, gợi ý vấn đề, kích thích hứng thú…cho ngƣời học. 8 Ban đầu, phƣơng pháp dự án đƣợc sử dụng trong dạy học thực hành các môn học kỹ thuật. Về sau, dạy học dự án đƣợc dùng trong hầu hết các môn học khác, kể cả các môn khoa học xã hội. Sau một thời gian dài đƣợc sử dụng, đến nay dạy học dự án đang là một trong những mô hình dạy học tích cực đƣợc sử dụng phổ biến trong các trƣờng phổ thông và đại học trên thế giới, đặc biệt ở các nƣớc phát triển. Ở nƣớc ta, các đề án môn học, đề án tốt nghiệp từ lâu cũng đã đƣợc sử dụng trong đào tạo đại học, các hình thức này gần gũi với dạy học theo dự án. Tuy vậy, trong lĩnh vực lý luận dạy học, dạy học dự án chƣa đƣợc quan tâm thích đáng nên việc sử dụng chƣa đạt hiệu quả cao. Nhìn chung, trong thời gian gần đây mới thực hiện ở các trƣờng đại học, còn ít hoặc chƣa đƣợc áp dụng cho các trƣờng THPT. Hiện nay, có nhiều quan điểm và định nghĩa khác nhau về dạy học theo dự án (Project - based learning). Dạy học theo dự án đƣợc nhiều nhà nghiên cứu, nhiều tác giả coi là một hình thức tổ chức dạy học vì khi thực hiện một dự án, có nhiều phƣơng pháp dạy học cụ thể đƣợc sử dụng. Tuy nhiên, khi không phân biệt giữa hình thức và phƣơng pháp dạy học ngƣời ta cũng gọi là phƣơng pháp dạy học theo dự án (phƣơng pháp dạy học dự án). Khi đó cần hiểu đó là phƣơng pháp dạy học theo nghĩa rộng, một cách tiếp cận dạy học, một phƣơng pháp phức hợp, hay nói cách khác cần hiểu dạy học theo dự án là một phƣơng pháp dạy học trong nhiều phƣơng pháp dạy học. Nhƣ vậy có thể dùng hình thức tổ chức dạy học hoặc phƣơng pháp dạy học để gọi dạy học theo dự án, tuy nhiên cần hiểu là phƣơng pháp theo nghĩa rộng nhƣ đã nêu. Nhƣ vậy, dù cách gọi dạy học dự án là phƣơng pháp dạy học hay hình thức tổ chức dạy học thì bản chất của dạy học dự án (hay còn gọi là dạy học theo dự án) vẫn là sự chuyển đổi ngƣời học sang cơ chế tự định hƣớng cá nhân trong hoạt động học tập, cộng tác, chuyển từ cách dạy ―thầy nói‖ trên bục giảng sang hƣớng dẫn ―trò làm‖ nhiệm vụ thực (From sage on the stage to guide on the side, Alison King, 1993). 9 Khi tổ chức dạy học theo dự án tức là học sinh thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp gắn với thực tiễn, kết hợp lý thuyết với thực hành; nhiệm vụ học tập đƣợc học sinh thực hiện với tính tự lực cao trong toàn bộ quá trình học tập từ việc xác định mục đích, lập kế hoạch đến việc thực hiện và kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá kết quả. Hình thức làm việc chủ yếu là theo nhóm và hoạt động của cá nhân, kết quả dự án là các sản phẩm có thể giới thiệu nhƣ các bài viết, tập tranh ảnh sƣu tầm, chƣơng trình hành động cụ thể, các trang web, blog học tập, bài trình diễn… 1.2. Mục đích và đặc điểm của dạy học dự án 1.2.1. Mục đích của dạy học dự án Mục đích của dạy học dự án là tạo mọi cơ hội, điều kiện và khả năng để ngƣời học: chủ động lĩnh hội các kiến thức môn học từ nhiều nguồn khác nhau một cách đa dạng và hứng thú nhất; học cách vận dụng các kiến thức lý thuyết vào giải quyết các nhiệm vụ mang tính thực tiễn, khám phá, sáng tạo, tăng khả năng giao tiếp, hình thành các kỹ năng sống, kỹ năng mềm, phát triển năng lực tìm tòi, nghiên cứu khoa học, quan sát, thu thập và xử lý thông tin, triển khai thử nghiệm…phát triển tƣ duy phê phán, tƣ duy hệ thống. Dạy học dự án kết hợp nhiều chiến lƣợc dạy học và phong cách học khác nhau nhằm làm tăng thêm kinh nghiệm học tập và sử dụng thời gian hiệu quả cho ngƣời học. 1.2.2. Đặc điểm của dạy học dự án Các nhà sƣ phạm Mỹ đầu thế kỷ XX khi xác lập cơ sở lý thuyết cho dạy học dự án đã nêu ra 3 đặc điểm cốt lõi của mô hình dạy học này, đó là: - Định hƣớng vào học sinh, - Định hƣớng vào sản phẩm - Định hƣớng vào thực tiễn [32]. Trên thực tế có rất nhiều kiểu dự án có thể tiến hành tổ chức trong quá trình dạy học. Tuy đa dạng nhƣng tất cả các kiểu dạng dự án học tập đều 10 mang những đặc điểm của dạy học dự án. Có thể cụ thể hóa các đặc điểm của dạy học dự án nhƣ sau: - Tính thực tiễn: Chủ đề của dự án xuất phát từ những tình huống của thực tiễn xã hội, thực tiễn nghề nghiệp cũng nhƣ thực tiễn đời sống. Chẳng hạn nhƣ: vấn đề về môi trƣờng, giao thông, văn hóa ứng xử trong xã hội…Những chủ đề đó gợi ra những nhiệm vụ thực, yêu cầu học sinh phải đối mặt và giải quyết những nhiệm vụ đó. Nhiệm vụ dự án chứa đựng những vấn đề phù hợp với trình độ và khả năng của ngƣời học, do đó không chỉ dừng lại ở việc mô tả về mặt lý thuyết. Dạy học dự án mang ý nghĩa thực tiễn xã hội. Các dự án học tập góp phần gắn việc học tập trong nhà trƣờng với thực tiễn đời sống xã hội. Trong những trƣờng hợp lý tƣởng việc thực hiện các dự án có thể mang lại những tác động xã hội tích cực: tác động vào nhận thức của ngƣời học, hoặc kết quả của dự án có khả năng ứng dụng và rất sát với thực tế diễn ra trong cuộc sống. Ví dụ: dự án cải tạo hồ nƣớc của trƣờng, dự án làm sạch môi trƣờng nƣớc nơi em ở… Với dự án nhƣ thế này học sinh sẽ đóng vai là những kỹ sƣ xây dựng, kỹ sƣ môi trƣờng, khảo sát điều tra mức độ ô nhiễm của hồ nƣớc và môi trƣờng khu phố, tìm hiểu nguyên nhân, đề xuất giải pháp, phƣơng án và chi phí thực hiện…Trong thực tế dự án cải tạo hồ bơi đƣợc học sinh trƣờng THCS Trần Văn Ơn (quận 1, thành phố Hồ Chí Minh) thực hiện ở môn Toán. Học sinh đóng vai kỹ sƣ xây dựng, khảo sát thiết kế, đo đạc diện tích, tính toán số lƣợng gạch, tìm hiểu chủng loại, giá thành…Kết quả hồ bơi đƣợc tính toán cải tạo với giá 30 triệu đồng, gần tƣơng ứng với số kinh phí thật mà nhà trƣờng phải bỏ ra nếu muốn cải tạo hồ bơi này (theo báo Thiếu niên tiền phong, số ra ngày 5/9/2006). - Tính tích hợp, liên môn: Nội dung kiến thức trong dạy học dự án là nội dung mang tính liên môn, tích hợp tri thức của nhiều lĩnh vực hoặc môn học khác nhau nhằm giải 11 quyết một vấn đề, một tình huống thực mang tính phức hợp. Nhiều nhiệm vụ đƣợc đặt ra cùng lúc trong quá trình thực hiện một dự án. Mặt khác, dạy học dự án cho phép áp dụng phức hợp tối đa các nhóm phƣơng pháp và kỹ thuật dạy học khác nhau trong qua trình giáo viên tổ chức dạy học. Đồng thời dạy học dự án cũng cho phép áp dụng và hiện thực hóa tối đa những kiến thức nền vào các tình huống thực tế dạy học. Đó là sự tích hợp kiến thức và phƣơng pháp dạy học trong dạy học sự án. - Gắn lý thuyết với thực hành: Trong quá trình thực hiện dự án có sự kết hợp giữa nghiên cứu lý thuyết và vận dụng lý thuyết vào trong hoạt động thực tiễn, thực hành. Thông qua đó, kiểm tra, củng cố và mở rộng hiểu biết lý thuyết cũng nhƣ rèn luyện kỹ năng hành động, kinh nghiệm thực tiễn. - Tính hành động và tự lực cao của người học: Học tập dựa trên dự án là học tập trong hành động. Học sinh không còn là đối tƣợng chứa đựng thông tin một cách bị động mà là ngƣời chủ động, tích cực nắm bắt kiến thức bằng cách thực hành giải quyết các nhiệm vụ thực, các vấn đề thực. Trong dạy học theo dự án, ngƣời học phải tham gia tích cực và tự lực vào các giai đoạn của quá trình dạy học. Điều đó cũng đòi hỏi và khuyến khích tính trách nhiệm, sự sáng tạo của ngƣời học. Thầy cô giáo chỉ đóng vai trò tƣ vấn, hƣớng dẫn, giúp đỡ. Ví dụ: Khi học bài ―Viết quảng cáo‖ (SGK Ngữ Văn 10), thay vì đọc và nhắc lại nội dung kiến thức trong sách, học sinh sẽ dựa trên những kiến thức trong sách và thiết kế nội dung quảng cáo phù hợp với một loại hình quảng cáo nhất định cho một sản phẩm nào đó, giới thiệu sản phẩm với khách hàng để thăm dò phản ứng. Qua thực hiện các hoạt động học tập từ thực tế đó, học sinh sẽ rút ra đƣợc những kinh nghiệm về cách tạo lập văn bản quảng cáo. - Hướng tới sự cộng tác làm việc: Do các nhiệm vụ đặt ra trong dạy học theo dự án tƣơng đối phức tạp nên nó đòi hỏi phải có sự cộng tác chặt chẽ, liên tục trong quá trình làm việc. 12 Các dự án học tập thƣờng đƣợc thực hiện theo nhóm, trong đó có sự phân công công việc giữa các thành viên trong nhóm. Dạy học dự án đòi hỏi và rèn luyện tính sẵn sàng và kỹ năng cộng tác làm việc giữa các thành viên tham gia, giữa giáo viên và học sinh…Sự cộng tác này có thể có ở nhiều mức độ, quy mô và đối tƣợng khác nhau, giữa những ngƣời cùng tham gia dự án hoặc hỗ trợ dự án: + Cộng tác giữa giáo viên và học sinh: Giáo viên hƣớng dẫn, tƣ vấn, nhận xét quá trình làm việc đề học sinh có sự điều chỉnh kịp thời. Học sinh thƣờng xuyên phản hồi thông tin cho giáo viên, thông báo tiến độ thực hiện dự án học tập, và có thể đề xuất thêm những ý tƣởng mới. + Cộng tác giữa học sinh và học sinh: Đây là sự cộng tác phổ biến nhất hiện nay, bởi việc tổ chức dạy học dự án thƣờng phân chia nhiệm vụ học tập theo nhóm và việc hoàn thành các nhiệm vụ của dự án vì thế cũng thƣờng đƣợc tiến hành theo nhóm. Kỹ năng làm việc nhóm cũng là một tiêu chí đánh giá học sinh trong quá trình dạy học dự án. + Cộng tác giữa các lực lƣợng xã hội khác cùng tham gia dự án, ví dụ nhƣ các bậc phụ huynh, các nhà tài trợ xã hội… Đặc điểm này của dạy học dự án khiến cho dạy học dự án đƣợc gọi là hình thức học tập mang tính xã hội. - Định hướng sản phẩm dựa trên việc xác định chuẩn: Trong dạy học dự án, các sản phẩm đƣợc tạo ra trong quá trình thực hiện dự án. Các sản phẩm không giới hạn trong những thu hoạch lí thuyết mà đa số trƣờng hợp sản phẩm của các dự án học tập là những sản phẩm vật chất của hoạt động thực tiễn, thực hành. Những sản phẩm này có thể sử dụng, công bố, hoặc giới thiệu. Việc xác định sản phẩm của dự án đƣợc dựa trên căn cứ đƣợc gọi là chuẩn. Dạy học dự án là dạy học hƣớng đến chuẩn và khi áp dụng tổ chức dạy học dự án, ngƣời dạy cần xác định: chúng ta muốn học sinh biết đƣợc những gì và học/làm đƣợc những gì? Việc giáo viên trả lời câu hỏi đó chính là việc 13 xác định chuẩn - đó là căn cứ để đánh giá mức độ hoàn thành sản phẩm của học sinh. Kết quả sản phẩm của dạy học theo dự án bao giờ cũng là một sản phẩm có ý nghĩa tƣơng đối với ngƣời học, có thể sử dụng (căn cứ tùy theo mức độ ứng dụng thực tế của sản phẩm), công bố - giới thiệu nhƣ các vật phẩm, các bản dự thảo, thiết kế, các ấn phẩm điện tử…Việc đánh giá mức độ đạt chuẩn của ngƣời học chính là dựa trên mức độ hoàn thành sản phẩm của họ bao gồm quá trình thực hiện sản phẩm, cách trình bày, giới thiệu sản phẩm và chất lƣợng sản phẩm. Do vậy, khi bắt đầu triển khai một dự án học tập cho học sinh cần phải có định hƣớng về sản phẩm một cách rõ ràng. - Hướng đến người học: Trong dạy học dự án học sinh là trung tâm việc học của bản thân họ. Học sinh tham gia hoàn toàn tích cực, tự lực và chủ động vào tất cả các giai đoạn của việc thực hiện dự án học tập nhƣ: tự xây dựng mục tiêu, nhiệm vụ, lập kế hoạch, thực hiện dự án, hoàn thành sản phẩm cuối, báo cáo kết quả dự án…Giáo viên chỉ là ngƣời tƣ vấn, hỗ trợ và định hƣớng, không phải là ngƣời điều khiển, làm trung tâm của toàn bộ quá trình dạy học. Sự phát triển trong tƣ duy và năng lực hành động của học sinh đƣợc ƣu tiên hàng đầu trong dạy học dự án. Quá trình dạy học đƣợc thiết kế không theo logic nội dung môn học mà theo logic hoạt động có tính đến yếu tố cá nhân (năng lực, trình độ, khả năng thích ứng với các ―vai xã hội‖…) nhằm kích thích động cơ, sự quan tâm, hứng thú của ngƣời học. Tùy vào từng đối tƣợng ngƣời học mà mức độ yêu cầu cũng nhƣ tính chất các nhiệm vụ học tập có sự điều chỉnh phù hợp, tƣơng ứng. Quá trình lĩnh hội kiến thức cũng đƣợc diễn ra một cách tự nhiên, đa dạng, phong phú, có tính đến đặc điểm cá nhân ngƣời học, mang tính liên ngành, xác thực và thách thức cao đối với ngƣời học. Tốc độ thực hiện công việc và nhiệm vụ học tập không đồng nhất, phản ánh rõ nét mức độ phát triển của từng cá nhân ngƣời học 14 - Dạy học dự án yêu cầu áp dụng đánh giá thực và toàn diện trên cơ sở sự thể hiện của ngƣời học trong suốt quá trình thực hiện dự án học tập. Nhƣ vậy, dạy học theo dự án có những đặc điểm riêng của nó, khi triển khai chúng ta nên chú ý đến những đặc điểm đó để thu đƣợc hiệu quả trong quá trình áp dụng và thực hiện. 1.3. Các dạng của dạy học dự án Dạy học dự án có thể phân loại theo nhiều phƣơng diện khác nhau. Có thể dựa trên một số tiêu chí chung để phân chia các dự án học tập nhƣ: - Theo chuyên môn - Theo lĩnh vực, chủ đề, chủ điểm - Theo quy mô tổ chức hoạt động - Theo thời gian thực hiện - Theo số lƣợng ngƣời tham gia... Dƣới đây là một số cách phân loại dạy học theo dự án:  Phân loại theo chuyên môn - Dự án trong một môn học: trọng tâm nội dung nằm trong một môn học. - Dự án liên môn: trọng tâm nội dung nằm trong nhiều môn khác nhau. - Dự án ngoài chuyên môn: là các dự án không phụ thuộc trực tiếp vào các môn học.  Căn cứ vào hoạt động chính của người học, Collins (1989) chia dự án học tập thành: - Dự án kiểu trò chơi - Dự án đóng vai - Dự án tham quan, dã ngoại - Dự án mô tả (thuyết trình, nói chuyện chuyên đề, sinh hoạt chủ đề) - Dự án kiến tạo (ý tƣởng thực hiện hoạt động tạo ra một sản phẩm cụ thể).  Căn cứ vào hình thức, quy mô tổ chức thực hiện có thể phân loại: 15 - Theo sự tham gia của người học: + Dự án theo nhóm + Dự án cá nhân + Dự án trong nội bộ lớp học + Dự án liên kết giữa các lớp, trƣờng… Trong đó dự án dành cho nhóm học sinh là hình thức dự án dạy học chủ yếu. Trong trƣờng phổ thông còn có dự án học tập dành cho một khối lớp, dự án toàn trƣờng… - Theo quỹ thời gian thực hiện, K. Frey đề nghị cách phân chia như sau: + Dự án nhỏ: thực hiện trong một số giờ học, có thể từ 2 đến 6 giờ học. Dự án kiểu này còn đƣợc gọi là dự án ngắn hạn. + Dự án trung bình: dự án học tập thực hiện trong một hoặc một số ngày, giới hạn là 1 tuần hoặc 40 giờ học. + Dự án lớn: dự án học tập thực hiện với quỹ thời gian lớn, tối thiểu là 1 tuần (hoặc 40 giờ học), có thể kéo dài nhiều tuần (cả học kì, năm học). Cách phân chia này thƣờng áp dụng ở trƣờng phổ thông. Trong đào tạo ở các trƣờng đại học thì thƣờng có thể quy định quỹ thời gian lớn hơn.  Dựa theo nhiệm vụ trọng tâm của dự án có thể chia thành các dạng dự án như sau: - Dự án tìm hiểu là dự án khảo sát thực trạng đối tƣợng. - Dự án nghiên cứu là dự án nhằm giải quyết các vấn đề, giải thích các hiện tƣợng, quá trình. - Dự án thực hành có thể gọi là dự án sáng tạo sản phẩm. Trọng tâm là việc tạo ra các sản phẩm vật chất hoặc thực hiện một kế hoạch hành động thực tiễn. - Dự án hỗn hợp là dạng dự án có nội dung kết hợp các dạng dự án nêu trên. Các loại dự án trên không hoàn toàn tách biệt với nhau, sự phân chia chỉ là tƣơng đối, giúp có cái nhìn cụ thể về dạy học theo dự án. Trong từng lĩnh vực chuyên môn có thể phân loại các dạng dự án học tập theo đặc thù 16 riêng. Các loại dự án sử dụng trong dạy học thƣờng là dự án nghiên cứu sâu về các chủ đề thực tế và các vấn đề mà học sinh muốn tìm hiểu. Các dự án sẽ kết hợp đƣợc các yếu tố nhƣ hoạt động đóng vai một cách sáng tạo nhất, thiết kế, công nghệ, cộng đồng với các chủ đề đa dạng trong chƣơng trình nhằm giúp học sinh tìm hiểu về nội dung và thể hiện đƣợc những điều mà các em biết. Dƣới đây là một số ví dụ về ý tƣởng dự án: - Học thông qua việc phục vụ cộng đồng: Những dự án này thƣờng gắn với cộng đồng địa phƣơng và cho phép học sinh áp dụng bài học trong lớp học vào tình huống thực tế. Chẳng hạn dự án xây dựng kế hoạch xử lý nƣớc để làm sạch nƣớc ở khu vực các giếng nƣớc ở địa phƣơng em. - Mô phỏng - đóng vai: Những dự án này thiết kế nhằm cung cấp cho học sinh một kinh nghiệm thực tế đầu tay. Học sinh sẽ vào vai một ngƣời khác, sống trong một tình huống mô phỏng tái tạo lại thời gian và không gian nhất định. Mô phỏng đóng vai là cách hữu hiệu để phản ánh lịch sử, mang lại hiệu quả tạo sự thấu cảm tốt. Chẳng hạn nhƣ dự án đóng vai ngƣời phát ngôn giới thiệu về đất nƣớc bạn với chủ đề: điểm đến Việt Nam - tƣơng lai và hy vọng. - Xây dựng, thiết kế: Những dự án này dựa trên nhu cầu thực tế, đòi hỏi học sinh phải xây dựng đƣợc mô hình thực sự hay lập kế hoạch đề xuất giải pháp cho các vấn đề thực tế. Chẳng hạn: xây dựng kế hoạch và thực hiện điều chế axit sunfuric. - Giải quyết vấn đề: Các dự án giải quyết vấn đề có thể gồm các chuỗi sự kiện đáng tin cậy hay những vấn đề đang tranh cãi trên thực tế. Có thể là những vấn đề của lớp học hay nhà trƣờng, vấn đề của cộng đồng nhƣ ô nhiễm môi trƣờng, nguồn nƣớc…Học sinh sẽ đƣợc yêu cầu đề xuất giải pháp cho các vấn đề thực tế bằng một kế hoạch. - Hợp tác trực tuyến: Những dự án này là các nhiệm vụ giáo dục thực hiện trực tuyến. Các dự án cung cấp kinh nghiệm học tập thực tế khi hợp tác trực tuyến. Các dự án cung cấp kinh nghiệm học tập thực tế khi hợp tác trực tuyến với các lớp khác, với các chuyên gia hay với mọi ngƣời. 17 - Tra cứu web: Đây là các hoạt động yêu cầu định hƣớng trong đó một số hay tất cả các thông tin mà ngƣời học sử dụng đƣợc lấy từ nguồn internet. Các dự án này đƣợc thiết kế nhằm nhắm đến việc lĩnh hội và tích hợp kiến thức. Mặc dù dạy học dự án có nhiều hình thức nhƣng cho dù là dƣới hình thức nào thì khi giáo viên xây dựng dự án học tập cũng cần chú ý đến những yêu cầu sau: - Mục tiêu dự án rõ ràng: mục tiêu nhận thức, mục tiêu kỹ năng hành động, tổ chức, triển khai… - Lựa chọn nội dung môn học phù hợp với các hoạt động dự án (tính mở, tính liên ngành, tạo điều kiện hợp tác sử dụng công nghệ, các phƣơng pháp nghiên cứu đa dạng…) - Mô tả rõ ràng các sản phẩm - Kế hoạch chi tiết, nhiệm vụ tƣờng minh, cụ thể. - Thiết kế các hoạt động trình bày, đánh giá sản phẩm. 1.4. Tiến trình dạy học dự án và các hoạt động tƣơng ứng của thầy - trò 1.4.1. Tiến trình dạy học dự án Trong thực tế có rất nhiều kiểu dự án học tập dựa trên những tiêu chí phân loại khác nhau, xong đều có những đặc điểm chung của dạy học dự án và đều trải qua một tiến trình thực hiện về cơ bản là giống nhau. Có nhiều quan điểm về cách phân chia các giai đoạn trong tiến trình dạy học theo dự án, nhƣng hầu hết các nhà giáo dục đều thống nhất với cách phân chia thành 5 giai đoạn.  Giai đoạn 1: Xây dựng tiền đề dự án Xây dựng tiền đề cho dự án cần tiến hành qua các bƣớc cụ thể sau: - Chọn chủ đề (tên, đề tài) dự án Việc lựa đề tài, chủ đề cho dự án đƣợc coi là bƣớc phát triển ý tƣởng đầu tiên cho ngƣời học trong quá trình dạy học theo dự án. Có hai cơ sở để xác định tên đề tài, chủ đề của dự án, đó là: Thứ nhất, căn cứ vào việc phân tích nội dung chƣơng trình môn học, khả năng kết hợp nội dung các bài học trong bộ môn đó hoặc với các bộ môn khác. 18 Thứ hai, căn cứ vào các vấn đề thực tiễn đang đƣợc xã hội quan tâm, có khả năng trở thành một tình huống cho học sinh giải quyết (còn gọi là mô phỏng tình huống thực). Tính tích cực chủ thể của ngƣời học cũng đƣợc thể hiện rõ trong bƣớc lựa chọn tên chủ đề, đề tài dự án. Trên thực tế, việc lựa chọn tên đề tài, chủ đề của dự án có thể tiến hành với sự tham gia của ngƣời dạy và ngƣời học ở những mức độ khác nhau: + Giáo viên lựa chọn chủ đề, đề tài, giới thiệu và yêu cầu học sinh thực hiện nhƣ là một bài tập với hình thức mới. + Giáo viên và học sinh cùng thảo luận để đi đến việc thống nhất tên đề tài, chủ đề của dự án. Ý tƣởng của học sinh là cơ bản, giáo viên chỉ đóng vai trò là ngƣời phân tích, đóng góp, điều chỉnh cho phù hợp hơn. + Học sinh chủ động đề xuất tên đề tài, chủ đề dự án và thuyết phục giáo viên ủng hộ việc thực hiện dự án đó. Một dự án học tập đƣợc coi là lý tƣởng khi phát huy tối đa vai trò chủ động, tích cực của học sinh (học sinh chủ động đề xuất chủ đề dự án). Tuy nhiên trên thực tế, việc triển khai dạy học dự án vẫn còn gặp khá nhiều khó khăn và thách thức. Theo quan sát thì hiện nay hình thức giáo viên và học sinh cùng thảo luận, lựa chọn ý tƣởng dự án là phổ biến nhất. Khi lựa chọn đề tài, chủ đề dự án cần chú ý đến hứng thú của ngƣời học cũng nhƣ ý nghĩa xã hội của đề tài. - Xác định sản phẩm cuối: Sản phẩm cuối của dạy học dự án không chỉ là những sản phẩm thuần túy về mặt vật chất mà là tất cả những gì thu đƣợc, tạo nên sự thay đổi về chất ở ngƣời học. Sau quá trình học tập, học sinh không chỉ lĩnh hội đƣợc kiến thức, không chỉ tạo ra đƣợc những thành phẩm có giá trị xác thực nhƣ: bài báo, một website, một video, tranh ảnh…mà còn tích lũy đƣợc những kỹ năng nhất định, cần thiết cho việc học tập cũng nhƣ cho sự phát triển bản thân trong tƣơng lai. 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng

Tài liệu xem nhiều nhất